Giang đông song bích – Chương 31-37

    Thuộc truyện: Giang đông song bích

    Chương 31: Song hỉ

    Đêm đó đổ trận tuyết lớn trăm năm hiếm gặp, đất trời phủ trắng một màu, nến đỏ sắp tàn, tiếng đàn réo rắt vang lên.

    Âm thanh văng vẳng như phác họa vạn dặm núi sông, trải dài vô tận.

    Sau khi viên phòng, Tôn Sách ngồi trong phòng uống canh mẫu thân đưa tới.

    Tiếng đàn xa dần như ngỏ lời từ biệt, trời cao biển rộng, lặng lẽ tan đi.

    Tôn Sách do dự mấy lần, muốn đứng lên đi, Đại Kiều hỏi, “Sao vậy?”

    Tôn Sách suy nghĩ, hỏi, “Có đưa canh qua bên kia không?”

    Đại Kiều cười nói, “Có chứ, muốn qua đó thì đi đi, thấy hai người một khắc cũng không thể rời xa.”

    “Thôi thôi.” Tôn Sách nói, “Trước khi thành thân thì mỗi người một nơi, không thèm quan tâm hắn nữa, ngủ thôi.”

    “Chu Lang?” Tiểu Kiều dịu dàng nói.

    Chu Du gác đàn, quay đầu hỏi, “Nàng có đồng ý theo ta đến Đan Dương không?”

    Tiểu Kiều cười đáp, “Gả cho chàng, đương nhiên phải theo chàng.”

    “Còn cha nàng, chị nàng…” Chu Du không yên lòng.

    “Đan Dương cũng không xa nơi này.” Tiểu Kiều nói.

    Giọng của Tiểu Kiều rất êm tai, như dòng suối trong vắt lặng lẽ chảy trong đêm, khiến băng tuyết trong lòng Chu Du từ từ tan đi.

    Hôm sau, chim hót không ngừng, trên cành mai đọng một lớp tuyết dày.

    Tiểu Kiều Đại Kiều tính đến gặp em chồng, nhưng Tôn Quyền chinh chiến chưa về, chỉ có Tôn Thượng Hương thay anh nhận lễ, lạy tạ cao đường.

    Lúc ăn sáng, Chu Du nói, “Mấy ngày nữa ta lên đường về Đan Dương.”

    Tôn Sách ngẩn ra, tay cầm đũa khựng giữa không trung.

    “Tôn Quyền đi rồi, chỉ còn Lã Mông.” Chu Du nói, “Ta không yên tâm.”

    Tôn Sách nói, “Tính chuẩn bị xuất binh đánh Kinh Châu, định hỏi ý đệ. Mấy tháng nữa rồi đi được không?”

    Không khí hơi căng thẳng, Chu Du nhìn hai vị mẫu thân, như muốn trưng cầu ý kiến mẹ Chu, mẹ Chu lại nói, “Mẹ ở lại huyện Ngô vậy, mẹ không làm phiền cuộc sống gia đình của hai con, có Tôn phu nhân ở đây nói chuyện mỗi ngày là được rồi.”

    Chu Du gật đầu, Tôn Sách sầm mặt, “Vậy đi đi.”

    Chu Du chưa kịp xuất phát, Tôn Quyền đã quay lại. Ngày đầu tiên Tôn Sách thành thân, Tôn Quyền ba chân bốn cẳng chạy về, rốt cuộc cũng kịp, nhưng đã bỏ lỡ đêm tân hôn, Tôn Sách lại nổi trận lôi đình, phạt Tôn Quyền quỳ giữa sân tuyết, quát mắng một trận.

    Chu Du sai người thu dọn đồ đạc, đổi áo quan, lúc đi qua sân còn nhìn Tôn Quyền.

    Trước mặt anh trai, Tôn Quyền chẳng khác gì con thỏ, không dám hó hé tiếng nào, ngước mắt nhìn Chu Du.

    Chu Du cười nói, “Ta bị đệ hại thảm rồi.”

    Tôn Quyền nói, “Cha của Tào Phi nói… sau này mời huynh uống rượu.”

    Chu Du khoát tay, “Rượu này không thể uống, cũng không dám uống.”

    Tôn Quyền nhoẻn cười. Chu Du nói, “Đến gặp chị dâu đi, ta về Đan Dương, nhớ nghe lời anh, đừng chọc giận y nữa.”

    Tôn Quyền đứng lên hành lễ với Tiểu Kiều, Chu Du dẫn quân rời khỏi huyện Ngô. Về Đan Dương tiếp nhận công việc từ Lã Mông, trước khi chia tay, Chu Du còn dặn đi dặn lại phải cẩn trọng từ lời nói đến việc làm.

    Lúc về đến Đan Dương, Chu Du bỗng có cảm giác nhẹ nhõm khi được về nhà, không ai nhòm ngó, cũng chẳng ai phê bình, mỗi ngày thảnh thơi đọc sách đánh đàn, Tiểu Kiều tuy là con gái danh gia mà quán xuyến mọi chuyện trong phủ vô cùng chu đáo.

    Đông qua xuân đến, năm nay không có thiên tai, cũng không có họa chiến tranh, tất cả tốt đẹp như giấc mơ, huyện Ngô tuy không xa Đan Dương nhưng tin tức lại như cách nghìn dặm. Dưới sự cai trị của Chu Du, lương thực ở Đan Dương chất đầy kho, mọi việc đều ngăn nắp đâu ra đấy.

    Thường có danh sĩ ngưỡng mộ mà đến, ngày mười lăm mỗi tháng, Chu Du đãi tiệc trong phủ, cùng các danh sĩ luận bàn chuyện thiên hạ. Y thuật bỏ phế nhiều năm cũng dần dần luyện lại.

    Điều duy nhất hắn quan tâm là thế cục Kinh Châu. Nếu có thể hạ Kinh Châu, Tào Tháo và Tôn Sách sẽ thống trị cách một con sông. Bất tri bất giác, chí lớn năm xưa đã đi được nửa chặng đường.

    Năm sau, huyện Ngô báo tin Đại Kiều có thai, Tiểu Kiều vui mừng, Chu Du hỏi, “Có muốn về thăm không?”

    Tiểu Kiều nói, “Chờ ít ngày nữa đi, chẳng phải chàng còn bận công chuyện sao?”

    Chu Du đang nghĩ cách tung tin lôi kéo các tộc lớn vùng Ngô Nam, đến lúc Tôn Sách phát binh cũng có thể phối hợp. Vừa hẹn xong ngày gặp mặt các tộc lớn ở Cối Kê, Chu Du không thể đi ngay.

    “Hay là ta phái người đưa nàng qua trước?” Chu Du hỏi.

    Tiểu Kiều nói, “Chờ chàng cùng đi.”

    Ngoại trừ phong thư, Tôn Sách còn gửi đến một cái hộp, Tiểu Kiều chẳng hiểu gì, mở ra xem, bên trong là một cuộn dây.

    “Vầy là có ý gì?” Tiểu Kiều cười hỏi.

    Chu Du không lên tiếng, lát sau nói, “Cất đi.”

    “Đây chẳng phải là dây thả diều à?” Tiểu Kiều lại hỏi.

    Chu Du nói, “Ý của y là, ta chính ta con diều treo trong đại sảnh, dây nằm trong tay y, y muốn ta về thì ta phải về.”

    Tiểu Kiều mỉm cười, cất dây. Chu Du thở dài, viết hồi âm cho Tôn Sách, tờ giấy Tuyên không ghi một chữ, chỉ vẽ hai đứa trẻ thả diều trên bè trúc.

    Mãi đến tháng sáu, Tiểu Kiều cũng có thai, Chu Du mừng rỡ, lập tức viết thư, lần này là Lỗ Túc đến thăm.

    Lỗ Túc nghiêm mặt nói, “Báo cho ngươi một tin vui. Mà khoan, Tiểu Kiểu cũng có thai rồi hả?”

    Chu Du “ừ” một tiếng, Lỗ Túc nói, “Mẹ ngươi và Tôn lão phu nhân đã hẹn nếu là một nam một nữ thì sau này cho cưới nhau.”

    “Nếu là hai thằng con trai thì sao?” Chu Du hỏi.

    “Thì y như ngươi với Bá Phù thôi.” Lỗ Túc nói.

    Chu Du cười nói, “Mấy tháng qua chắc không mấy yên ổn nhỉ.”

    Lỗ Túc cười ha ha, lại nghiêm mặt nói, “Y muốn xuất binh thảo phạt Kinh Châu.”

    “Hiện tại không được.” Chu Du nói, “Sợ là năm nay có nạn lụt, vạn nhất nước Trường Giang dâng cao thì không thể rút về.”

    Lỗ Túc nói, “Năm ngoái mọi người đều nhất trí rồi.”

    “Huynh xem mưa kìa.” Chu Du nói, “Kéo mãi không dứt.”

    Mưa lớn mấy ngày liền, mái hiên nhỏ nước tí tách. Chu Du nói, “Lúc này vẫn chưa đâu, chờ vào mùa mưa, bên Kinh Châu chắc chắn đã nhận được tin.”

    “Lưu Biểu già rồi.” Lỗ Túc nói, “Hai con trai của lão sống không bằng heo chó, bây giờ không lấy thì khác nào chắp tay dâng cho Tào Tháo?”

    “Muốn lấy…” Chu Du nói, “Cũng phải nắm chắc phần thắng rồi hãy đánh.”

    Lỗ Túc Chu Du im lặng hồi lâu, Lỗ Túc nói, “Ngươi viết thư cho y đi, không ai khuyên được y, huống hồ kế hoạch đã định.”

    Chu Du, “Đang có ý này.”

    “Ngươi sắp làm cha.” Lỗ Túc lại nói, “Phải biết cái gì nên nói, cái gì không nên nói, ngươi hiểu rõ mà.”

    Chu Du gật đầu, viết hồi âm.

    Lần này Tôn Sách trả lời thư đơn giản đến bất ngờ, bảo hắn đừng bận tâm, đến lúc đó chỉ cần giữ vững hậu phương là được.

    Chu Du nhận thư, thầm nghĩ vầy là có ý gì? Bèn lên đường đến huyện Ngô. Lúc này Tôn Sách đang tụ tập cùng các mưu sĩ, nghiên cứu chiến lược tấn công Kinh Châu.

    “Đệ đến rồi.” Tôn Sách cười nói.

    Gần nửa năm không gặp, Tôn Sách chín chắn lên nhiều, mang khí chất trầm ổn của đàn ông trưởng thành, không còn là thiếu niên cà lơ phất phơ ngày trước nữa. Dưới cằm y lún phún râu, gật đầu với Chu Du.

    “Năm nay e là có nạn lụt, nếu Trường Giang nước dâng…” Chu Du nói.

    Tôn Sách xua tay, “Không phải lo, đang muốn gọi đệ bàn chuyện này.”

    Chu Du ngồi xuống, Lã Mông nháy mắt ra hiệu cho Chu Du đừng mở miệng.

    Tôn Sách buông bản đồ xuống, nói, “Khi ta xuất chinh, đệ trông coi hậu phương, Tiểu Kiều đang mang thai, Đại Kiều đã có hai mẫu thân chăm sóc, đệ hãy phụ trách trấn thủ huyện Ngô và Đan Dương, bảo đảm cung ứng lương thảo kịp thời.”

    Chu Du không phản đối, chỉ gật đầu.

    “Ai dẫn thủy quân?” Chu Du hỏi.

    “Trương Chiêu, Chu Trị và Lỗ Túc.” Tôn Sách nói, “Nếu tiền tuyến có biến, đệ hãy phái binh trợ giúp, giao huyện Ngô cho ai ta cũng không yên tâm, từ giờ Tôn Quyền nhờ đệ trông coi, Lã Mông phụ một tay, nếu có thay đổi gì tất cả phải đến Đan Dương hỏi ý đệ.”

    “Tuân lệnh.” Chúng thuộc hạ đồng thanh đáp.

    “Tuân lệnh.” Chu Du nói.

    Chu Du biết không còn đường thương lượng, Tôn Sách gọi hắn đến phát lệnh chứ không phải hỏi ý hắn. Tôn Sách bây giờ không phải Tôn Sách ngày xưa, hắn cũng không còn là Chu Du trước đây nữa.

    “Ngươi nên tập quen đi.”

    Sau đó, Lỗ Túc nói với Chu Du.

    “Huynh phải cẩn thận.” Chu Du nói, “Đánh lớn không bằng đánh hay, tuy binh lực của chúng ta chiếm ưu thế áp đảo, nhưng nguy hiểm thường xảy ra ngay lúc cầm chắc phần thắng.”

    “Ta biết.” Lỗ Túc đáp, “Nhưng trận này sớm muộn gì cũng phải đánh. Tháng trước Trương Chiêu đề nghị chủ công hãy hỏi ý ngươi trước, chủ công lại bảo ngươi không có dã tâm, nhất định sẽ khuyên.”

    Chu Du thở dài, “Sao ta lại không muốn phái binh đánh sớm chứ? Chỉ là chúng ta còn đến mười năm, thắng một trận mà đẩy mối quan hệ với Tào Tháo đến bờ vực, bây giờ tình hình Ngô Quận cũng chưa yên ổn… thôi không nói nữa, ta đi đây.”

    Trương Chiêu đi dọc hành lang, Chu Du Lỗ Túc đứng thẳng lưng hành lễ, Trương Chiêu đáp lễ.

    “Tử Bố huynh.” Chu Du gọi.

    Lỗ Túc nháy mắt liên hồi, Chu Du làm như không thấy, nói với Trương Chiêu mấy câu, “Lần này xuất binh không thể vãn hồi nữa sao?”

    Trương Chiêu suy nghĩ, bất đắc dĩ nói, “Chúng ta không có lập trường lên tiếng.”

    Chu Du nói, “Ta có một chuyện muốn nhờ, xin Tử Bố huynh thay ta góp ý với chủ công.”

    Trương Chiêu trầm mặc thật lâu, cuối cùng gật đầu.

    Chu Du giục ngựa về Đan Dương ngay trong hôm đó, nhưng vừa mới ra khỏi thành đã có một con ngựa khác đuổi theo. Chu Du nghiêng đầu nhìn, chính là Tôn Sách.

    Trời đổ mưa, hai người cưỡi ngựa chạy song song dưới màn mưa, Chu Du không dừng lại, chạy thẳng vào quan đạo.

    “Này!” Tôn Sách cười hô lên.

    Chu Du đội mưa quay lại nhìn.

    Tôn Sách nói, “Đệ đang trù ẻo ta xuất binh bất lợi đó hả? Công Cẩn!”

    “Làm gì có!” Chu Du nói, thả chậm tốc độ. Tôn Sách lại nói, “Đệ vẫn chưa chúc ta phất cờ thắng trận!”

    “Chúc chủ công giương cờ đánh thắng!” Chu Du lớn tiếng nói, “Phải thận trọng từng bước!”

    Tôn Sách mỉm cười, dừng ngựa. Chu Du quay đầu ngựa, nét mặt nghiêm túc nhìn Tôn Sách.

    “Đệ vẫn vậy.” Tôn Sách cười nói, “Thích lải nhải lại còn dài dòng, phấn chấn lên chút được không?”

    Chu Du gật đầu, nói, “Ta chờ huynh đại thắng trở về, không được tham công mà làm liều.”

    Tôn Sách nói, “Thôi quên đi! Giật được câu may mắn của đệ rồi, ta về đây!”

    Tôn Sách khuất trong màn mưa, Chu Du ngơ ngẩn nhìn theo bóng lưng y hồi lâu, dầm mưa một canh giờ, không thể cất bước.

    Mấy ngày sau, Chu Du về Đan Dương, Tôn Sách dẫn một vạn thủy quân, bốn vạn kỵ binh, một vạn bộ binh tiến đánh Kinh Châu, quân báo gửi về liên tục không ngừng, trực tiếp đưa vào phủ Chu Du. Chu Du đọc không sót, phê chỉ thị, giao cho huyện Ngô chấp hành, lính liên lạc chạy qua chạy lại hai nơi như con thoi.

    Chu Du biết trận này quan trọng, thậm chí ảnh hưởng đến thế cục toàn thiên hạ, thường xuyên thức trắng đêm, không chịu nổi bật ho.

    Đêm khuya, Chu Du choáng đầu hoa mắt, ho khan vài tiếng, Tiểu Kiều đến khoác thêm áo, vuốt lưng cho hắn.

    “Chu Lang, chàng không ngủ mấy ngày rồi?” Tiểu Kiều nhíu mày nói, “Nếu cứ như vậy, Tôn Lang chưa thắng trận trở về, chàng đã ngã bệnh trước.”

    “Không sao.” Chu Du ho mạnh mấy cái, uống canh thuốc, nói, “Ta đọc hết quân báo rồi ngủ. Ho là di chứng bệnh cũ, chờ đánh xong trận này rồi điều dưỡng mấy tháng là ổn thôi.”

    Tiết trời lạnh dần, mưa rơi không dứt, Tiểu Kiều nói, “Nghe bảo nước Trường Giang sắp tràn bờ.”

    Chu Du “ừ” một tiếng, nhíu mày, nói, “Chỉ e không thể quay về.”

    Trở về tay trắng cũng được, sợ nhất là Tôn Sách bỏ mạng ở Kinh Châu. Nhớ lại năm xưa Tôn Kiên đánh Kinh Châu, Chu Du hoảng sợ theo bản năng, chỉ lo hai cha con vướng vào cùng một hiểm cảnh. Nhưng ba ngày sau, quân báo truyền về, lần này là Phi Vũ mang thư, đậu trên bàn.

    Tình hình còn ác liệt hơn tưởng tượng của Chu Du, nước Trường Giang dâng cao tạo thành lũ quét, đường trơn trợt khó đi, Tôn Sách đóng quân ngoài thành Giang Lăng, thừa thắng xông lên. Nước sông cuộn xiết, thủy quân của Thái Mạo giao chiến với Lỗ Túc, hai bên giằng co, cuối cùng gặp phải sạt lở, bộ binh và kỵ binh của Tôn Sách bị bao vây.

    Chu Du lập tức chạy đến huyện Ngô, phái Lã Mông tiếp ứng. Nhưng nước sông ngày càng mãnh liệt, Tôn Sách không thể không rút về.

    Đại Kiều sắp chuyển dạ, Tôn Sách thất bại thảm hại, dẫn tàn binh về huyện Ngô.

    Ngày Tôn Sách thu binh, sấm sét rạch nát bầu trời, mưa to tầm tã, về phủ rồi cũng không gặp ai, tất cả mưu sĩ bị nhốt ngoài cửa.

    Chu Du dầm mưa ướt nhẹp, đứng ngoài cửa gõ ba cái.

    “Đi uống rượu không?” Chu Du hỏi.

    Bên trong không trả lời, Chu Du nói, “Thắng thua là chuyện thường tình, đến giờ huynh còn chưa hiểu sao?”

    Tôn Sách cất giọng lạnh lùng, “Cho nên trước khi xuất chiến, Chu đô đốc đã biết trận này thua chắc đúng chứ?”

    Các mưu sĩ rùng mình, biết Tôn Sách nếm mùi thất bại, không chừng muốn tìm người nào khai đao, nhưng không ngờ người đó lại là Chu Du. Chu Du đương nhiên đoán trước được kết quả này, phất tay cho các mưu sĩ tản đi.

    Chu Du quỳ dưới mưa, trầm giọng nói, “Ta nghe nói lúc Viên Thiệu dẫn quân đánh Quan Độ, người duy nhất ra mặt ngăn cản lão khai chiến với Tào Tháo chính là mưu sĩ thân cận nhất, Điền Phong.”

    Trong phòng im lặng.

    Mưa càng lúc càng lớn, áo quan của Chu Du dính sát vào cơ thể, tóc bết vào mặt, quỳ thẳng trong mưa.

    “Kết quả là trước khi xuất chinh…” Chu Du nói tiếp, “Viên Thiệu nhốt Điền Phong vào đại lao, chờ lão thắng trận trở về.”

    “Lúc nghe tin tiền tuyến thất thủ, cai ngục chúc mừng Điền Phong, nói ông ta tính toán không chút sơ sót, chủ công quả nhiên bại trận, lần này trở về chắc chắn sẽ đối xử tốt với ông ta. Điền Phong khóc lớn, nói ‘Đời ta tàn rồi! Với tính cách của chủ công, ngươi cho rằng thua trận trở về sẽ tha mạng cho ta sao?’”

    “‘Nếu chủ công đắc thắng, biết đâu còn mời ta ra khỏi phòng giam, chế giễu ta vài câu, tiếp tục cho ta theo hầu hạ, nhưng giờ thua trận, chuyện đầu tiên phải làm khi về là giết ta.’”

    Chu Du nhìn qua màn mưa xối xả, nói, “Là ta chưa đánh đã nói thua, chém ta cũng không sao.”

    “Nhưng chủ công không thể theo vết xe đổ của Viên Thiệu.” Chu Du nói, “Chỉ khi nghe lời khuyên can mới có thể tránh thất bại. Chủ công thua trận, ta rất vui, dù sao cũng không giống Sở Bá Vương Hạng Vũ năm xưa, một đời chưa bao giờ thua, ngày bại trận cũng là lúc vong mạng. Bây giờ đánh Kinh Châu tay trắng quay về, chủ công có thể dưỡng sức chờ ngày tái chiến. Còn trận chiến với Tào Tháo phải cần ít nhất mười năm nữa.”

    “Đây là chuyện tốt.” Chu Du bị mưa tạt đến phát run, thở dốc nói, “Nếu chủ công hận ta thì hãy ban chết cho ta, ngày sau con ta giao cho chủ công nuôi nấng… Chu gia đã có hậu duệ, cái mạng của Chu Công Cẩn giao cho Tôn Bá Phù, chết như thế nào, chết lúc nào cũng được, không sao hết.”

    “Chỉ cần huynh thấy vui.” Chu Du nói.

    Mấy ngày liền lo lắng mệt nhọc, lao lực xử lý công văn, lại quỳ cả đêm dưới mưa rào giá buốt, Chu Du đã đến cực hạn. Năm đó từ biệt Tôn Sách dưới Hàm Cốc Quan, Chu Du đã mang thương trong người, lúc rời huyện Thư đến Thọ Xuân cũng ôm bệnh mà đi.

    Thời khắc này, cả tinh thần lẫn thể lực của Chu Du đều đã kiệt quệ, hắn ho dữ dội, thở cũng khó khăn, dường như chỉ một khắc nữa sẽ chết ngay trong sân, cuối cùng phun một ngụm máu, ngất xỉu.

    Tôn Sách nghe tiếng động, mở cửa bước ra.

    “Công Cẩn!” Tôn Sách hoảng hồn la lên, “Mau tỉnh lại!”

    Mấy ngày sau, Chu Du tỉnh lại ở Đan Dương. Tôn Sách mời danh y đến chăm sóc hắn, muốn giữ Chu Du lại huyện Ngô tĩnh dưỡng, nhưng Tiểu Kiều lo lắng. Tiểu Kiều đang mang thai, Đại Kiều sợ nàng nóng ruột, bất chấp đường xa xóc nảy mà sảy thai, bèn đưa Chu Du về Đan Dương.

    “Bệnh của ngươi, bảo nặng cũng không nặng.” Đại phu nói, “Nhưng tim phổi đã tổn thương, sau này bệnh tật triền miên.”

    Chu Du gật đầu, hắn cũng xuất thân nhà y, cơ thể mình như thế nào, trong lòng hắn rõ nhất. Đại phu lại nói, “Nhất định phải điều dưỡng thật kỹ, bằng không qua tuổi bốn mươi thì phiền phức ngày càng nhiều.”

    Tiểu Kiều nói, “Chu Lang suy nghĩ quá nhiều, nên về huyện Thư tĩnh dưỡng.”

    Đại phu nói, “Phải tránh xúc động, giữ tinh thần thoải mái, bớt phê công văn, không nổi giận không đau buồn, nhớ lấy.”

    Chu Du đáp một tiếng, đại phu bắt mạch cho Tiểu Kiều, dự đoán ngày sinh, rồi dọn hòm thuốc ra về. Vài ngày sau Chu Du đã có thể xuống giường, hôm nào cũng khoác áo lẳng lặng ngồi trong phòng, không đánh đàn, chỉ xuất thần nhìn ra ngoài.

    “Sau này con chúng ta đặt tên là gì?” Tiểu Kiều hỏi.

    “Để mẹ đặt tên.” Chu Du nói, “Hoặc là hỏi Bá Phù.”

    Tiểu Kiều cười nói, “Bên kia có đưa danh mục sang, chàng xem xem cái nào thích hợp rồi chọn.”

    Chu Du “ừ” một tiếng, lại hỏi, “Huyện Ngô thế nào?”

    “Bên ấy náo loạn một trận.” Tiểu Kiều đáp, “Giờ đã lắng xuống rồi. Lỗ Tử Kính bảo năm sau sẽ không xuất binh, Tôn Lang bực mình, bỏ đi dạo giải sầu. Mẹ nói chờ em sinh con xong thì sang đó ở cữ.”

    “Được.” Chu Du nói.

    Chương 32: Người mù

    Lại một năm thu qua đông đến, tuyết vừa tan, con đầu lòng của Tôn Sách chào đời. Chu Du chọn tên cho nó là Tôn Thiệu. Chu Du cũng đón một bé trai, Tôn Sách đặt tên là Chu Tuần.

    “Bên huyện Ngô đưa tin.” Tiểu Kiều nói, “Hôm nay Tôn Lang ra ngoài săn thú rồi sang thăm chúng ta.”

    Chu Du nói, “Sao lại đi săn thú, cũng làm cha rồi mà không chịu ở nhà nghỉ ngơi.”

    Tiểu Kiều, “Không biết y tính ở mấy ngày?”

    Chu Du nói, “Ta đi sắp xếp, nàng đang ở cữ, cứ nằm nghỉ đi, đừng làm việc nữa.”

    Sau lần từ biệt trước đó, đã nửa năm Tôn Sách Chu Du không gặp nhau. Chu Du thấp thỏm, không biết phải nói chuyện thế nào, vừa ho vừa dặn người bày tiệc, quét tước phòng ốc, chờ Tôn Sách.

    Qua buổi trưa, Chu Du bứt rứt không yên, không biết Tôn Sách đến đây làm gì, hay là do con nhỏ ra đời, lần trước làm căng quá nên muốn quay đầu. Hoặc chỉ đơn thuần là đến thăm…

    Hoặc có lẽ là nhớ hắn.

    Chu Du đánh đàn trong phòng, lòng nôn nóng lạ thường. Dây đàn đứt đoạn nhiều lần cũng chẳng buồn nối lại, ho khan mấy tiếng, dựa vào giường ngủ. Được một chốc thì mơ thấy ác mộng, hoảng hốt tỉnh dậy, lại chẳng nhớ nổi đã mơ thấy gì, hắn nửa tỉnh nửa mê ngồi cho đến hoàng hôn.

    Thuộc hạ đã bày tiệc rượu, Tôn Sách lại rề rà chưa tới, Chu Du bảo Tiểu Kiều ăn trước, hắn ngồi chờ y.

    Khí trời lạnh dần, tuyết bay lất phất, mãi đến lúc lên đèn, rượu đã hâm ba lần, thức ăn nguội lạnh từ lâu. Xem ra Tôn Sách sẽ không đến, Chu Du hậm hực, cũng không muốn ăn cơm.

    Đến canh hai, bên ngoài vang tiếng vó ngựa, Chu Du sửa lại vạt áo, đứng dậy nghênh đón. Ánh đuốc rọi sáng một đường, người vào phủ không phải Tôn Sách mà là lính liên lạc.

    “Báo—”

    “Không đến chứ gì?” Chu Du thuận miệng nói, “Thôi, khỏi phải nói.”

    Chu Du xoay người, định về phòng, lính liên lạc thở hổn hển, bẩm, “Hôm nay tướng quân rời thành săn thú, trên đường đến Đan Dương thì bị thích khách tập kích…”

    Chu Du chấn động, tính quay lại, một lưỡi dao sắc bén đã phóng đến sau lưng!

    Chu Du nhất thời hoảng hốt, suýt bị thích khách đánh lén, lập tức xoay lại, thấy ánh mắt thích khách toát vẻ bạo tàn. Chu Du quát lớn, “Người đâu!”

    Chu Du chạy vào phòng khách, ném bay chén trà, sau đó lật tung bàn trà, ấm chén phóng tới. Mọi việc diễn ra trong nháy mắt, hắn rút kiếm Xích Quân, quét một đường, ép thích khách lùi về sau, vệ binh ngoài cửa chạy đến.

    Trong phòng đổ vỡ, thích khách đã bị khống chế, Chu Du nói, “Đừng giết hắn!”

    Thích khách phát ra tiếng cười tràn ngập thù hận, Chu Du nói, “Trói lại.”

    Thích khách chậm rãi cúi đầu, im lặng, Chu Du hoảng hốt, tiến lên kiểm tra, thích khách giấu thuốc độc trong răng, một khi cắn vỡ túi thuốc sẽ chết ngay, không cứu kịp.

    Rốt cuộc là ai? Chu Du không ngờ có người hận hắn đến vậy, lúc bình tĩnh lại, nhìn rõ vũ khí tên kia, trên lưỡi dao là kịch độc lóe ánh xanh, ngẫm lại mà hãi hùng, nếu bị vũ khí này cắt trúng e là gặp máu chết ngay.

    “Báo—” Lại một người khác đưa tin.

    Giữa đêm, tim Chu Du đập như trống.

    “Thái thú đại nhân.” Người đưa tin nói, “Tôn tướng quân ra khỏi thành săn thú bị ám sát, đã rút về huyện Ngô.”

    Người đưa tin dâng lên một cái hộp, mở ra, bên trong là một mũi tên gãy vấy máu.

    “Chỗ nào bị trúng tên?” Chu Du run giọng, cảm giác như âm thanh này không thuộc về mình nữa.

    “Trúng tên ngay mặt.” Người đưa tin nói.

    Chu Du, “Tình huống ra sao?”

    Người đưa tin nói, “Gò má bị thương, chưa trúng chỗ hiểm.”

    Chu Du gắng bình tĩnh, kiệt sức dựa vào hành lang, Tiểu Kiều chạy đến, sắc mặt tái nhợt, hiển nhiên đã bị dọa sợ.

    Chu Du cho người đưa tin lui ra, về phòng thu dọn đồ đạc.

    “Quá nguy hiểm.” Tiểu Kiều nói, “Chu Lang.”

    Chu Du vừa gói đồ vừa nói, “Phải qua xem, nếu không ta không yên lòng.”

    Tiểu Kiều đè tay lên túi hành trang của Chu Du, hai người nhìn nhau một lúc lâu, cuối cùng Tiểu Kiều không thể ngăn cản, nói, “Đi đường cẩn thận.”

    Chu Du gật đầu. Lúc rời Đan Dương, hắn dẫn theo hai trăm binh sĩ, chạy thâu đêm đến huyện Ngô, chiến mã rã rời. Vừa đến huyện Ngô, hai đầu gối của Chu Du suýt ngã khuỵu.

    Trong phủ Thái thú, Tôn Quyền ngồi cùng một đám mưu sĩ, bên ngoài thông báo Chu Du đến, mọi người ngừng nói chuyện.

    “Sao rồi?” Chu Du hỏi, “Đại phu đâu?”

    Vành mắt Tôn Quyền đỏ bừng, Chu Du thấy không khí đại sảnh nặng nề, nhất thời lòng như tro tàn.

    “Chẳng phải nói bắn trúng mặt à?” Chu Du run giọng, “Nghiêm trọng thế sao?”

    Một đại phu nói, “Mũi tên bắn trúng tướng quân được bôi độc phân hủy, vết thương thối rữa nghiêm trọng, chỉ có thể dùng thuốc kiềm chế chứ không giải được.”

    Đại phu khác nói, “Giờ đang là mùa đông, tốc độ thối rữa còn chậm, vẫn chưa nguy hiểm đến tính mạng, Đô đốc an tâm.”

    Chu Du hỏi rõ tình hình, đến hậu viện lạy mẹ và Tôn phu nhân, cũng trông thấy Đại Kiều. Đại Kiều khóc đến mức không thở được, “Huynh khuyên chàng đi, ta thấy… chàng có ý định muốn chết.”

    Chu Du nói, “Chỉ bị thương trên mặt, không sao đâu, nghĩ thông rồi là ổn thôi.”

    Đại Kiều nức nở, “Gương trong phòng bị đập vỡ cả, chỉ sợ chàng nghĩ quẩn.”

    “Để ta vào xem.” Chu Du thấp giọng nói, “Đừng lên tiếng.”

    Đại Kiều dẫn Chu Du đến ngoài phòng Tôn Sách, Chu Du nhìn qua khe cửa, dưới nắng chiều, trong phòng âm u, một người nằm trên giường không nhúc nhích, băng vải bọc kín mặt.

    “Ta hiểu rồi.” Chu Du quay lại nói với Đại Kiều.

    “Chàng không cho ai nhìn mặt.” Đại Kiều nói, “Ta muốn đổi thuốc chàng cũng không chịu…”

    “Để ta chăm sóc y.” Chu Du nói.

    Chu Du ra ngoài sai người mang mảnh vải đen đến, đến trước dãy hành lang, hắn dùng vải đen bịt mắt mình, lần mò đến ngoài phòng Tôn Sách, đẩy cửa vào.

    “Cút ra!” Tôn Sách quát lên.

    “Là ta.”

    Chu Du khép cửa lại, cửa gỗ kẽo kẹt một tiếng.

    Sắc mặt Chu Du tái nhợt, đứng dưới ánh sáng mù mờ, cười với Tôn Sách.

    “Đệ…”

    “Là ta.”

    Chu Du suy nghĩ, nói, “Bệnh can khí* tích tụ lâu ngày, đỏ mắt, đại phu cho đắp thuốc, bảo ta nghỉ ngơi mấy tháng.”

    *Chỉ chứng đau lườn, buồn nôn, dễ cáu gắt.

    “Bá Phù?” Chu Du không nghe tiếng động, lại gọi.

    Tôn Sách không trả lời, Chu Du vịn đồ vật trong phòng, chậm rãi lần tới bàn tay Tôn Sách trên giường. Tay Chu Du lạnh lẽo, tay Tôn Sách nóng rực, từ từ siết lại.

    Chu Du quỳ trên đất, tìm cổ tay bắt mạch cho Tôn Sách, vải che mắt thấm ướt một mảng.

    “Có sốt không?” Chu Du hỏi.

    Tôn Sách vẫn không trả lời, hệt như đã chết, Chu Du gập đầu gối y lên, ngồi bên cạnh, vươn tay sờ trán y. Tôn Sách thở dài, cuối cùng dựa vào vai Chu Du, Chu Du liền ôm lấy y, hai người không nói gì.

    “Đau không?” Chu Du hỏi.

    Tôn Sách im lặng một lúc lâu, nói, “Ta có lỗi với đệ, Công Cẩn.”

    Chu Du nói, “Ai băng bó vậy, không được băng quá kín.”

    Tôn Sách đáp, “Ta bảo bọn họ bọc kín đấy.”

    Trên đầu, trên mặt Tôn Sách quấn kín băng vải, vết thương vẫn chưa khép miệng lại bị bọc kín, mủ không ngừng ứa ra. Cách tốt nhất là dùng nước sạch rửa kỹ, bôi thuốc, để trần, mùa đông vết thương khép lại nhanh hơn, sẽ không thối rữa.

    “Tháo ra nhé.” Chu Du nói, “Tháo ra mới mau lành.”

    Chu Du vươn tay tháo băng vải cho Tôn Sách, da thịt dính vào lớp băng, hắn không dám dùng sức, Tôn Sách chỉ nắm tay Chu Du, siết rất chặt.

    Chu Du không nhìn thấy, đương nhiên chẳng thể làm gì, ho khan vài tiếng, toàn thân phát run, hỏi, “Đau không?”

    “Tê tê.” Tôn Sách nói, “Mũi tên có độc.”

    Chu Du nói, “Rửa sạch vết thương, băng bó ngoại thương, chỉ cần cẩn thận trừ độc là an tâm rồi.”

    Tôn Sách không nói gì, Chu Du tháo từng lớp băng vải, lúc chạm vào da thịt y chỉ thấy nóng rát, hiển nhiên vẫn chưa khử trùng, miệng vết thương bị nhiễm khuẩn nên phát sốt. Chu Du ra ngoài dặn người dùng than đun sôi nước trong chậu đồng, chờ nước nguội rồi cẩn thận từng chút rửa vết thương cho Tôn Sách.

    Tiếp đó dùng xuyên tâm liên phối với các vị thuốc lưu thông máu lành da giúp Tôn Sách hạ nhiệt giảm đau. Chu Du làm rất chậm, giống như hắn và Tôn Sách chẳng còn chuyện gì khác để làm, việc quan trọng duy nhất là tỉ mỉ lau mình cho Tôn Sách, rửa sạch máu và mủ trong vết thương.

    Làm xong đã mất hết một ngày, đang trời đông giá rét mà Chu Du ướt đẫm mồ hôi.

    “Được rồi.” Chu Du nói.

    “Băng lại đi.” Tôn Sách nói.

    “Để vậy mới mau lành.” Chu Du nói.

    Tôn Sách không kiên trì nữa, Chu Du lại sai người dâng cháo, thổi nguội đút cho Tôn Sách. Tôn Sách bị thương ở gò má, ăn cơm uống nước đều tác động đến vết thương, Chu Du liền cho người cắt ống sậy, cắm vào bát cháo để Tôn Sách hút từ từ.

    “Ta đi ăn cơm.” Chu Du nói.

    Hắn bưng chậu nước ra ngoài, lúc về phòng liền cởi vải nhìn, máu và mủ xen lẫn trong nước bẩn, phản chiếu dung mạo hắn và mùi thuốc khó ngửi, hai mắt hắn đỏ bừng, nước mắt tuôn rơi.

    Lúc Chu Du quay lại, một bàn Ngô thị, mẹ Chu, Tôn Quyền, Đại Kiều đều đang chờ hắn. Chu Du ngốn hai ba ngụm đã xong bữa, nói, “Sẽ khá hơn.”

    Mọi người thở phào nhẹ nhõm. Chu Du ăn xong liền chuẩn bị về phòng Tôn Sách, Đại Kiều chạy theo sau gọi, “Công Cẩn.”

    Chu Du thở dài, quay lại nói, “Không biết ngày sau thế nào, nói chung hãy qua được một cửa trước mắt rồi tính.”

    Tôn Sách nằm trên giường, Chu Du vừa vào liền cởi áo, nới lỏng đai lưng, sờ trán Tôn Sách.

    Chu Du mặc áo trắng, đến gần, dùng môi đo thân nhiệt Tôn Sách.

    “Ăn no chưa?” Tôn Sách hỏi.

    “Đừng nói chuyện.” Chu Du nói, “Kẻo động đến vết thương, huynh ngủ ở trong đi.”

    Tôn Sách nói, “Gương mặt ta không thể lành lại như cũ, hệt như quái vật, đệ mà thấy hơn nửa là muốn bỏ đi.”

    “Dù huynh là quái vật.” Chu Du nói, “Ta cũng tình nguyện ở cùng huynh, chỉ cần huynh không chê.”

    Tôn Sách nhếch khóe môi, phát ra âm thanh như tiếng cười, lại như không phải.

    Chu Du dựa vào giường, áo trắng quần trắng, quanh mắt quấn vải đen, như một người mù anh tuấn, lại nói, “Nếu vết thương của huynh để sẹo, sợ ta ghét bỏ thì ta chọc mù mắt là được chứ gì.”

    Tôn Sách không nói. Lát sau, y đưa tay qua phủ lên mu bàn tay Chu Du.

    “Đệ biết trên tường đối diện có cái gì không?” Âm thanh của Tôn Sách khó nén nghẹn ngào.

    “Đừng khóc.” Chu Du vội nói, “Nước mắt chảy là công sức hôm nay coi như bỏ, nhịn xuống… huynh khóc cái gì?”

    Giọng Tôn Sách vẫn mang chút nức nở, Chu Du cố gắng dời sự chú ý của y, lại hỏi, “Trên tường đối diện có cái gì?”

    “Diều.” Tôn Sách đáp.

    “Ừ, có diều.” Chu Du nói.

    “Chờ ta lành vết thương.” Tôn Sách nói, “Ta không muốn gánh vác gì nữa, về hồ Sào thả diều, uống rượu như ngày xưa.”

    Chu Du hỏi, “Diều hình dáng thế nào?”

    “Là cái mà chúng ta mua lúc nhỏ.” Tôn Sách nói, “Qua mười năm bị hỏng hai lần, ta tự tay dán lại đấy.”

    Chu Du “ừ” một tiếng, nói, “Ta lại chẳng nhớ nổi.”

    “Màu xám.” Tôn Sách thong thả nói, “Cánh xanh lam, mắt màu đen… lông chim xanh lục, có thể xếp lại.”

    “Đuôi đâu?” Chu Du hỏi.

    “Đuôi đủ màu.” Tôn Sách nói, “Rơi mất rồi, bị Tôn Quyền bứt rụng.”

    Chu Du nhớ lại, hai đứa trẻ cùng đi thả diều nơi cố hương, diều đón gió bay xa, kéo dây là sẽ quay lại. Hệt như ý muốn của Tôn Sách, Chu Du chính là cánh diều kia, một đầu dây nằm trong tay Tôn Sách, chỉ cần kéo một cái, hắn sẽ trở về bên cạnh y.

    “Có rượu không?” Tôn Sách hỏi.

    “Không được uống rượu.” Chu Du nói, “Lành rồi ta uống với huynh, ngủ đi.”

    Chu Du thả màn, nằm kế Tôn Sách, hai người không nói chuyện. Nửa đêm, Tôn Sách đang ngủ bỗng dưng run bần bật như thấy ác mộng.

    “Công Cẩn… Công Cẩn…” Tôn Sách toát mồ hôi, tay chân co giật, đúng là gặp ác mộng.

    “Ta ở đây.” Chu Du gọi, “Bá Phù? Tỉnh tỉnh! Bá Phù!”

    Chu Du đặt tay lên trán Tôn Sách, Tôn Sách sốt sao, hét lớn một tiếng, lăn xuống giường.

    “Ta không sợ!” Tôn Sách la lên, “Ta không sợ ngươi đâu!”

    “Bá Phù! Tôn Sách!” Chu Du quát to.

    Tôn Sách tựa vào bàn, nôn hết cháo, Chu Du không gọi người, tiến đến ôm y, lớn tiếng gọi, “Bá Phù!”

    Tôn Sách vẫn còn hoảng sợ, thở hổn hển, nôn khan, được Chu Du ôm về giường.

    Tôn Sách sốt cao, toàn thân nóng như lửa, cách một lớp áo mà Chu Du vẫn cảm giác được y nóng như hòn than, độc chưa trừ, vết thương nhiễm trùng, lại toát mồ hôi khiến y vô cùng suy yếu.

    “Bá Phù.” Chu Du gọi, “Dậy đi.”

    Bên ngoài có người đẩy cửa vào, Tôn Sách lập tức quát lên, “Không được vào! Không ai được vào đây! Bằng không ta giết!”

    Chu Du liền buông màn che Tôn Sách. Tôn Sách trợn mắt, thở dốc, môi run run nhìn Chu Du, Chu Du cúi đầu, áp đôi môi lạnh lẽo lên môi Tôn Sách.

    Khi còn bé, mỗi khi Chu Du gặp ác mộng, mẹ Chu sẽ làm vậy để trấn an hắn, quả nhiên, Tôn Sách dần bình tĩnh lại.

    “Ta mơ thấy Vu Cát…” Tôn Sách nói, “Còn mơ thấy Hứa Cống.”

    Chu Du đoán lần ám sát này hẳn là do môn khách của Hứa Cống, nhưng hắn không dám nói, chỉ động viên, “Chuyện ma quỷ toàn là hư vô, đừng tự dọa bản thân.”

    “Ta mơ thấy… ta mơ thấy có người tìm ta đòi mạng.” Tôn Sách run giọng nói, “Là Vu Cát đã cứu ta, hắn bảo ta quay đầu lại, quay đầu lại… đừng tiếp tục giết người.”

    Chu Du cười nói, “Đừng sợ, Bá Phù.”

    Rốt cuộc Tôn Sách cũng bình tĩnh, vẫn nắm chặt tay Chu Du.

    Chu Du vừa xuống giường, Tôn Sách đã hoảng hốt, “Đi đâu?”

    “Quét dọn.” Chu Du nói, “Rồi sắc thuốc an thần cho huynh.”

    Tôn Sách vẫn đổ mồ hôi, Chu Du nhúng khăn vào nước lạnh chườm lên trán y, viết phương thuốc bảo Lỗ Túc đi nấu. Mấy ngày liền Tôn Sách không ăn uống được gì, vừa sốt cao vừa nóng lạnh, khí huyết suy nhược, lại mang thương tích. Rắc rối hơn là vừa rồi bị kinh động, miệng vết thương nứt toác, máu tràn vào xoang mũi, trong cổ họng toàn là mủ và bọt máu.

    Chu Du không dám cho người vào dọn, mắt hắn không thấy đường, loạng choạng lau sạch bãi nôn của Tôn Sách.

    “Công Cẩn, ta lạnh…” Tôn Sách run rẩy.

    Chu Du lập tức lên giường ôm Tôn Sách, Tôn Sách siết chặt hắn, nói, “Lạnh, lạnh…”

    Vải bịt mắt lại ướt nước mắt, Chu Du cố gắng giữ vững giọng nói, “Chờ chút nữa uống thuốc, uống vào là đỡ hơn.”

    Tôn Sách hít vào một hơi, bình tĩnh trở lại.

    Không biết qua bao lâu, bên ngoài gõ chuông sớm, tuyết phủ đầy sân, Ngô thị, mẹ Chu, Đại Kiều, Lỗ Túc cùng đám Trương Chiêu muốn vào quan sát, nhưng Tôn Sách cực kỳ mẫn cảm, không cho ai vào. Chu Du lại mời đại phu đến, buông màn, cầm tay Tôn Sách cho người ta bắt mạch.

    Các đại phu mặt mày nghiêm trọng, không dám qua loa, Chu Du ra ngoài, nói, “Đêm qua bị ác mộng quấy nhiễu, ta đã cho y uống thuốc an thần.”

    “Tâm bệnh khó trị.” Đại phu nói, “Trước hết chỉ cần bình tâm tĩnh khí, nếu không chịu nhìn thẳng vào diện mạo, chỉ sợ thương thế sẽ chuyển biến xấu. Theo ngài thấy, mủ đã biến thành dạng gì rồi?”

    “Ta không thấy.” Chu Du nói, “Y không muốn bôi thuốc, phải dỗ mới chịu uống. Hay là đổi thuốc khác.”

    Đại phu buông tay, nói, “Ta bất lực, trong lòng tướng quân có điều bế tắc, không khỏi được.”

    “Công Cẩn.” Đại Kiều từ hành lang chạy đến, “Bá Phù đang gọi huynh, làm sao đây?”

    Chu Du lập tức chạy đến trước phòng Tôn Sách, nghe Tôn Sách gọi từng tiếng đứt quãng “Công Cẩn”, “Công Cẩn”…

    Chu Du run bần bật, đột nhiên không có sức đẩy cánh cửa kia, quay đầu chạy qua hành lang, lao vào tuyết, tháo vải đen, quỳ trên mặt tuyết lớn tiếng khóc rống.

    Tiếng khóc tràn ngập nỗi tuyệt vọng, hai tay hắn cào mặt tuyết, nằm dưới đất khóc một lúc lâu, sau đó dùng tuyết lau mặt, chà đến nỗi gương mặt đỏ ửng, tóc mai lông mày toàn là vụn tuyết.

    Quá Ngọ, Chu Du trở lại.

    “Công Cẩn.” Tôn Sách vừa nghe bước chân đã biết là hắn.

    Chu Du chống bàn, mò đến bên giường, “ừ” một tiếng.

    “Đại phu nói sao?” Tôn Sách hỏi.

    “Nói cho huynh uống thuốc.” Giọng Chu Du rất nghiêm túc, “Rồi sẽ khỏe lại. Huynh không chịu uống là ta bỏ đi đó.”

    Giọng Tôn Sách rất yếu, nói, “Cổ họng ta bị nghẹt, máu không chảy xuống được.”

    Chu Du đỡ Tôn Sách ngồi dậy. Tôn Sách cao gần chín thước, bốn ngày liền không ăn không uống, hôm qua khó khăn lắm mới ăn được một chút lại nôn ra hết, toàn thân bốc mùi mồ hôi chua, gầy đi gần hai mươi cân, người nhẹ đến mức khiến Chu Du đau đớn.

    “Uống thuốc trước đã.” Chu Du nói, để Tôn Sách dựa đầu giường.

    Tôn Sách vẫn đang sốt, dùng ống sậy uống thuốc, không bao lâu lại phun hết ra, ho khù khụ, trong miệng toàn là máu.

    “Ta mơ thấy Lữ Bố.” Tôn Sách nói, “Lữ Bố mang đầu đến lấy mạng ta…”

    “Lữ Bố tìm huynh làm gì.” Chu Du không biết nên khóc hay cười, “Cũng đâu phải hai ta hại chết gã.”

    Tôn Sách nói, “Biết ngay đệ sẽ nói vậy mà, Hứa Cống cũng tới đòi giết ta.”

    Chu Du nói, “Có ta ở đây, đừng sợ.”

    Trên người Chu Du dính đầy bã thuốc Tôn Sách phun ra, biết y không uống được nữa, vừa rồi đã uống được một chén, phải nghỉ một chốc, nhưng vẫn phải bôi thuốc.

    Chu Du lấy nước sạch rửa mặt cho Tôn Sách, dùng lông chim cẩn thận xoa đều thuốc, Tôn Sách ngửa mặt nằm trên gối.

    “Công Cẩn, có lúc ta vừa rất thương đệ, cũng vừa hận đệ.”

    “Tại sao?”

    “Hận đệ không nghe lời ta.”

    “Ta cũng có lúc hận huynh.”

    “Lúc nào?”

    “Ví dụ như bây giờ.” Chu Du thở dài, buông chén thuốc, “Ta cũng hận huynh không chịu nghe lời ta.”

    Ánh hoàng hôn rọi qua khe cửa, Tôn Sách ho vài tiếng, khó khăn vẽ ra một nụ cười. Chu Du lấy khăn lau sạch nước bọt và máu trào ra từ khóe miệng Tôn Sách.

    “Ta thấy hai ta quen nhau lâu như vậy, cãi đi cãi lại, rốt cuộc cũng chỉ là ai nghe lời ai…” Tôn Sách lên cơn ho, Chu Du vội xoa lưng cho y.

    “Chỉ cần huynh hồi phục…” Chu Du nói, “Sau này cái gì ta cũng nghe huynh hết, đừng ho, vết thương lại rách ra bây giờ.”

    Tôn Sách mất sức nằm trên giường.

    Chu Du nói, “Chỉ cần huynh khỏe lại, huynh muốn ta làm gì cũng được, nếu vì gương mặt này mà huynh không muốn sống, ta cũng…”

    Mặt trời xuống núi, trong phòng tối mù, một giọt nước rơi vào chậu đồng, phát ra âm vang.

    Không biết ai thổi sáo, chiều tà Tây Sơn, trước mắt Chu Du là bóng tối, lỗ tai khẽ giật, nghe tiếng sáo uyển chuyển bỗng chốc cao vút lên, rung động tận tâm can.

    “Đệ cũng thế nào?” Tôn Sách hỏi.

    “Ta cũng không sống nữa.” Chu Du thấp giọng đáp, cầm tay Tôn Sách đặt lên ngực mình.

    “Giờ nào rồi?” Tôn Sách hỏi.

    “Lên đèn rồi, huynh ngủ chút đi.”

    Chu Du nằm sát bên Tôn Sách, Tôn Sách chưa ngủ, Chu Du lại nói, “Ngủ đi, đêm nay sẽ không gặp ác mộng nữa đâu.”

    “Ta lạnh.” Tôn Sách nói.

    Chu Du luồn tay vào áo Tôn Sách, chạm vào xương sườn y. Đây là ngày thứ năm sau khi trúng tên, mới đầu Tôn Sách sốt đến dọa người, giờ đã dần giảm bớt, Chu Du hơi yên lòng, ôm y, dùng nhiệt độ cơ thể sưởi ấm cho y.

    Chương 33: Tử biệt

    Đã ba ngày liền Chu Du chưa chợp mắt, lúc này đầu óc mơ hồ, Tôn Sách đứt quãng nói gì đó, Chu Du hoàn toàn không nghe thấy. Hắn ôm eo Tôn Sách, nằm cuộn tròn, gối đầu lên tay y, vùi mặt vào vai y.

    Tôn Sách thở nặng nhọc như ống bễ, giọng nói khàn đục.

    “Công Cẩn.” Tôn Sách gọi.

    “Ừm.” Chu Du mơ màng đáp.

    “Nếu ngày nào đó ta đi trước, Tôn Quyền cùng Giang Đông giao lại cho đệ. Nếu nó không làm được, đệ hãy tự…”

    “Không đâu… đừng nói ngốc vậy…”

    Chu Du rúc vào ngực Tôn Sách.

    “Đệ còn nhớ không, năm đó cha đệ mất, có tên họ hàng đến ức hiếp đệ… bị ta đánh một trận, tên gì ấy nhỉ…”

    Chu Du không trả lời, thở đều đều, tiến vào mộng đẹp.

    “Đệ còn nhớ không, ngày ta bị Hoa Hùng quất roi… là đệ dùng thảo dược chữa cho ta…”

    “Công Cẩn.”

    Tôn Sách nhìn diều treo trên tường, trong mắt hiện lên cảnh hai đứa trẻ cười vô tư, nắm dây diều chạy đến hồ Sào.

    Trời xanh bao la, núi non trùng điệp.

    “Xin lỗi.” Tôn Sách thấp giọng nói, “Hôm đó đạp đệ ngã xuống hồ, có cảm lạnh không…”

    Xa xa, tuyết càng lúc càng nặng hạt, rơi sập nóc lều hậu viện, âm vang như tiếng trống giữa trời, Chu Du đột nhiên tỉnh giấc, mắt mở to.

    “Bá Phù… Bá Phù?” Chu Du run rẩy gọi.

    Hắn vươn tay, sờ từ lồng ngực Tôn Sách, đưa lên trước mũi y.

    Tôn Sách đã chết.

    Chu Du tuyệt vọng gào lên, trong lòng như có thứ gì đó vỡ tan thành cát bụi, cái rét cô độc trong ngày tuyết phủ trùm hắn, khiến hắn không thể thở nổi.

    “A—” Chu Du quỳ trên giường, ôm thi thể Tôn Sách đã lạnh từ lâu, ngẩng đầu lên trời khóc rống. Cửa bị phá, Chu Du đứt từng đoạn ruột, nước mắt đã khô cạn, giọng khàn cả đi, bị Lỗ Túc kéo ra.

    “BÁ PHÙ—” Chu Du khàn giọng gọi, không muốn tin, tất cả chỉ là một giấc mộng không chân thật, như có một bàn tay khổng lồ tàn nhẫn đóng từng cây đinh sắt lên khắp người hắn, siết vỡ linh hồn hắn, móc quả tim vẫn còn đập ra khỏi lồng ngực hắn.

    “Bá Phù—”

    “Tôn Lang—”

    “Chủ công!”

    Phủ Thái thú quanh quẩn tiếng khóc thương, trời đất úa màu.

    “Để ta nhìn y… để ta nhìn y một lần…”

    Chu Du cởi mảnh vải đen, lớn tiếng gào khóc, lao đến trước giường, gục lên người Tôn Sách, toàn thân run rẩy. Hắn nấc nghẹn, vươn tay xoa mặt Tôn Sách.

    Gò má Tôn Sách thối rữa thấy cả xương, mặt xám màu tro, khóe miệng đọng vết máu khô.

    Nét mặt bình thản, mày kiếm uy phong, hai mắt khép lại, môi vẫn giữ nụ cười.

    “BÁ PHÙ—”

    Chu Du gồng hết sức mà kêu, tiếng gọi đau thương tan nát cõi lòng.

    Sáng sớm, ánh nắng chói chang soi sáng huyện Ngô, vạn trượng rực rỡ, tuyết đọng khúc xạ màu nắng vàng, trong phủ Thái thú truyền ra ba hồi chuông tang…

    Tôn Sách qua đời.

    Thái thú các thành Thọ Xuân, Đan Dương, Cối Kê, Dư Hàng, Trường Sa, Giang Đông, Giang Nam không quản ngày đêm đến viếng, trong phủ hỗn loạn, Hoàng Cái và Trương Chiêu to tiếng cãi vã, Lã Mông cố sức khuyên nhủ. Tôn Sách vừa chết, sáu quận mười ba huyện Giang Đông như rắn mất đầu.

    “Chu đô đốc đến—” Lính gác cửa thông truyền.

    Chu Du đội khăn tang, mặc áo trắng, dẫn Tôn Quyền vào đại sảnh, các mưu sĩ đồng loạt im lặng.

    Chu Du sắc mặt tái nhợt, hít một hơi thật sâu, nhắm mắt.

    “Trọng Mưu, đệ lên ghế trên đi.” Chu Du nói với Tôn Quyền.

    “Ta…” Tôn Quyền nói.

    “Nhường cho đệ thì lên đi.” Chu Du lại nói.

    Tôn Quyền thở dồn dập, mắt ngấn lệ nhìn Chu Du.

    Trương Chiêu bước xuống nắm tay Tôn Quyền, dắt nó lên vị trí của Tôn Sách, cho nó ngồi xuống, lui về đứng bên cạnh Chu Du.

    “Tham kiến chủ công.” Chu Du quỳ xuống lạy.

    Tôn Quyền muốn tiến lên đỡ, Chu Du lại giơ tay bảo nó không được nhúc nhích, Trương Chiêu cũng quỳ theo.

    “Tham kiến chủ công!” Trương Chiêu nói.

    Văn thần võ tướng trong sảnh trầm mặc một lúc lâu, Hoàng Cái vén vạt áo, quỳ một gối, ôm quyền.

    “Tham kiến chủ công!”

    Thoáng chốc, tất cả người trong sảnh đều quỳ xuống, Tôn Quyền cắn môi, cuối cùng không nhịn được, bật khóc. Mặt trời lên cao, bóng Chu Du đổ dài, Tôn Quyền đón nắng, run giọng nói, “Các vị… hãy đứng lên.”

    Hôm đó Chu Du đốt diều, ngọn lửa bùng lên như nghìn vạn đài sen đỏ trải dọc Xích Bích, ánh lửa bao trùm đất trời như một lễ tế trang trọng.

    Lửa cắn nuốt vạn vật, nổ “ầm” một tiếng, xa tận chân trời cũng chỉ thấy một màu đỏ máu.

    Ngón tay Chu Du lướt qua năm dây đàn, tiếng đàn văng vẳng khiến non xanh cúi mình, nước sông cuộn sóng. Cột buồm sụp đổ, mặt sông phản chiếu ánh đỏ phừng phực, không biết đâu là máu, đâu là lửa.

    “Sau đó…”

    “Sau đó…” Chu Du ấn dây đàn, nói, “Như đệ đã biết.”

    Tôn Quyền ngồi ngay ngắn sau lưng Chu Du, hai tay đặt trên gối, cùng nhìn ngọn lửa hỏa thiêu Xích Bích, chiến thuyền nghiêng ngả, tiếng chém giết rung trời.

    Bất tri bất giác đã nói lâu như vậy, từ khoảnh khắc lửa bùng lên, Chu Du chợt nhớ lại rất nhiều chuyện xưa, bỗng dưng ngây ngẩn, hai mắt đẫm lệ.

    Tôn Quyền ngồi bên cạnh nghe ký ức năm nào, nhất thời cảm khái vật đổi sao dời, không biết nói gì.

    Chu Du nói, “Anh của đệ không phải thánh nhân, cũng không phải anh hùng, y chỉ là y, y chỉ là Tôn Bá Phù.”

    Tôn Quyền nói, “Thật ra suốt những năm đó, y và huynh gần nhau thì ít, xa cách thì nhiều.”

    Chu Du nói, “Ta cũng không biết trúng tà hay gì, ta và y xa cách hai, ba năm, ta vẫn một lòng với y, có thể thấy thời gian không hề ảnh hưởng đến cảm tình. Có người dù mới chỉ quen một ngày cũng có thể giao cả sinh mạng. Có người dù không xa một ngày mà vẫn như người dưng nước lã.”

    Tôn Quyền thở dài, “Công Cẩn đại ca, mấy năm qua, huynh đối đãi với ta như anh, như cha…”

    Chu Du khoát tay, “Theo đệ, tôn đệ làm chủ, liều cả tính mạng cũng chỉ vì đệ. Đệ tiếp nhận vị trí anh trai khi tuổi còn quá nhỏ, nhưng từng lời ăn tiếng nói, hành động cử chỉ đều thận trọng đúng mực, dám làm dám chịu, cũng chịu nghe khuyên răn. Điểm ấy đệ làm tốt hơn anh đệ rất nhiều, ta còn nhớ ngày Tào Tháo điều quân xuôi Nam…”

    Hôm đó, Tào Tháo gửi chiến thư đến Giang Đông.

    …Nay mang tám mươi vạn thủy quân cùng chư tướng khai chiến với Ngô.

    Sau trận Quan Độ, Lưu Bị tiến vào Kinh Châu, nhận thư của Lưu Biểu, cai quản Kinh Châu. Nhưng con trai của Lưu Biểu cấu kết với Tào Tháo, Lưu Bị không thể không dẫn bách tính trốn đến Đan Dương.

    Mười vạn dân Kinh Châu theo Lưu Bị bỏ xứ tha phương.

    Sau đó lại nhận thư của Triệu Vân, nháy mắt đã là năm thứ tám sau khi Tôn Sách chết, chuyện trước kia như đã cách một kiếp người.

    Giang Đông đã được thống nhất. Tám mươi ba vạn đại quân của Tào Tháo đánh hạ Kinh Châu, áp sát Trường Giang, chiêu hàng Tôn Quyền, bằng không đại quân sẽ san bằng Giang Tả, không chừa người sống.

    Tính cả Ngô Quận và các quận khác, binh lực Giang Đông chỉ có bảy vạn, lại còn rải rác ở các nơi, nhất thời không thể điều động.

    “Chủ công!” Trương Hoành nói, “Ngươi không hiểu rõ tình hình, Giang Lăng, Hạ Khẩu thất thủ, Tương Dương không ngăn nổi binh mã của Tào Tháo, Lưu Biểu chết bệnh, Thái Mạo, Trương Doãn hàng Tào…”

    “Ai không hiểu rõ tình hình?” Chu Du trầm giọng nói.

    Chu Du bước vào, người chưa xuất hiện, âm thanh đã đến.

    Hắn chỉ nói sáu chữ đã cứng rắn ngắt lời Trương Hoành, toàn sảnh ngẩng đầu nhìn Chu Du.

    Đây là lần đầu tiên hắn tỏ thái độ ác liệt với văn thần, trên thực tế, từ ngày Tôn Sách chết tám năm trước, không còn ai trong triều làm việc với Chu Du nữa, dưới trướng Ngô hầu đông đảo văn thần võ tướng, chỉ duy nhất Chu Du không ở gần.

    Lúc quay lại, Chu Du đội mũ sắt hồng anh của võ tướng, thân mặc giáp bạc, chân xỏ giày binh, áo choàng tung bay trong gió hoàng hôn. Hắn chắp tay sau lưng, hai chân bằng vai đứng giữa phòng, bên hông đeo kiếm Xích Quân, chuôi kiếm sáng lấp lánh dưới ánh tà dương.

    Mọi người đã quen thấy hắn mặc áo quan, cực hiếm thấy hắn khoác giáp, ngay cả Tôn Quyền, lục lọi hết ký ức vẫn không tìm được hình ảnh Chu Du mặc giáp trụ, sau khi anh cả Tôn Sách chết, cũng chẳng thấy Chu Du sử dụng kiếm Xích Quân nữa.

    Dung mạo Chu Du không hề già đi, càng không có vẻ sa sút tinh thần. Qua bao tháng năm tôi luyện, khí chất dần dần trầm lắng, hóa thành phong độ cứng rắn kiên cường và tang thương trải bao thế sự của bậc đại tướng, hắn như ngọn núi sừng sững giữa phòng.

    “Chúng ta có bao nhiêu quân?” Chu Du hỏi.

    “Chỉ biết số lượng bộ binh, thủy quân chỗ Đô đốc có bao nhiêu?” Tôn Quyền cách Chu Du hơn mười bước, hỏi.

    “Hai vạn hai thủy quân.” Chu Du nói, “Chiến thuyền lớn bảy mươi ba chiếc, thuyền trung một trăm mười hai, thuyền nhỏ một nghìn tám mươi, bộ binh thì sao?”

    Trong phòng yên lặng, Tôn Quyền đáp, “Không thể điều động binh lực quận huyện xung quanh, Di Châu đang đánh, e là có biến, chỉ có thể giao cho huynh một vạn bộ binh.”

    “Ba vạn hai.” Chu Du thong thả đi vài bước.

    “Quân Tào có đến tám mươi ba vạn!” Trương Chiêu nói, “Chu đô đốc, cần cân nhắc thật kỹ trận này!”

    Chu Du gật đầu, không nói gì, các quan văn đồng loạt nhìn Lỗ Túc.

    “Khỏi nhìn.” Chu Du nói, “Là Lỗ Tử Kính kêu ta về.”

    Chu Du phong thái nhẹ như mây gió, ánh mắt tĩnh như mặt hồ, nói, “Lỗ Tử Kính sớm biết các ngươi sẽ hàng địch, thế nên gọi ta quay lại trước một bước.”

    Lời vừa thốt ra, trong sảnh nhất thời náo loạn. Trương Chiêu cả giận nói, “Chu đô đốc, ngươi nói vậy là sao! Chẳng lẽ chỉ có ngươi muốn bảo vệ Giang Đông, còn chúng ta là hạng bán chủ cầu vinh hay sao?!”

    Chu Du trầm mặc một lát, sau đó bước lên một bước.

    Chưa bao giờ Tôn Quyền thấy Chu Du áp đảo như vậy, trước mặt y, người này chẳng khác sư phụ, trưởng bối, chỉ có thể ngưỡng mộ, thời gian như quay về năm xưa, y lại biến về đứa trẻ khờ dại.

    “Du từ nhỏ đã theo Tôn gia.” Chu Du trầm giọng nói, “Đến nay đã ba mươi bốn, quen biết Bá Phù ở huyện Thư, ở đây ngoại trừ Hoàng Cái tướng quân, Trình Phổ tướng quân, Chu Trị tướng quân thì ta là người đi theo chủ công lâu nhất.”

    Chu Du thản nhiên trần thuật, trong sảnh lặng ngắt như tờ, ngay cả đám Hoàng Cái cũng không thể lên tiếng, dù sao thì năm xưa sau khi Tôn Kiên qua đời, chỉ có một mình Chu Du theo phò Tôn Sách.

    “Chủ cũ về trời, Trọng Mưu tiếp bước.” Chu Du nghiêng đầu nhìn Trương Chiêu, “Năm xưa Trương Công và ta đã cùng thề trung thành với chủ công, thề bảo vệ Giang Đông, gầy dựng cơ đồ.”

    “Tấm lòng trung của Tử Bố huynh, Công Cẩn không dám dị nghị.” Chu Du ôm quyền, trầm giọng nói, “Ngày ấy Bá Phù còn sống đã nói, đối nội không biết thì hỏi Trương Chiêu, đối ngoại khó quyết thì hỏi Chu Du. Ngô Quận, Giang Đông được như hôm nay cũng nhờ công lao của Tử Bố huynh.”

    Trương Chiêu hừ một tiếng, lúc này sắc mặt mới dịu xuống.

    Chu Du thở dài, ngồi xuống trước bàn Tôn Quyền, nói, “Chúng ta hãy xem lại, cơ nghiệp này liệu đã đến nỗi chắp tay dâng cho người hay chưa.”

    Hoàng Cái cười lạnh, “Chắp tay dâng cho người? Lữ Bố có đội mồ sống lại cũng chỉ là bại tướng dưới tay Tôn tướng quân, đừng hòng chiếm được dù chỉ một tấc đất Giang Đông!”

    Hoàng Cái nói xong, rút một mũi tên, đầu tên hướng lên trên, cắm vào bình đồng trên bàn Tôn Quyền.

    “Khu vực hiểm yếu của Giang Đông đã mất, không còn là nơi dễ thủ khó công nữa.” Trương Hoành thở dài, nói, “Quân số hai phe chênh lệch quá lớn, chỉ dựa vào chưa đến ba vạn thủy quân, hãy noi gương mười vạn thủy quân Kinh Châu, khai chiến là không khôn ngoan.”

    Trương Hoành cũng rút một mũi tên, đầu tên hướng xuống, cắm vào bình đồng.

    Trình Phổ nốc một hớp rượu, tiện tay ném mũi tên vào bình, tên sắt va leng keng, đầu tên hướng lên.

    “Sở Bá Vương trong trận Cự Lộc chỉ dùng hai vạn quân Giang Đông đập nồi dìm thuyền*, đại phá quân Tần.” Trình Phổ lạnh lùng nói, “Đánh trận sao có thể lấy quân số nhiều hay ít để quyết định thắng thua?”

    *Dựa theo tích Hạng Vũ mang quân đánh Cự Lộc, sau khi qua sông thì dìm hết thuyền, đập vỡ nồi niêu để binh sĩ thấy không có đường lui, phải quyết tâm đánh thắng.

    Gia Cát Cẩn lấy một mũi tên, chậm rãi bước tới đứng trước mặt Tôn Quyền, chắp tay gọi, “Chủ công.”

    “Các vị tướng quân.” Gia Cát Cẩn nói, “Có câu kẻ được lòng người ắt chiếm thiên hạ, Tào Tháo là tướng nhà Hán, sai khiến thiên tử vốn đã không hợp khuôn phép. Chốn Giang Đông tuy là cơ nghiệp năm xưa Phá lỗ tướng quân để lại, nhưng xét ngọn nguồn, chủ công vẫn là thần tử nhà Hán.”

    Gia Cát Cẩn cắm tên vào bình, đầu tên hướng xuống, nghiêm túc nói, “Lần này Tào Tháo phụng mệnh thiên tử mà đến, về lý, Giang Đông là lãnh thổ nhà Hán, về tình, trung thành với Hán thất chính là bổn phận. Mong chủ công nghĩ lại.”

    Hàn Đương cười lạnh nói, “Gì mà tướng nhà Hán, cũng chỉ thứ giặc cỏ soán vị! Phục vụ thiên tử nhiều năm như vậy, tại sao không trả lại Lạc Dương? Tại sao không trao quyền cho thiên tử?”

    Hàn Đương vung tay, tên cắm vào bình, va lanh canh không dứt.

    “Không sai!” Tưởng Khâm trầm giọng nói, “Nếu là thiên tử đích thân xuất chiến thì có thể thương lượng, giặc Tào soán ngôi nhà Hán, tuyệt đối không thể hàng!”

    Lại một mũi tên phi vào bình.

    Lã Phạm nói, “Các vị tướng quân ham chiến như vậy, có nghĩ đến cảnh trận này mà xảy ra thì có biết bao sinh linh đồ thán hay không?” Lã Phạm cho tên vào bình, lông đuôi hướng lên. Ngu Phiên lại nói, “Tôn Tử viết, thượng binh phạt mưu, kỳ thứ phạt giao*. Cho dù Tào Tháo lấy được Giang Đông nhưng biết làm sao để thống trị?”

    *Xuất quân đánh giặc đầu tiên phải dùng mưu kế, dùng kế không được mới đánh bằng ngoại giao.

    Ngu Phiên đến trước bàn Tôn Quyền, bỏ mũi tên vào bình, trầm giọng nói, “Đầu hàng để đổi lấy cái danh thần tử nhà Hán, cũng có khác gì bây giờ đâu? Tào Tháo muốn chiếm Ngô, trước hết phải khiến dân Ngô quy phục.”

    “Đúng thế.” Trương Chiêu nói, “Xin nghĩ cho tính mạng toàn dân Giang Đông, cũng chẳng tổn hại đến mình, chủ công hãy cân nhắc.”

    Trương Chiêu bỏ mũi tên của mình vào bình.

    Trong phòng im lặng, Chu Trị đột ngột lên tiếng, “Ta cũng đã theo Phá lỗ tướng quân mấy chục năm.”

    Võ tướng bên cạnh Tôn Kiên năm nào bây giờ tóc mai bạc màu, Chu Du ngước mắt nhìn Chu Trị.

    “Năm xưa Phá lỗ tướng quân dấy binh từ Trường Sa.” Giọng nói Chu Trị khí phách hùng hồn, “Dám hỏi chư vị đang ngồi đây, nếu chủ cũ còn sống, y sẽ hàng hay không hàng?”

    Lời vừa thốt ra, Chu Trị ném tên vào bình, Lỗ Túc đứng dậy nói, “Nếu hôm nay Đông Ngô ta quy hàng thì không phải xưng thần, mà là mất nước.”

    Lỗ Túc ném tên. Chu Du cầm mũi tên cuối cùng, đứng xuất thần trước mặt Tôn Quyền.

    “Công Cẩn.” Tôn Quyền gọi.

    Chu Du cầm tên, nhìn hai bình đồng trên bàn.

    “Đệ nói xem, nếu hôm nay anh đệ vẫn còn…” Chu Du nói rất khẽ, “Y sẽ hàng hay không hàng?”

    Tôn Quyền không trả lời. Chu Du im lặng thật lâu, sau đó nói, “Bỗng dưng ta quên mất hình dáng y trông thế nào rồi, nghĩ mãi không nhớ nổi vậy nhỉ?”

    “Các ngươi còn nhớ dáng vẻ của Bá Phù không?” Chu Du hỏi các văn thần đang ngồi.

    Trương Chiêu hít vào một hơi, cất giọng đáp, “Bá Phù… khi còn sống rất hay cười.”

    Chu Du nhoẻn cười, trong nụ cười thấm đẫm nỗi đau thương.

    “Chín năm rồi.” Chu Trị nói.

    “Chín năm.” Chu Du khàn giọng nói, “Thế mà ta đã quên mất hình dáng y rồi.”

    “Huynh quên thật sao?” Tôn Quyền hỏi.

    Chu Du không trả lời, thả tên, xoay người rời đi.

    Đám Hoàng Cái đứng dậy cáo từ, chỉ còn Tôn Quyền ngồi ở bàn, trước mặt là hai bình đồng, một cắm mũi tên của các mưu sĩ, lông vũ hướng lên, một cắm tên của võ tướng, đầu tên lóe ánh kim loại sắc bén.

    Ráng chiều như máu trải dài mặt sông, vạt áo Chu Du bay phần phật, đứng trước sông.

    “Chàng nói thật không?” Tiểu Kiều cầm áo choàng khoác lên vai Chu Du, nói, “Nghe nói, hôm nay trước mặt chủ công, chàng bảo không nhớ nổi dáng vẻ Tôn Lang.”

    Chu Du đáp, “Ta vẫn nhớ, mấy năm qua, ta nào có quên dù chỉ một ngày. Ta chỉ không biết đâu mới là y.”

    Tiểu Kiều thở dài, dịu dàng hỏi, “Chu Lang, chàng muốn đánh à?”

    “Nàng về trước đi.” Chu Du nói, “Gió đêm lạnh.”

    Tôn Quyền đi dọc bờ sông bước đến, Chu Du cùng Tiểu Kiều quay đầu nhìn bóng dáng cô đơn của y.

    “Em đi hâm rượu cho hai người.” Tiểu Kiều biết Tôn Quyền muốn nói chuyện riêng với Chu Du.

    Tôn Quyền đứng trên cồn cát, hai người không nói tiếng nào.

    “Huynh không đánh đàn.” Tôn Quyền nói.

    “Không có ai nghe.” Chu Du đáp.

    Hai người đứng sóng vai, Chu Du lại nói, “Đệ cao hơn anh rồi.”

    Tôn Quyền nói, “Nếu y dưới suối vàng có linh, chắc chắn y đang mắng ta nhu nhược.”

    “Y sẽ không mắng đệ.” Chu Du nói, “Chỉ cảm thấy tiếc mà thôi. Dù sao thì nếu quy hàng, chúng ta vẫn là thần tử nhà Hán, nhưng đệ là chủ công, đệ không phải thần tử. Nếu đệ chọn hy sinh vì Đông Ngô, ta đeo tang đệ, đệ muốn đánh, ta đi theo đệ.”

    Tôn Quyền ngẩn người.

    Chu Du tránh ánh mắt Tôn Quyền, nhìn nước sông cuồn cuộn. Trong phút chốc, Tôn Quyền im lặng, Chu Du nói đúng, nếu Giang Đông đầu hàng, văn thần võ tướng vẫn sẽ là thần tử nhà Hán. Chỉ có Tôn Quyền là không bao giờ lấy lại địa vị hôm nay được nữa.

    “Nghĩ kỹ rồi thì về đi.” Chu Du nghiêng đầu, nói, “Còn muốn đánh thì theo ta.”

    Một khắc cuối cùng, rốt cuộc Tôn Quyền đã có quyết định, Chu Du không quan tâm, xoay người vào phòng.

    Tiểu Kiều hâm rượu, Chu Du ngồi trước bàn, Tôn Quyền đuổi theo. Gió đêm thổi bay màn lụa, sau lớp lụa mỏng manh như có bóng ai vừa lướt qua. Chu Du ngẩng đầu nhìn, ký ức xưa cũ chợt ùa về, có một người đứng ở đó, nói với hắn…

    Công Cẩn, Tôn Quyền cùng Giang Đông giao lại cho đệ.

    “Có bao nhiêu phần thắng?” Tôn Quyền hỏi.

    “Đệ nói quyết định trước đã.” Chu Du trầm giọng nói, nhận rượu từ tay Tiểu Kiều.

    Tôn Quyền uống một hơi cạn chén, ngẩng đầu nhìn Chu Du. Y biết Chu Du đã quyết đánh một trận sống còn, nhưng có vài lời vẫn không nhịn được muốn hỏi.

    “Nếu thua thì sao?” Tôn Quyền hỏi.

    Chu Du đáp nhẹ như mây gió, “Nhảy sông tạ tội, đi gặp anh đệ.”

    Tiểu Kiều cứ như không nghe thấy, tự nhiên rót rượu cho Tôn Quyền, đứng dậy rời đi.

    “Đánh.” Rốt cuộc, Tôn Quyền nhẹ nhàng buông một chữ.

    “Nếu đánh…” Chu Du thản nhiên nói, “Chúng ta có năm phần thắng.”

    “Thứ nhất: Quân Tào từ xa tới, phải hành quân đường dài, khó tránh cực nhọc, trời lạnh, lương thảo không đủ cung ứng, hơn nữa kỵ binh, bộ binh không thiện thủy chiến, tuy có tám mươi vạn cũng phí công. Quân ta có thể chờ địch mỏi mệt rồi tấn công.

    Thứ hai: Người phương Bắc không quen khí hậu, dễ say sóng, ắt sẽ sinh bệnh.

    Thứ ba: Tào Tháo không có thủy quân, bảy vạn quân dưới quyền Thái Mạo, Trương Doãn không đồng lòng, ý chí chiến đấu không cao.

    Thứ tư: Thế lực của Hàn Toại là mối họa ngầm cho Tào Tháo.

    Thứ năm: Lưu Bị xuôi Nam, đã tới Hạ Khẩu, chúng ta có thể kết đồng minh.”

    Chu Du giơ năm ngón tay trước mặt Tôn Quyền, phân tích, “Đó chính là năm phần thắng của chúng ta, ta cần ba vạn tinh binh để phá vây, nhưng cần điều tra thêm.”

    Lỗ Túc đi vào, vén tay áo, cười nói, “Chủ công, người nên uống chén rượu này vốn phải là ta.”

    Tôn Quyền nói, “Ngồi đi, Tử Kính, ta nghĩ kỹ rồi, kế hoạch này là hai người bàn bạc từ trước à.”

    “Đâu phải.” Chu Du nói, “Tâm ý tương thông thôi. Mời chủ công.”

    Chu Du đích thân rót rượu. Ba người uống rượu, Lỗ Túc lau miệng, nói, “Đại quân của Lưu Bị ở Hạ Khẩu đang chờ bên bờ sông, gửi thư sang.”

    “Mời ông ta lại đây.” Tôn Quyền đứng lên nói, “Ta đi sắp xếp.”

    Đến lúc này Chu Du mới thở phào, nói, “Đám Trương Chiêu xin nhờ chủ công vậy.”

    Tôn Quyền không nói hai lời, an bài xong tất cả ngay trong đêm đó. Chu Du đứng ở bờ sông, cột mảnh vải vào móng Phi Vũ, Phi Vũ kêu một tiếng, lướt qua muôn nghìn con sóng, bay đến phía Bắc.

    Chương 34: Phá vây

    Đêm khuya lặng lẽ, binh mã ven bờ hành quân, Cam Ninh giao binh phù cho Tôn Quyền, bắt đầu từ hôm nay, toàn quân Giang Đông lấy chỉ thị của Chu Du là quân lệnh tối cao.

    “Bến cảng sao rồi?” Chu Du hỏi.

    Cam Ninh đáp, “Chu Trị tướng quân, Trình Phổ tướng quân đã an bài thỏa đáng. Hàn Đương đã mang binh theo đường bộ đến cảng Giang Lăng.”

    Lỗ Túc thay áo giáp, thống lĩnh binh sĩ tiến đến, nói, “Ta đi đây.”

    “Ta đi với huynh.” Chu Du nói.

    “Không được!” Cam Ninh Lỗ Túc đồng thanh chặn lời.

    Lỗ Túc nói, “Ngươi là thống lĩnh ba quân, sao có thể mạo hiểm như vậy?”

    “Ta không yên tâm.” Chu Du ngẩng đầu nhìn phía Bắc Trường Giang ẩn mình trong bóng tối, trầm giọng nói, “Tới giờ Phi Vũ vẫn chưa về.”

    “Ngươi thả Phi Vũ báo tin cho ai?” Lỗ Túc cau mày hỏi, “Có nội ứng trong Tào doanh à?”

    Chu Du phẩy tay áo, đồng tử thâm thúy phản chiếu ánh đuốc trùng điệp.

    “Tắt lửa.” Chu Du ra lệnh, “Tất cả lên thuyền.”

    Binh sĩ dập tắt đuốc, lên thuyền dưới tiết trời lạnh giá, hơn trăm thuyền nhỏ rời bến, lướt đến tương lai mịt mù, đón gió rét, vượt sóng tiến lên.

    Sông Ngân vắt ngang trời đêm, nước Trường Giang chảy mãi không ngừng.

    Cam Ninh cầm mái chèo quạt nước, thuyền nhỏ lướt như bay, Chu Du mặc trường bào, ho mấy tiếng, Lỗ Túc nói, “Ngươi vào trong khoang nghỉ đi.”

    Chu Du khom người vào khoang thuyền. Giữa ngày tam cửu* mà Cam Ninh vẫn cởi trần, cơ bắp cuồn cuộn, chèo thuyền soái lao đi như gió, kéo dài khoảng cách với trăm thuyền nhỏ đằng sau, thuận gió mà lên.

    *Chỉ chín ngày thứ ba sau lập đông (khoảng trung hoặc hạ tuần tháng Giêng), là thời điểm lạnh nhất trong năm.

    Chốc sau, tiếng đàn vang vọng giữa đất trời.

    Điệu nhạc càng lúc càng dồn dập, trôi chảy lưu loát, bảy dây đàn cùng ngân vang, như muốn truyền lời với bờ bên kia.

    Cam Ninh cười lưu manh, quay đầu nhìn vào khoang thuyền, muốn nói gì đó, Lỗ Túc lại ra hiệu hãy im lặng nghe.

    Bờ bên kia vang lên tiếng sáo như có như không, phá không mà đến, hòa với tiếng đàn của Chu Du. Nước sông loang loáng phản chiếu bầu trời sao, hai luồng âm thanh như hóa thành vũ khí hữu hình giao chiến giữa không trung.

    Trong tiếng sáo ẩn chứa ý thăm dò cùng chờ mong.

    Ngay sau đó, tiếng đàn của Chu Du chuyển thành bất mãn, âm vang chấn động tiếng sáo bờ bên kia, tiếng sáo dần dần lắng xuống, im lặng.

    Cam Ninh cũng nghe ra, hỏi Lỗ Túc, “Bên kia có bao nhiêu người?”

    Lỗ Túc nói, “Sơ sơ ít nhất là mười vạn, tính luôn binh lính.”

    Cam Ninh nói, “Mười vạn người rút về Đông Ngô, chủ công phải đau đầu rồi.”

    “Để xem đã.” Lỗ Túc nói, “Lần này đến đây chỉ để đón người truyền tin thôi, nếu nói chuyện được thì vẫn còn hy vọng.”

    Tiếng nước vang lên, tiếng đàn của Chu Du phiêu lãng không dứt. Lính trên bờ kéo dây chão, hơn trăm thuyền cập bến, trên bờ là tám vạn dân và hai vạn binh sĩ đang nghỉ ngơi. Đuốc sáng rọi trời sao, xa ngút tầm mắt.

    Lưu Bị dẫn thuộc hạ ra đón, Lỗ Túc nhảy lên bờ, Lưu Bị lập tức quỳ xuống, Lỗ Túc hết hồn, vội tiến lên đỡ.

    “Hoàng thúc! Xin đừng làm vậy.” Lỗ Túc nói.

    Lưu Bị thở dài, “Cái quỳ này là vì mười vạn dân chúng bờ Bắc, cầu xin Ngô hầu mở lòng từ bi.”

    Các binh sĩ lần lượt quỳ xuống, Lỗ Túc nói, “Các vị mau mau đứng dậy, chủ công phái ta và Cam tướng quân đến vì muốn thương lượng đối sách với hoàng thúc.”

    Lỗ Túc một tiếng “hoàng thúc”, hai tiếng “hoàng thúc” như đúng rồi, Chu Du trong khoang thuyền dở khóc dở cười, chỉ có Lỗ Túc mới thích hợp giải quyết loại chuyện thế này, Lưu Bị không có chức quan, cũng không phải Châu mục Kinh Châu, chỉ có thể gọi là hoàng thúc.

    “Tối nay, Ngô hầu triệu tập văn thần võ tướng Giang Đông nghị sự làm sao để công phá thủy quân giặc Tào.” Lỗ Túc nói với mọi người, “Vị nào sẽ đi cùng ta?”

    Mọi người im lặng, không ngờ Lỗ Túc lại đề nghị như thế, nếu bị Tôn Quyền trở mặt bắt sống, giao cho Tào Tháo tranh công thì đúng là mất nhiều hơn được.

    Lưu Bị cười nói, “Ta đi, tướng quân nào muốn theo ta qua sông?”

    “Chủ công chờ đã.” Một thanh niên trẻ ra mặt, chắp tay với Lỗ Túc, nói, “Lượng tình nguyện đi theo.”

    Lúc này, Chu Du rốt cuộc cũng ra mặt, thậm chí không một ai chú ý tới hắn, chỉ có Gia Cát Lượng dời mắt quan sát hắn. Chu Du trao đổi ánh mắt với Lỗ Túc, Gia Cát Lượng nhạy bén bắt được ánh mắt đó.

    “Vị này là…” Gia Cát Lượng hỏi.

    Chu Du xua tay, lên bờ hỏi, “Ngươi là em trai của Gia Cát Cẩn đại nhân?”

    Gia Cát Lượng gật đầu, Chu Du lại nhìn Lỗ Túc, Lỗ Túc gật đầu nói, “Nếu đã như thế, vậy mời Khổng Minh tiên sinh theo ta đến gặp Ngô hầu.”

    “Triệu Tử Long đâu?” Chu Du hỏi.

    Lưu Bị thở dài, nói, “Tiên sinh đây là…”

    “Vẫn chưa gặp Triệu Tử Long.” Một người đàn ông cường tráng, râu dài ba thước, oai phong lẫm liệt nói, “Sau trận Trường Bản thì không biết tung tích.”

    “Chủ soái quân Tào đóng ở Đương Dương là ai?” Chu Du biết người này nhất định là Quan Vũ, lại hỏi.

    “Hạ Hầu Ân, họ hàng của Tào Tháo.” Quan Vũ hừ một tiếng, trầm giọng nói, “Ba ngày trước rút khỏi Trường Bản, Triệu Vân không từ mà biệt, trước mắt đã sắp đuổi đến Hạ Khẩu, Đông Ngô các ngươi sao lại không biết được chứ.”

    “Đúng thế!” Một người đàn ông hùng dũng khác nói, “Chờ quân Tào đuổi tới luôn đi, má nó, chủ công nhà ngươi khỏi cần phái thuyền đón nữa! Mọi người đoàn kết chết chùm một thể!”

    Các bạn đang đọc truyện đam mỹ đồng nhân dmh tại dammydmh.com

    “Dực Đức!” Lưu Bị biến sắc, nói, “Không được nói linh tinh, Tử Long ắt không bỏ ta mà đi.”

    Chu Du đã hiểu đại khái, Phi Vũ không về, hơn nửa là Triệu Vân đã xông vào doanh trại địch. Chỉ không biết mất bao lâu để Tào Tháo đuổi tới đây.

    “Tào Phi có đến không?” Chu Du hỏi.

    Không ai trả lời, ngay cả Lỗ Túc cũng không hiểu tại sao Chu Du hỏi vấn đề này. Chu Du thấy vậy, liền sai người dắt ngựa đến, chọn lính, nói, “Ta đi đây, Tử Kính, trước mặt chủ công nhờ huynh đấy.”

    Lỗ Túc chắp tay với Chu Du. Chu Du điều động hai trăm kỵ binh rời bến, chạy lên phía Bắc.

    —o0o—

    Mùa đông năm Kiến An thứ mười ba, Đương Dương, dốc núi Trường Bản.

    Thiên quân vạn mã như dòng nước lũ vây kín chiến trường, Triệu Vân ôm Lưu Thiện, giục chiến mã Đích Lô của Lưu Bị lao nhanh xuống phía Nam.

    “Ăn một chiêu này!” Có người tập kích.

    Triệu Vân đỡ được mũi giáo, quét thương, quát, “Cản ta thì chết!”

    Nắng chiều đổ bóng, giáp bạc của Triệu Vân nhuốm đỏ máu tươi, áo choàng tanh tưởi, đơn thân độc mã thoát khỏi vòng vây như chiến thần giáng thế!

    Hạ Hầu Ân dẫn quân đến giết, Triệu Vân xoay người vung thương, thể lực Hạ Hầu Ân không bằng Triệu Vân, Triệu Vân ỷ vào binh khí dài, hất bay kiếm Thanh Công trong tay Hạ Hầu Ân, quát một tiếng! Hạ Hầu Ân không ngờ Triệu Vân dám quay lại giết, chỉ trong một chớp mắt, mũi thương xuyên người!

    Cả Hạ Hầu Ân lẫn ngựa bị đâm xuyên, trường kiếm Thanh Công tung lên trời, liệng một vòng, Triệu Vân tiến đến bắt lấy chuôi kiếm.

    “Cảm tạ!” Triệu Vân quát lớn.

    Quân Tào nhốn nháo, chưa bao giờ gặp khiêu khích như vậy, hơn vạn người đổi hướng đuổi theo Triệu Vân. Ngựa Đích Lô tung vó chạy thục mạng, dường như biết chỉ cần chậm một chút thì tiểu chủ nhân trong ngực Triệu Vân sẽ bị bằm thây trăm mảnh! Tên bắn như mưa, phương xa nổi trống.

    Ba tiếng tùng, tùng, tùng!

    Trống ngừng, Chu Du dẫn viện quân chạy đến, nhưng chỉ dừng trên vách núi, không xuống chiến trường.

    Trong khoảnh khắc, nghìn vạn mũi tên phóng lên trời, vẽ một đường vòng cung, bắn vào trong núi, đầu tên hướng xuống, thề ghim xác Triệu Vân!

    “Bắn!” Chu Du quát lên.

    Vun vút bốn tiếng, bốn mũi tên cùng xuất hiện, mang theo lụa trắng bay qua khe núi, chắn ngang mưa tên, mở một lối thoát.

    “Sa—” Triệu Vân đột nhiên hét lớn, Đích Lô nhảy lên, vọt vào khe núi.

    “Tiếp ứng đường phía Nam!” Chu Du nói, “Đi!”

    “Lại có người đến.”

    Trên dốc cao, Tào Tháo nhìn xuống chiến trường, lẩm bẩm, “Lần này là ai? Viện binh Đông Ngô sao?”

    Tào Phi đứng một bên, nhiều năm trôi qua, thằng nhóc ma lanh năm nào nay đã lột xác thành một thanh niên anh tuấn, mày kiếm nhướn cao, ánh mắt như có thể giết người, thanh gươm sắc bén đã tuốt khỏi vỏ.

    “Có lẽ là binh mã của Lưu Bị.” Tào Phi nói, “Con thấy chẳng cần đuổi theo đâu.”

    Tào Tháo cười nói, “Lưu Huyền Đức sợ chết, sẽ không quay lại đâu, ngay đến vợ con còn có thể bỏ mặc mà chạy, con nói xem, tại sao chỉ có một võ tướng quay lại nhỉ?”

    Tào Phi không trả lời, Tào Tháo nói, “Không tiếc bất cứ giá nào, phải bắt bằng được người này, Triệu Tử Long quả là viên dũng tướng!”

    Tào Phi gác kiếm sau lưng, Tào Tháo hỏi, “Tính làm gì?”

    “Con đi gặp huynh ta.” Tào Phi đáp, nhảy xuống đài điểm tướng, cưỡi chiến mã Trảo Hoàng Phi Điện của Tào Tháo, phóng đi.

    Sắc trời dần tối, Triệu Vân chạy xuyên khe núi Đương Dương, nhất thời mất phương hướng, sau lưng vẫn có truy binh, y ẩn mình vào bóng tối, cúi người uống nước suối, tiếp tục lên ngựa, quan sát trái phải. Phi Vũ vỗ cánh bay đến, Triệu Vân ngẩng đầu, chạy theo cắt trắng.

    Cuồng phong thốc qua khe núi, mang theo tiếng rống giận của đất trời.

    “Huynh không được đi, Tử Long đại ca, nếu không nhờ Phi Vũ quay lại, ta thậm chí không bắt được cái bóng của huynh.”

    Tào Phi cưỡi Trảo Hoàng Phi Điện, chặn trước khe núi.

    Triệu Vân ghìm Đích Lô, trầm mặc không nói.

    “Nhường đường.” Triệu Vân nói.

    “Huynh không được đi.” Tào Phi nói, “Theo ta về, ta lấy tính mạng đảm bảo, cha ta sẽ không giết huynh.”

    Triệu Vân phẫn nộ quát, “Ta và đệ không chung một chủ, chớ nói những lời ấy, muốn ta hàng Tào, trừ khi lấy đầu ta!”

    Theo tiếng quát, Triệu Vân xông thẳng vào Tào Phi, hai chiến mã như gió lốc, suýt chút tông vào nhau! Trảo Hoàng Phi Điện và Đích Lô đồng loạt hí dài, truyền xa trong đêm tối. Tào Phi cùng Triệu Vân rút kiếm, Triệu Vân tung đòn, Tào Phi đón đỡ, hai kiếm sượt qua nhau nghe ken két, rung động núi đồi!

    Tia lửa bắn ra, chỉ trong nháy mắt, hai người đã giao chiến mấy lượt, Triệu Vân quét kiếm Thanh Công, Tào Phi không né kịp, mũi kiếm lóe sáng vẽ một vòng cung, Triệu Vân đã lướt qua.

    “Dạy bao nhiêu lần rồi.” Triệu Vân dừng ngựa, quay lưng với Tào Phi, “Phòng thủ có kẽ hở phải buông dây cương, dùng hai chân khống chế ngựa.”

    Tào Phi bị cắt mấy sợi tóc, bay theo gió.

    “Tại sao không giết ta?” Tào Phi nhìn bóng lưng Triệu Vân, chiêu vừa rồi tung ra chỉ cách động mạch cổ mấy tấc, kiếm Thanh Công chém sắt như chém bùn, chỉ cần cứa nhẹ một đường đã có thể lấy mạng Tào Phi.

    “Về đi.” Triệu Vân nghiêng đầu, trầm giọng nói, “Đệ lớn rồi, lực tay cũng mạnh, Tử Long đại ca chúc đệ sớm ngày thành danh… Sa!”

    Triệu Vân chạy ra khỏi khe núi, lồng ngực Tào Phi thở phập phồng, sau lưng là một nghìn quân Tào đuổi đến.

    “Thế tử.” Thủ lĩnh tướng sĩ hỏi, “Giờ làm sao? Rút lui?”

    Tào Phi im lặng thật lâu, sau đó nói, “Đuổi theo.”

    Triệu Vân thoát khỏi khe núi, chạy dọc quan đạo Đương Dương, thẳng hướng Hạ Khẩu, hơn một nghìn quân Tào cầm đuốc, vây quanh Tào Phi bám sát không tha.

    Tốc độ ngựa càng lúc càng chậm, Đích Lô đã làm bạn với y hai ngày hai đêm, không ăn không ngủ, sùi bọt mép, lực bất tòng tâm. Tào Phi vừa chạy vừa giương cung nhắm phía chiến mã của Triệu Vân, ngay thời khắc quyết định, trên trời vang tiếng chim hót.

    Phi Vũ lao xuống như ánh chớp, Tào Phi hô to một tiếng, bị mổ trúng tay, máu chảy ồ ạt. Thuộc hạ nhất thời hoảng loạn, Phi Vũ đã biến mất tăm.

    Chu Du thống lĩnh kỵ binh từ sơn đạo chạy đến, trở tay bắn một tên, hạ gục thủ lĩnh tướng sĩ quân Tào.

    “Công Cẩn!” Triệu Vân gọi.

    Chu Du chặn giữa đường, hơn nghìn quân Tào dừng lại, bảo vệ Tào Phi. Trên núi, quanh bình nguyên trống trải, trong rừng đều lóe ánh đuốc, thế trận phải hơn vạn người. Lúc này Tào Phi mới nhận ra mình đã lọt vào mai phục.

    “Đệ lớn rồi, Tử Hoàn.” Chu Du trầm giọng nói, rút kiếm Xích Quân bên hông, tung một hư chiêu, Tào Phi nheo mắt né ánh trăng phản chiếu.

    “Đã lâu không gặp.” Tào Phi nói, “Công Cẩn đại ca.”

    “Tôn Quyền cũng lớn rồi.” Chu Du nói, “Có rảnh đến Đông Ngô ôn chuyện, người phải để lại, nếu ngoan cố đuổi theo, lọt vào trận của quân Lưu thì đừng trách Công Cẩn đại ca không thể giải vây cho đệ.”

    Triệu Vân cầm kiếm, giục ngựa đến đứng song song với Chu Du.

    “Về đi.” Triệu Vân nói, “Ngày sau tái chiến.”

    Tào Phi cười cười, huýt sáo một hơi, trong giai điệu dường như có ẩn ý khác, chẳng hề có thiện cảm giữa lúc nghìn quân đối chọi, khiến Triệu Vân bất chợt lúng túng.

    “Cũng được.” Tào Phi miễn cưỡng nói, “Chờ chiếm được Giang Đông rồi mọi người cùng ngồi uống rượu ôn chuyện.”

    Nói xong, Tào Phi hạ lệnh về quân doanh.

    Quân Tào rút lui, Chu Du thở phào, nói với Triệu Vân, “Huyền Đức Công đang chờ huynh ở Hạ Khẩu.”

    Triệu Vân nói, “Điều động nhiều người như vậy chỉ vì cứu ta một mạng, Công Cẩn, đệ không…”

    “Là trận nghi binh.” Chu Du nói, “Lúc Tào Phi dẫn quân đuổi theo huynh, ta đã châm đuốc, thật ra chỉ có hai trăm quân, đi nhé!”

    “Đi đâu?” Triệu Vân đằng xa hô to.

    “Về Giang Đông đợi huynh!” Chu Du đáp trả.

    Từ biệt ở dốc Trường Bản, Chu Du dẫn quân đứng cách bờ sông mười dặm, đội thuyền của Lã Mông đã chờ tiếp ứng, Chu Du mang Phi Vũ qua sông, trời lờ mờ sáng.

    “Chủ công đâu?” Chu Du vừa xuống thuyền đã hỏi.

    Lã Mông dắt ngựa đi trước, nói, “Gia Cát Lượng đang tranh luận với các văn thần, chủ công bảo Đô đốc mau đến đó.”

    “Giặc Tào có hơn trăm vạn…”

    Chu Du chạy đến ngoài phủ Tôn Quyền, vừa lúc nghe tiếng Gia Cát Lượng vang ra từ đại sảnh, Chu Du dừng bước, yên lặng nghe.

    “Hơn trăm vạn thì đã sao?” Gia Cát Lượng tự hỏi tự đáp.

    Chu Du liếc mắt ra hiệu với Lã Mông, xua tay, hai người đứng ngoài phòng nghe.

    “Nguồn gốc lính quân Tào từ đâu mà có? Là hợp nhất từ bại quân của Viên Thiệu, tàn quân của Lưu Biểu, chỉ là một đám ô hợp, không đáng sợ.”

    Ngu Phiên cười lạnh nói, “Không đáng sợ? Quân của Lưu Dự Châu chỉ có mấy nghìn, bỏ Kinh Châu trốn đến Hạ Khẩu, toàn quân chỉ có một đường thủy chiến, thế mà vẫn xem là không đáng sợ?”

    Gia Cát Lượng đáp nhẹ như mây, “Chính vì thế, chủ công nhà ta thà chết không hàng, Ngô hầu thì sao, theo ta thấy, Ngô hầu vốn không sợ, bị các vị nói quá mới sợ đấy chứ.”

    Nghe đến đó, Chu Du thấp giọng dặn Lã Mông, “Người này phải giữ lại, không được thả đi.”

    Lã Mông gật đầu, tuân lệnh đi an bài.

    Nhất thời, sắc mặt các mưu sĩ vô cùng khó coi, không ai dám trả lời, đồng loạt nhìn Tôn Quyền.

    Tôn Quyền tức run người, Chu Du bước vào phòng, người bên trong khom lưng hành lễ, Chu Du phất tay xem như đáp lễ. Gia Cát Lượng thấy thế, biết Ngô hầu Giang Đông không dùng lễ quân thần đối đãi với hai người là Chu Du và Trương Chiêu, lập tức đoán ra thân phận Chu Du.

    Chu Du lên ghế trên, ngồi xuống bên trái Tôn Quyền, đè một tay lên vai Tôn Quyền.

    “Theo ngươi thấy…” Chu Du hỏi, “Tào Tháo có bao nhiêu binh mã?”

    Gia Cát Lượng cười nói, “Tính sơ cũng phải một trăm năm mươi vạn.”

    Lỗ Túc cười lạnh, “Khổng Minh tiên sinh càng nói càng thái quá, muốn dọa chúng ta đấy à.”

    Gia Cát Lượng không để ý sắc mặt Lỗ Túc, cười nói, “Tuyệt đối không nói quá, quân Lưu Dự Châu đánh với quân Tào chẳng khác lấy trứng chọi đá.”

    Chu Du lại hỏi, “Nếu là một trăm năm mươi vạn, tại sao quân Lưu Dự Châu không hàng?”

    Gia Cát Lượng thản nhiên nói, “Kẻ sĩ thà chết quyết không chịu nhục, noi gương Điền Hoành, Ngũ Tử Tư, Kinh Kha chịu chết chứ không khuất phục, chủ công nhà ta chính là người như thế, chết chứ không hàng. Nếu Ngô hầu vì thương tiếc muôn dân thì ta chẳng dám vọng tưởng kéo Giang Đông vào chiến cuộc.”

    Tôn Quyền nổi giận, vươn tay rút kiếm bên hông Chu Du chém một nhát, bàn gỗ bị xả thành hai nửa!

    “Ai dám nói hàng sẽ giống cái bàn này.” Tôn Quyền đứng dậy, quét mắt qua các mưu sĩ, không ai dám lên tiếng.

    Sau giờ Ngọ, Tôn Quyền ngồi trong phòng, hai tay đặt trên đầu gối, trầm mặc không nói.

    “Ta đã bàn với Khổng Minh.” Chu Du bước vào nói, “Tử Kính cũng đã tra rõ, trong Đông Ngô không có người thông đồng với Tào doanh.”

    Tôn Quyền gật đầu, hỏi, “Dân của Lưu Huyền Đức đã qua sông hết chưa?”

    Chu Du nói, “Đã phái thuyền đón, ta sẽ đích thân đốc thúc.”

    Tôn Quyền thở dài một hơi, gọi, “Công Cẩn đại ca.”

    Tôn Quyền đứng lên, đến cửa sổ trông ra sông, nhìn dòng nước không bao giờ ngừng nghỉ.

    “Huynh nói xem, trăm nghìn năm sau, liệu có còn ai nhớ rõ trận chiến này không?” Tôn Quyền xoay người lại, nói, “Đến lúc ấy, Giang Đông vẫn còn hay đã mất?”

    “Đại Vũ* trị Cửu Châu mà thành vua, Tần đế thống nhất sáu nước, Hạng Vương tranh giành thiên hạ.” Chu Du trầm giọng nói, “Chia chia hợp hợp, từ xưa đã vậy, chiến tranh lấy ít thắng nhiều không phải là không có, chỉ hiếm thôi.”

    *Chỉ Hạ Vũ, một vị vua huyền thoại ở Trung Quốc cổ đại.

    “Chưa đến thời khắc cuối cùng, không ai biết sẽ thắng hay thua.” Chu Du lại nói, “Cũng như chỉ dựa vào áo quan thì không thể đánh giá một người. Thế nhưng, trận đại chiến này bất luận là thành hay bại cũng sẽ không bao giờ bị quên lãng, theo ta ra ngoài đi, đừng ngẩn người trong này nữa.”

    Chương 35: Mộng về

    Tôn Quyền nhíu chặt đôi mày, rốt cuộc đã ra quyết định, nhưng trận này phải đánh làm sao, khi nào đánh lại chẳng có kế hoạch, còn Chu Du vẫn thong dong thả bước bên bờ sông vắng.

    Hai người đến bến thuyền, dân chạy nạn của Lưu Bị đổ bộ, khắp bến nhìn đâu cũng là người, chen chúc nước chảy không lọt, Lã Mông và Cam Ninh mang binh đưa toàn bộ vào thành. Người qua kẻ lại, tiếng khóc, tiếng la hét, tiếng trẻ con reo mừng, Chu Du nhoẻn cười.

    “Đây là lần đầu ta gặp cảnh này.” Chu Du bất đắc dĩ nói.

    “Ta cũng vậy.” Tôn Quyền nói.

    “Đề phòng thích khách.” Lã Mông chen đến, nhỏ giọng nói, “Ra đây làm gì?”

    Chu Du nói, “Không sao, ta biết.”

    Tôn Quyền biết dù thích khách có trà trộn vào dân chạy nạn cũng không thoát khỏi mắt Chu Du, liền an tâm, nhưng Lã Mông vẫn phái người bảo vệ Tôn Quyền, dân chúng lên bờ đều phải bị lục soát phòng khi có mang nỏ tiễn.

    “Ta nhớ mười năm trước.” Chu Du nói, “Anh đệ từng nói, sớm muộn gì cũng sẽ đánh một trận.”

    Tôn Quyền nói, “Ta nhớ lời này là của huynh, huynh nói nếu thắng trận Quan Độ thì cuộc chiến này sẽ dời lại mười năm sau, bây giờ cuối cùng cũng đến. Không tránh được phải đối chiến với Tào Tử Hoàn.”

    “Năm đó trộm binh của ta đi giúp Tào Phi, giờ có hối hận không?” Chu Du hỏi.

    “Không hối hận.” Tôn Quyền vung tay áo, chậm rãi bước lên phía trước, cười với Lưu Bị vừa xuống thuyền.

    “Lưu Dự Châu.” Tôn Quyền không gọi “hoàng thúc”, hiển nhiên cũng không muốn dưới cơ Lưu Bị, Lưu Bị rất biết điều, tiến đến vái chào, hai mắt ngấn lệ, run giọng nói, “Bị thay mặt bách tính Kinh Châu tạ ơn cứu mạng của Ngô hầu!”

    “Mau đứng lên mau đứng lên.” Tôn Quyền không chờ Lưu Bị quỳ xuống, vội đến đỡ, nhưng Lưu Bị quyết tâm làm đại lễ, hạ gối rạp mình lạy Tôn Quyền, Tôn Quyền kinh ngạc. Vạn dân trên bến thuyền cùng quỳ xuống, khung cảnh chấn động.

    Tôn Quyền quay lại nhìn Chu Du, Chu Du ra dấu tay, bảo y hãy quỳ theo, Tôn Quyền vén vạt áo đáp lễ Lưu Bị, hai người quỳ thẳng lưng, cùng làm đại lễ ngay bến. Dân chúng bật khóc, cảm kích Lưu Bị cùng ân đức thu nhận của Đông Ngô.

    Chu Du phóng tầm mắt ra xa, tìm được Triệu Vân mặc áo xám tro trong luồng người, ra dấu, Triệu Vân lại xua tay, ý bảo lúc này không thể rời khỏi đội ngũ. Đường xa mệt nhọc, Tôn Quyền đón Lưu Bị, các võ tướng nối bước vào phủ. Chu Du ở lại sắp xếp công việc, Lã Mông dọn một khu đất trống ở phía Đông thành cho dân chúng và binh sĩ của Lưu Bị dựng trại.

    Bận rộn một ngày một đêm, hôm sau dân chúng mới lên bờ hết, mỗi ngày Chu Du chỉ ngủ hai canh giờ, bệnh tình trở nặng, vừa về thì nhịn không được ho khù khụ.

    Tiểu Kiều nhíu mày nói, “Chu Lang, chàng nghỉ một lát đi.”

    Chu Du xua tay, gió rét xộc vào, khoác áo, ngồi bên lò lửa nhắm mắt một lúc.

    “Tình hình bờ Bắc thế nào?” Tiểu Kiều lo lắng hỏi.

    Chu Du đáp, “Tào Tháo dùng xích nối các chiến thuyền, như muốn vượt sông.”

    Tiểu Kiều nói, “Chàng ngủ trước đã, hao phí tinh thần nhiều quá rồi.”

    Chu Du im lặng chợp mắt.

    “Quân Tào đến rồi mà còn ngủ hả?” Tôn Sách vỗ vai Chu Du, Chu Du bừng tỉnh.

    “Bá Phù?” Chu Du khó có thể tin.

    Tôn Sách cười, ngồi trên bậc thang trước bàn Chu Du, đưa lưng về phía hắn, vừa rồi thức dậy chỉ trong nháy mắt, Chu Du thậm chí không kịp thấy mặt Tôn Sách.

    “Bá Phù!” Chu Du suýt hất đổ bàn trà, chụp vai y, muốn y xoay mặt lại, Tôn Sách lại không chịu.

    Tôn Sách nhìn ra cảnh sông ngoài cửa, thì thầm, “Công Cẩn, vất vả cho đệ, đệ thấy trận này có thắng được không?”

    “Ta không biết.” Chu Du lắc đầu, nói, “Bá Phù, huynh còn sống?”

    Tôn Sách nghiêng đầu, trong khoảnh khắc đó, Chu Du nhìn thấy mặt Tôn Sách.

    Vẫn là dung nhan thuở niên thiếu, khí phách ngất trời, ngũ quan sắc bén, mày kiếm mắt sáng, khóe môi luôn giữ nụ cười.

    “Bá Phù…” Một khắc đó, Chu Du không kiềm nổi nước mắt, hai mắt đỏ bừng, lệ nóng tràn mi, môi run run, hắn vươn tay xoa gò má Tôn Sách, Tôn Sách nắm tay hắn, mỉm cười siết bờ vai hắn.

    “Nè, khóc cái gì?” Tôn Sách cười nói, thuận thế ôm lấy hắn, hệt như khi bọn họ còn trẻ.

    “Đệ sợ không?” Tôn Sách lại hỏi.

    Chu Du lắc đầu, nước mắt lưng tròng, ngơ ngác nhìn Tôn Sách, giữa đôi mày hằn vẻ bi thương.

    “Ta đã không còn gì để mất.” Chu Du nói, “Khi trận chiến bắt đầu, Tiểu Kiều sẽ dẫn con ta về Phú Xuân, nếu Giang Đông thua, ta lấy mạng hiến tế.”

    Tôn Sách cười nói, “Không thua, sao lại nói vậy? Từ trước đến nay đệ chưa bao giờ thua.”

    Chu Du nắm tay Tôn Sách, hai người ngồi sóng vai trên bậc thang, nhìn mặt y đến xuất thần, mi mày môi mắt, Chu Du đều nhớ rõ, chín năm trôi qua như giấc mộng, hắn vẫn mảy may không quên nửa phân.

    “Cha ta nói, người không hiếu chiến mà muốn hắn đánh là rất khó.” Tôn Sách suy nghĩ, nghiêm mặt nói với Chu Du, “Nhưng người không hiếu chiến một khi đã hạ quyết tâm thì không ai có thể khiến hắn quay đầu, hắn sẽ mạnh mẽ hơn bất cứ kẻ nào, bởi vì hắn không thể rút lui, không còn đường về nữa.”

    Chu Du mỉm cười đau thương, nói, “Mười năm trước, ngay cái ngày mà ta và huynh tranh chấp, trận chiến này đã định trước là sẽ xảy ra.”

    “Đã biết nên đánh thế nào chưa?” Tôn Sách nhìn nước sông, lại nhìn Chu Du.

    “Không biết.” Chu Du đáp, “Chưa nghĩ ra, nhưng ta không thể nói, nói rồi Tôn Quyền sẽ hoảng.”

    Tôn Sách nói, “Đừng lo cho thằng nhóc kia, ta chợt nghĩ đến cái đêm đệ thay ta đánh hạ Ngô Quận, đệ còn nhớ không?”

    “Trong ngoài phối hợp?” Cảm xúc Chu Du dần dần bình ổn.

    Chu Du vẫn nhớ đêm hôm đó, bọn họ đốt một con diều, dẫn ngọn lửa như cuồng long thiêu rụi phủ Thái thú, nhân lúc hỗn loạn, Tôn Sách tấn công Ngô Quận.

    “Suỵt.” Tôn Sách vươn tay diễn tả con rồng rất sống động, ngón tay vạch qua vạch lại giữa không trung.

    “Chu Lang?” Tiểu Kiều đẩy Chu Du, Chu Du hoảng hốt bật dậy, toát mồ hôi, ho kịch liệt.

    “Chàng có sao không.” Tiểu Kiều lo lắng nói, “Em nghe chàng luôn miệng gọi tên Bá Phù.”

    Chu Du vẫn chưa hoàn hồn, màn lụa bị gió xốc lên, lạnh đến phát run.

    Tiểu Kiều nói, “Uống thuốc rồi vào trong ngủ nhé, chàng quá mệt nhọc.”

    Chu Du nheo mắt, nhớ lại con rồng lửa cháy hừng hực đêm hôm ấy.

    “Không sao.” Chu Du nói, “Đừng lo cho ta.”

    Sắc trời tối đen, nửa đêm, Chu Du vào phòng thu dọn đồ đạc.

    “Em không đi!” Giữa đôi mày Tiểu Kiều hiện vẻ không cam lòng.

    Chu Du vừa xếp quần áo và vật dụng tùy thân của Tiểu Kiều, vừa nói, “Nàng nhất định phải đi, không được ở lại đây.”

    “Nếu quân Tào lên bờ.” Tiểu Kiều nói, “Em sẽ mang dao găm.”

    “Nàng muốn con chúng ta ngay cả mẹ cũng không còn sao?” Chu Du nói.

    Tiểu Kiều ngừng thở, im lặng không nói, Chu Du tiếp tục dọn hành trang, vợ chồng hai người ngồi đó, Chu Du vén mấy lọn tóc rũ xuống trán Tiểu Kiều.

    “Nàng về đi, có thế ta mới không bận lòng.” Chu Du chậm rãi nói.

    “Chàng mơ thấy Bá Phù sao?” Tiểu Kiều nắm ngón tay Chu Du, lẳng lặng nhìn hắn như không muốn thừa nhận.

    Chu Du gật đầu, hai người không nói gì nữa, trời hửng sáng, Chu Du đưa Tiểu Kiều ra bến, một chiếc thuyền con, Tiểu Kiều lưng đeo hành trang, được các binh sĩ hộ tống xuôi dòng Trường Giang về Phú Xuân.

    Chỉ còn một cây đàn, một ấm trà xanh, một quyển trục da dê.

    Bản đồ Trường Giang như sắp hóa thành diều lửa ập vào mặt bất cứ lúc nào.

    “Tám mươi vạn đại quân.” Giọng Triệu Vân ngoài cửa vang lên, “Gộp hết lính của hai chúng ta chỉ có năm vạn, trận này đánh sao đây?”

    “Mọi người cũng đang thắc mắc vấn đề này.” Chu Du nói, “Ngay cả Bá Phù chết rồi còn về hỏi ta mà.”

    Triệu Vân nhoẻn cười, dựa hành lang, khoanh tay, vẫn là giày da giáp bạc như thiếu niên tướng quân ngày xưa, khác biệt duy nhất là dung nhan đã nhuốm màu sương gió.

    “Huynh già rồi.” Chu Du thản nhiên nói.

    “Đệ cũng già.” Triệu Vân nói, “Đệ còn già nhanh hơn ta, mặt vẫn vậy nhưng tóc mai bạc cả rồi.”

    Chu Du nói, “Huynh người già nhưng tâm không già, ta chưa già nhưng tâm đã già.”

    Triệu Vân tiến đến vỗ cánh tay Chu Du, ngồi một bên, hai người có quá nhiều điều muốn nói, bao nhiêu chuyện cũ muốn ôn, nhất thời chẳng nói nên lời.

    Rốt cuộc, những ký ức năm xưa hóa thành nụ cười ngầm hiểu ý nhau, không nhắc đến nữa.

    Chu Du lên tiếng trước.

    “Huynh về Trường Bản làm gì?”

    “Cứu người.”

    “Cứu ai?”

    “A Đẩu.”

    Chu Du không hiểu, Triệu Vân giải thích, “Con trai chủ công.”

    “À.” Chu Du nói, “Tào Phi đuổi sát không tha, chắc cũng đánh hơi thấy, sao lúc đó ta không thấy huynh mang theo A Đẩu.”

    Triệu Vân bèn kể lại với Chu Du rằng y tiếp nhận đứa trẻ sơ sinh còn trong tã từ tay Cam phu nhân, quấn trước ngực chạy đi. Lúc thoát hiểm là giữa đêm, Chu Du không nhìn ra, bây giờ nhắc lại mới thấy sợ, lại bị Triệu Vân khoa tay múa chân, diễn tả cho không biết nên khóc hay cười.

    Cuối cùng, Chu Du nói, “Lưu Dự Châu vứt bỏ con mình, huynh quay về cứu làm gì? Đơn thân độc mã mạo hiểm chỉ vì một đứa bé sao?”

    Triệu Vân nói, “Nó là con trai trưởng của chủ công.”

    Chu Du chỉ đành từ bỏ, cuốn bản đồ, pha trà cho Triệu Vân, hỏi, “Làm sao phá địch?”

    Triệu Vân nhún vai nói, “Không biết, có trời biết, chẳng phải đệ không sợ à? Thật sự chưa nghĩ ra sao?”

    “Không phải huynh cũng chưa nghĩ ra đó sao?” Chu Du phản bác, “Ta thấy huynh cũng đâu có sợ.”

    Hai người cùng bật cười, lát sau, Chu Du bất đắc dĩ lắc đầu.

    “Bá Phù về hả?” Triệu Vân hỏi.

    “Tử Long, huynh nghĩ người chết rồi thì hồn có còn không?” Chu Du hỏi, Triệu Vân im lặng, Chu Du không chờ y lên tiếng, lại nói, “Từ lúc Bá Phù đi, ta vốn không tin chuyện ma quỷ, nhưng lại không thể không tin. Tự nhủ trăm lần, nghìn lần, chung quy cũng vì ta không cam lòng, luôn ngóng trông Bá Phù báo mộng tìm ta.”

    “Chín năm.” Chu Du nói, “Trong chín năm qua, không một đêm nào ta mơ thấy y, chỉ có đêm qua, ta do dự không ra quyết định, y mới báo mộng về.”

    Triệu Vân nhấp ngụm trà, vẫn im lặng.

    Chu Du nói, “Ta suy nghĩ ngày đêm, tối chẳng mơ thấy gì, bây giờ thấy rồi lại sợ chỉ vì thường ngày nghĩ ngợi quá nhiều.”

    Triệu Vân nói, “Đệ nhận ủy thác của Bá Phù, suốt bao năm qua chưa lần nào cô phụ nguyện vọng của y nên y không đến tìm đệ.”

    Nói rồi, Triệu Vân lại cười với Chu Du.

    “Bây giờ dao động.” Chu Du cảm khái, “Nên mới về gặp. đúng là như vậy.”

    Triệu Vân nói, “Hiện tại, chủ công nhà ta, chủ công nhà đệ, tính mạng dân chúng Giang Đông, thế cuộc thiên hạ sau này đều đặt cả lên vai đệ.”

    “Khoan nói chuyện liên minh.” Chu Du thản nhiên nói, “Mười năm trước ta đã nói với Tôn Quyền, rằng sẽ có ngày đánh một trận với Tào gia, biết đâu qua mười năm nữa, ta và huynh sẽ không còn là đồng minh.”

    Năm ngón tay Chu Du lướt qua dây đàn, âm vang réo rắt, cười nói, “Vạn nhất ngày nào đó ta và huynh gặp lại giữa chốn binh đao…”

    “Dù cho có ngày đó.” Triệu Vân tự nhiên nói, “Trước mắt cứ việc nghe đàn, uống trà là viên mãn.”

    “Quân sư nhà huynh là một nhân vật rất lợi hại.” Chu Du nói.

    Triệu Vân cười trừ, đứng lên, úp chén, rời đi.

    Chu Du nói, “Không tiễn.”

    “Đại chiến thắng lợi.” Triệu Vân đáp.

    Mấy ngày sau, Chu Du duyệt binh xong, lúc đến phủ Tôn Quyền thì nghe võ tướng hai phe Tôn – Lưu cãi nhau đỏ mặt, Chu Du vừa xuất hiện, mọi người lập tức im lặng.

    Chu Du chắp tay chào Tôn Quyền và Lưu Bị, ngồi xuống bên cạnh Tôn Quyền.

    “Ồn ào cái gì?” Chu Du hỏi.

    Gia Cát Lượng mỉm cười, không trả lời.

    “Quân Tào sắp sang sông!” Quan Vũ lạnh lùng nói, “Đông Ngô các ngươi còn muốn giở thủ đoạn đê tiện! Lần lượt đục từng thuyền! Đục khi nào mới hết?!”

    Gia Cát Lượng nói, “Cam tướng quân đã nói thế tất có lý do của tướng quân.”

    Cam Ninh muốn phát hỏa, lại bị Lỗ Túc nháy mắt áp xuống, Gia Cát Lượng nói nhẹ như mây, “Quân Tào tấn công, tức là đã chuẩn bị sẵn sàng, trong ngoài phối hợp, kế đục thuyền e là không thể thực hiện được.”

    “Vậy ngươi đưa ra kế khác đi.” Chu Trị cười nhạo, “Sao chỉ đứng đó phản bác thôi vậy?”

    “Haiz…” Hoàng Cái lên tiếng, “Khổng Minh tiên sinh không xuất thân từ thủy quân, sao biết thủy chiến phải đánh thế nào?”

    Gia Cát Lượng nói, “Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng, Đô đốc trấn thủ đã lâu, chi bằng nghe ý kiến Đô đốc trước đã?”

    Gia Cát Lượng vừa dứt lời, người trong phòng đều dồn mắt nhìn Chu Du, Chu Du đương nhiên sẽ không đấu khẩu với Gia Cát Lượng, dù sao thì vấn đề trước mắt là đánh trận như thế nào chứ không phải đấu khí thế. Chu Du trầm ngâm, nói, “Chủ công, Lưu đại nhân hãy nhìn cho rõ.”

    “Thuộc hạ của Tào Tháo đóng ở bờ Bắc, bộ binh, kỵ binh khoảng ba mươi lăm vạn, đây là con số ta đã xác minh.” Chu Du nói với mọi người, “Kinh Châu vừa chiếm, lòng người bất ổn, Tào Tháo tất sẽ không trông cậy hoàn toàn vào Thái Mạo và Trương Doãn. Gã này có bệnh đa nghi, có thể cho người ly gián quan hệ giữa Tào Tháo và bại tướng Kinh Châu.”

    “Quân đội của Tào Tháo thế mạnh, suy cho cùng, chuyện cần làm chỉ có một, đó là vượt sông đổ bộ. Tào Tháo không có thuyền, chỉ có thể sử dụng thuyền của Kinh Châu, nhìn như hơn mười vạn, thực tế thuyền có thể tham chiến chưa đến mười vạn.”

    “Nhìn chung, quân địch của chúng ta có mười vạn chiến thuyền chở thủy quân Kinh Châu, hơn nữa trong số đó không hoàn toàn là người của Thái Mạo và Trương Doãn. Nói vậy, Tào Tháo sẽ phái không ít người lên thuyền tiếp quản quân đội của Thái Mạo.”

    “Chiếu theo đó, ta đoán đại quân có ba phần quân Kinh Châu, bảy phần quân Tào. Cũng tức là ba vạn quân Kinh Châu, bảy vạn quân Tào.”

    “Trong bảy vạn quân Tào, phải hơn phân nửa bị say sóng, không đáng sợ.” Chu Du mở bản đồ Trường Giang, ung dung nói, “Cho nên kẻ địch của chúng ta chưa đến năm vạn.”

    “Phải biết vận dụng quân đội trong tay đánh tan năm vạn quân.” Chu Du nói, “Chiến thuyền Kinh Châu cồng kềnh, Tào Tháo lần đầu chỉ huy thủy chiến tất không suôn sẻ, Hàn Tín dám nói dẫn quân càng nhiều càng tốt*, Tào Tháo cùng lắm chỉ điều khiển được ba chiến thuyền, nhiều khi còn bị thuyền khác kéo chân.”

    *Khi Lưu Bang hỏi Hàn Tín rằng bản thân cầm được bao nhiêu quân, Hàn Tín nói, “Bệ hạ chẳng qua chỉ cầm được mười vạn.” Lưu Bang hỏi ông cầm được bao nhiêu, Hàn Tín trả lời, “Thần thì càng nhiều càng tốt.”

    “Phá thuyền mang cờ lệnh.” Chu Du nói, “Quấy nhiễu bố cục…”

    “Khoan đã.” Gia Cát Lượng cắt ngang.

    “Mày lại muốn thả rắm gì nữa?!” Cam Ninh không nhịn được, giận dữ mắng, “Con bà nó! Đô đốc nhà ông trị thủy quân mười năm, thằng lông vàng nhà mày…”

    Chu Du khẽ cau mày nhìn Cam Ninh, Cam Ninh đành nhịn xuống.

    Gia Cát Lượng cười nói, “Ta có một người bạn cũ, hiện đang ở trong quân Tào Tháo, tên là Bàng Sĩ Nguyên, hắn truyền tin cho ta.”

    “Mời Khổng Minh tiên sinh.” Chu Du nói, có linh cảm lời Gia Cát Lượng sắp nói có thể xoay chuyển cục diện đại chiến.

    “Có người hiến kế cho Tào Tháo, người phương Bắc say sóng, không rành thủy chiến, có một cách giải quyết, đó là dùng xích sắt cột các thuyền lớn lại với nhau, giảm bớt lực nước tác động.”

    “Thế thì thủy quân Kinh Châu sẽ hợp làm một thể, mặc dù không bị say sóng nhưng lại bị ràng buộc, khó quay đầu.” Gia Cát Lượng nói, “Quân Tào chỉ có thể tiến vào bờ.”

    Trong phòng im lặng nghe được cả tiếng kim rơi, nếu Tào Tháo làm vậy, hàng trăm chiến thuyền được nối lại, viện binh có thể hỗ trợ lẫn nhau, hệt như tường đồng vách sắt, chỉ cần một thuyền cập bờ, bộ binh sẽ xông ra như thủy triều, không gì cản nổi.

    “Kế này đơn giản.” Gia Cát Lượng nói, “Cũng có chỗ tai hại, nếu phá được trận thuyền thì quân Tào buộc phải rút lui.”

    Máu Chu Du sôi sục, đầu choáng váng, như nghĩ ra điều gì đó không chân thực.

    Trong bóng tối, tất cả âm thanh tắt lịm, một cánh diều vẽ ra rồng lửa tỏa sáng mặt sông.

    Chu Du đột ngột mở mắt.

    “Đô đốc!” Trình Phổ bước lên đỡ.

    Chu Du xua tay, ho liên hồi, nắm vạt áo Tôn Quyền, ho ra một ngụm máu.

    “Ta không sao.” Chu Du thở khó nhọc.

    Tôn Quyền nhìn Chu Du, Chu Du vuốt vạt áo Tôn Quyền phẳng trở lại.

    “Ta đã có cách.” Chu Du nói, “Các vị tướng quân hãy an tâm, chiến trường nay chỉ nhờ ba phần vào ý trời là biết có thành công hay không, phần còn lại chỉ cần chờ đợi.”

    “Đã thế, việc điều binh khiển tướng xin giao cho Đô đốc.” Luu Bị nói, “Đô đốc toàn quyền chỉ huy, thề không trái lệnh.”

    Chu Du gật đầu, chắp tay với mọi người, nhận lệnh bài của Tôn Quyền.

    Tất cả tản đi, Gia Cát Lượng và Lưu Bị rời phủ Thái thú, Lưu Bị về doanh trại phía Đông thành, hai người bàn bạc, Gia Cát Lượng nói, “Đông Ngô Trương Chiêu đã mất tín nhiệm, Chu Du mang bệnh nặng khó chữa, sau khi trận chiến kết thúc, chủ công có thể nhờ Tôn Quyền lấy lại Kinh Châu.”

    Lưu Bị trầm ngâm một lúc lâu, nói, “Kinh Châu vốn không thuộc cai quản của Đông Ngô, nhưng Tôn gia có khúc mắc với Hoàng Tổ và Cảnh Thăng Công*, chỉ sợ không thể mở miệng.”

    *Tên chữ của Lưu Biểu là Cảnh Thăng.

    “Chủ công chỉ cần đề xuất.” Gia Cát Lượng nói, “Ta thấy Chu Du đã có kế hoạch, trận này nắm chắc phần thắng, nhưng dù thắng lớn, đại quân của Tào Tháo chỉ rút về Tương Dương. Đến lúc đó, Tôn Quyền vẫn phải cần chúng ta thay y ngăn binh mã.”

    Trong phủ Thái thú, Chu Du lại ho liên hồi, Tôn Quyền ngồi bên, nóng gan nóng ruột không cách nào tả được.

    “Công Cẩn đại ca.” Tôn Quyền run giọng gọi.

    “Không sao.” Chu Du đáp, “Đông về gió lạnh, tổn thương gan phổi, bệnh ăn vào gốc tủy từ lâu rồi.”

    Tôn Quyền nói, “Nghe nói Gia Cát Lượng tinh thông y thuật, hay là nhờ hắn xem bệnh cho huynh?”

    “Bệnh nặng từ lúc năm tuổi, thần tiên cũng không chữa được.” Chu Du nhấp ngụm trà, nói, “Ta dặn đệ một chuyện, Trọng Mưu, trận này mà thắng, đệ phải bắt Gia Cát Lượng và Lưu Bị ở lại Giang Đông làm con tin.”

    Tôn Quyền chấn động, “Như vậy sao được?”

    Chu Du nhìn Tôn Quyền, ánh mắt rất phức tạp.

    Chương 36: Hỏa công

    “Trước lúc lâm chung, Tôn Sách đã gửi gắm Tôn Quyền cho hai người Chu Du, Trương Chiêu.”

    “Nếu không có di ngôn của Tôn Sách, hôm nay chúng ta không thể đặt chân vào đây.”

    “Đối nội khó quyết thì hỏi Trương Chiêu, đối ngoại không biết phải hỏi Chu Du.” Lưu Bị cười bất đắc dĩ.

    Gia Cát Lượng vuốt râu nói, “Chu Du mang bệnh nặng là nỗi bất hạnh của Đông Ngô, là điều may mắn với chủ công.”

    Gia Cát Lượng và Lưu Bị đi qua quân doanh, Triệu Vân im lặng theo sau, Lưu Bị lắc đầu nói, “Không thể nói vậy, hiện tại chúng ta là khách, Đông Ngô là chủ, đây là lúc mọi người phải đồng tâm hiệp lực, cùng vượt qua cửa ải khó khăn này.”

    Gia Cát Lượng đưa mắt nhìn Triệu Vân, Triệu Vân vẫn đang trầm tư, Lưu Bị hỏi, “Tử Long, theo ngươi thấy, Chu đô đốc là người như thế nào?”

    “Mặc dù không thích nói nhiều.” Triệu Vân đáp, “Nhưng xưa nay chưa từng chùn bước, năm đó ta và Tào Phi bị nhốt trong thành Thọ Xuân, cũng nhờ ơn Công Cẩn mới có thể toàn mạng trở về. Bá Phù phóng khoáng hào hiệp, tính cách khôi hài, Công Cẩn điềm tĩnh thận trọng, ý chí kiên cường.”

    Lưu Bị hỏi, “Ngươi thấy Đông Ngô liên minh với chúng ta chống quân Tào có mấy phần là thật, mấy phần là giả?”

    Triệu Vân hít vào một hơi, nói, “Mười phần là thật, Công Cẩn không bao giờ nuốt lời.”

    Gia Cát Lượng nói, “Từ lúc Tôn Sách qua đời, mấy năm qua ta cho rằng Chu Du không còn quan tâm đến Giang Đông nữa, bây giờ nhìn lại, một người lặng lẽ ít nói, lui về ẩn dật, một khi muốn ra tay thì còn kiên quyết hơn bất kỳ ai.”

    “Đúng thế.” Lưu Bị gật đầu, “Nếu biết nguồn cơn bệnh tình của Đô đốc, xin nhờ tiên sinh cứu giúp.”

    Các bạn đang đọc truyện đam mỹ đồng nhân dmh tại dammydmh.com

    Gia Cát Lượng cười lắc đầu, lực bất tòng tâm, Lưu Bị lại hỏi, “Tử Long, ngươi cũng xem như người quen của Giang Đông, có biết bệnh của Chu Du vì đâu mà nên không?”

    Triệu Vân suy nghĩ hồi lâu, nói, “Ngày xưa Công Cẩn có kể, nghe nói hồi nhỏ ngã xuống nước lạnh, tổn thương phổi, mầm bệnh từ đó mà ra, nhưng lúc Bá Phù còn sống, Công Cẩn luôn miệng dặn ta không được nhắc đến.”

    “Nếu đúng như vậy…” Gia Cát Lượng nói, “Dù là thần y Hoa Đà cũng không chữa được.”

    Sau giờ Ngọ, Gia Cát Lượng, Lưu Bị và Triệu Vân bàn bạc một lúc, Giang Đông bây giờ có hơn mười vạn quân liên minh Tôn – Lưu. Ngày Tào Tháo vượt sông càng lúc càng gần, thế nhưng trận này phải đánh thế nào vẫn chưa có manh mối.

    Bờ sông gió thổi lồng lộng từ Tây sang Đông, cờ hiệu bay phần phật.

    Gia Cát Lượng đứng đón gió, vạt áo tung bay.

    Chu Du mặc quân phục đi dọc bờ sông, Gia Cát Lượng không quay đầu lại, nói, “Trường Giang gió to sóng lớn, Giang Đông đất lành nhiều anh kiệt, dù mai có chết, hôm nay cũng đã được mở mang tầm mắt, chuyến này đến Giang Đông không uổng phí.”

    Chu Du thờ ơ nói, “Cảnh sắc có hùng vĩ đến mấy, ngày nào cũng nhìn rồi sẽ chán, muôn dặm bao la thu vào mắt cũng chỉ có thế mà thôi, không đáng nhắc đến.”

    Gia Cát Lượng mỉm cười, Chu Du sắc mặt tái nhợt, hông đeo bội kiếm, mặc giáp đen vảy cá đứng ở bờ sông.

    “Nói vậy là Đô đốc đã có đối sách.”

    “Mời tiên sinh theo ta.” Chu Du làm tư thế mời.

    Gia Cát Lượng theo Chu Du đi ven sông, tiến thẳng vào đại doanh thủy quân, lính gác canh phòng nghiêm ngặt, thấy Chu Du thì đồng loạt cúi mình. Đám Lỗ Túc, Tôn Quyền, Cam Ninh, Trình Phổ, Hoàng Cái đều đang chờ bên trong. Địa đồ bày ra trong ao nước rộng bằng mười bước chân, bờ Bắc là hàng trăm chiến thuyền được cột lại với nhau bằng xích sắt.

    Gia Cát Lượng chắp tay với Tôn Quyền, Chu Du ra hiệu mọi người có thể bắt đầu.

    “Mấy ngày nữa, quân Tào bờ Bắc sẽ tiến sang Đông.” Chu Du nói, “Quân ta thả bốn mươi mốt thuyền chất đầy dầu, hy sinh một nghìn binh sĩ, cùng quân Tào ngọc nát đá tan.”

    “Dầu nhẹ hơn nước.” Chu Du kéo thuyền quân Tào đến bờ Đông, Cam Ninh và Lăng Thống đẩy thuyền Đông Ngô, hai quân giáp mặt, chiến thuyền của quân Tào nối liên hoàn như bức tường người. Trên thuyền Đông Ngô chở dầu hỏa và cỏ tranh.

    “Sau khi hai bên đấu trực diện.” Chu Du nói, “Thuyền chở dầu sẽ đâm vào chiến thuyền quân Tào.”

    Tướng lĩnh hai bên đẩy thuyền va vào nhau, bốn mươi mốt thuyền nhỏ nghiêng ngả, dầu hỏa tràn ra mặt nước, ngay sau đó, Lỗ Túc quẹt một mồi lửa châm vào cỏ tranh, ném xuống nước. “Ầm” một tiếng, lửa dữ cắn nuốt toàn bộ liên hoàn thuyền.

    Mọi người nín thở mà nhìn, mặt nước rực lửa, chiến thuyền quân Tào sụp đổ, lửa theo dòng nước lan ra phía Nam.

    Trong mắt Chu Du phản chiếu màn đêm đen kịt, diều lửa chao liệng vẽ ra rồng đỏ thiêu đốt trời đêm. Tôn Sách sẽ chờ ở ngoài thành, dẫn binh mã xông vào.

    “Công Cẩn!”

    Tôn Sách cười hô.

    “Đô đốc?” Tôn Quyền gọi.

    Chu Du giật mình, tỉnh táo lại, phát hiện mọi người đều đang nhìn hắn, Lỗ Túc ra dấu, lúc này Chu Du mới lấy lại tinh thần, suy nghĩ, nói, “Một khi nổi lửa, quân Tào chỉ có hai quyết định.”

    “Một là rút lui.” Gia Cát Lượng thay Chu Du trả lời, “Khi đã rút, phe ta nắm chắc phần thắng, mặt sông nổi lửa, không thể quay thuyền, thế trận ắt sẽ vỡ tan.”

    “Đúng vậy.” Chu Du đáp, “Hai là đập nồi dìm thuyền, bất chấp thế lửa, ngoan cố đổ bộ. Nhưng lửa đã bén, đối phương có muốn cướp bờ Đông cũng đã quá muộn, cuối cùng chỉ cần phái lục quân liều mạng, thuyền lớn bốc cháy chặn lòng sông, lửa lan từ chiếc này sang chiếc kia, dù là thần tiên giáng thế cũng không thể cứu vãn.”

    “Không cần.” Gia Cát Lượng nói, “Kế này mà thành công, toàn quân của Tào Tháo chắc chắn sẽ bị thiêu chết giữa lòng sông, không thể lên bờ.”

    “Kế sách của Đô đốc quá tuyệt.” Lúc này Tôn Quyền mới dám lau mồ hôi lạnh, lấy lại tinh thần.

    “Dù đã có kế sách.” Chu Du nói, “Nhưng vẫn còn rất nhiều biến số, chư vị ở đây xin hãy giữ bí mật, sở dĩ mời tiên sinh đến trước, không phải vì không tin Lưu Dự Châu…”

    “Ta hiểu mà.” Gia Cát Lượng chắp tay với mọi người.

    Chu Du, “Kế này cần hội đủ thiên thời, địa lợi, nhân hòa, thiếu một thứ cũng không được. Phải làm sao để tận dụng hết khả năng thiêu được nhiều nhất thuyền của quân Tào thì cần chờ ta bàn bạc kỹ càng với các vị tướng quân.”

    Kế hỏa công của Chu Du là viên thuốc an thần với Gia Cát Lượng, Gia Cát Lượng biết việc này không thể chậm trễ, chi bằng quay lại cùng Lưu Bị an bài, liền cáo từ.

    Mọi người dọn địa đồ nước, Chu Du còn đang trầm ngâm, mãi đến khi người xung quanh tản đi hết, Tôn Quyền vẫn đứng sau lưng Chu Du, Chu Du ho khùng khục, Tôn Quyền vươn tay xoa lưng Chu Du.

    “Sau trận thắng này…” Chu Du thì thầm, “Nếu chúng ta may mắn, tiếp đó, thiên hạ sẽ là của đệ.”

    Nói xong câu đó, hắn hơi nghiêng đầu, nhìn vào mắt Tôn Quyền, dung mạo Tôn Quyền vô cùng anh tuấn, khí khái hào hùng.

    “Đệ có tưởng tượng được ngày đó hay không?”

    Tôn Quyền biết Chu Du đang giục mình ra quyết định, nếu trận Xích Bích đại thắng, ép Lưu Bị, Tào Tháo lui về Nghiệp Thành, Đông Ngô thừa thắng xông lên, đánh Kinh Châu, chiếm Ích Châu, cùng Tào Tháo chia nửa giang sơn.

    Nhưng y vẫn không cho Chu Du câu trả lời chắc chắn.

    “Sao huynh nghĩ ra cách này hay vậy?” Tôn Quyền cười hỏi.

    Chu Du không hỏi tiếp, chỉ đáp, “Nếu ta nói là anh đệ báo mộng, đệ có tin không?”

    Tôn Quyền vui vẻ gật đầu, Chu Du nói xong, xoay người rời đi.

    Mấy ngày liên tiếp, bờ Tây không có tin tức, bờ Đông cũng không có động tĩnh, hai phe án binh bất động, như đang chờ đợi điều gì, chỉ có chủ soái mới biết mà thôi.

    “Ngày nào xuất chiến?” Lưu Bị chưa đến, tiếng đã vang trước, dẫn các gia thần Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Gia Cát Lượng đến thăm hỏi.

    “Muốn đánh Tào Công, cần dùng hỏa công, vạn sự đã bày, chỉ chờ cơ hội.” Chu Du vừa đọc sách, vừa hờ hững đáp.

    Lưu Bị ngồi xuống, nói, “Nếu gió Đông không đến…”

    “…Thì quân Tào đánh trước.” Chu Du tiếp lời Lưu Bị không dám nói, “Sau đó toàn quân bị diệt, không ai may mắn thoát khỏi.”

    “Hoàng hôn ngày mai…” Gia Cát Lượng nói, “Ta sẽ lập đàn làm phép, dùng sức người gọi gió Đông về cho Đô đốc mở cờ, được chứ?”

    Chu Du khẽ nhướn mày, không thể tin nhìn Gia Cát Lượng.

    “Ý trời đã định.” Chu Du thản nhiên nói, “Tiên sinh cho rằng chỉ với sức người là có thể khiến trời xanh đổi ý sao?”

    “Trận này quyết định số phận của quân Hán ta và quân Ngô.” Gia Cát Lượng cười nói, “Càng liên quan đến vận số giang sơn, dù tổn hao tuổi thọ, cũng đành thử một lần thôi.”

    Chu Du khoát tay, ý bảo đừng nói nữa, giả thần giả quỷ, Chu Du xưa nay không tin, trừ khi… nghĩ đến đây, hắn lại nhìn Gia Cát Lượng. Hắn biết người này sẽ không tự đại một cách mù quáng, toan tính hại các tướng quân, nhưng tình hình chiến đấu không thể dựa vào một khái niệm mơ hồ.

    “Đô đốc không tin ta à?” Gia Cát Lượng hồn nhiên hỏi.

    Chu Du cười nói, “Nghe nói tiên sinh theo Thủy Kính chân nhân học thiên văn lịch pháp, tứ tượng dung hòa, kỳ môn độn giáp không gì không biết, dĩ nhiên có bản lĩnh đó, nhưng thứ cho ta không dám giao vận số Giang Đông vào một câu nói của tiên sinh.”

    Gia Cát Lượng nói, “Có lý, vậy để kẻ hèn này lập quân lệnh trạng được không?”

    Trong nháy mắt, trong đầu Chu Du hiện ra vô vàn ý nghĩ, trận này mà thắng, thả Lưu Bị đi chẳng khác nào thả hổ về rừng, tuy Tôn Quyền không thể hạ quyết định, hắn cũng phải ra tay trước chiếm ưu thế, giam giữ Lưu Bị. Bây giờ Gia Cát Lượng tự dâng tới cửa, vừa khéo.

    “Tiên sinh cần lập đàn ở đâu?” Chu Du hỏi.

    “Trên Nam Bình Sơn.” Gia Cát Lượng đáp.

    Chu Du nói, “Vậy ta để Tử Kính đi cùng tiên sinh.”

    “Xin cứ tự nhiên.” Gia Cát Lượng gật đầu.

    Lưu Bị nói, “Bất luận thế nào, chiều mai tất phải khai trận, không thể kéo dài thêm nữa.”

    Chu Du hơi dao động, mọi người đều mang vẻ nghiêm túc, chợt thấy khác thường, lập tức dặn binh sĩ theo mình ra ngoài.

    Trong sương mù âm u, quân Tào đã bắt đầu xuống nước, bên kia Trường Giang, một hàng người kéo dài san sát.

    Chu Du hít sâu một hơi, khẽ run, ngày mai là thời điểm quyết chiến.

    “Đô đốc có nắm chắc phần thắng không?” Lưu Bị hỏi.

    “Không.” Chu Du nói, “Trận này phải xem ý trời.”

    “Đô đốc!” Thuộc hạ đến báo, trình ra bức mật thư.

    Chu Du mở ra đọc, nhất thời biến sắc, chắp tay với mọi người, “Cáo từ.”

    Chu Du vội vã rời đi, đám người Lưu Bị nhao nhao suy đoán. Chu Du tâm sự nặng nề, theo thư báo của Cam Ninh, tin tức về quân Ngô có thể đã bị tiết lộ, vào đại doanh, tập hợp các tướng lĩnh, Chu Du bái kiến Tôn Quyền, Cam Ninh nói, “Cũng may phát hiện sớm.”

    “Có bắt được gian tế không?” Chu Du hỏi.

    Hoàng Cái nheo mắt, nói, “Thái Hòa thu thập tin tức trong quân doanh, có đến tìm một Hiệu úy là thuộc hạ của ta, dò hỏi tình hình quân ta, ta nghĩ bắt tên này sẽ có công dụng nên chưa xuống tay giết.”

    Chu Du cầm thư của Thái Hòa, trong đó ghi thông tin quân đội báo cho quân Tào, lưng toát mồ hôi lạnh.

    Tên này là tướng đầu hàng đi theo nhóm Lưu Bị, có giao tình với Hiệu úy dưới trướng Hoàng Cái, bèn nhờ vả được làm thuộc hạ của Hoàng Cái, ba ngày trước hỏi thăm được chút tin tức, may mà Chu Du chưa hề tiết lộ tiếng gió, ngoại trừ những người tham dự họp quân, Thái Hòa không biết kế sách của Chu Du.

    Thái Hòa chỉ dựa vào biểu hiện của mọi người mà suy đoán Đông Ngô đã có đối sách ứng chiến.

    Chu Trị nói, “Ta nhớ năm xưa Đô đốc từng làm giả công văn, lừa Hứa Cống dâng thành, cũng chặn thư cầu cứu đến Thọ Xuân, hay là lần này làm lại?”

    “Không.” Chu Du quyết đoán nói, “Ta có sắp đặt khác, kế này vô cùng trọng yếu, không chừng có thể chi phối chiến cuộc.”

    Khuya hôm đó, Tôn Quyền về phủ, Chu Du ở lại lều tướng mở cuộc họp, tướng lĩnh trước mặt Chu Du nổi giận đùng đùng.

    “Nếu ngươi phái người qua sông tập kích quân doanh chỉ có một đường chết!” Hoàng Cái giận dữ, “Binh mã của Lưu Bị chưa đến hai vạn, coi như toàn quân phục kích Ô Lâm cũng không thể chắc thắng, một khi Tào Tháo đổ bộ Giang Đông, công phá Xích Bích thì hai vạn binh mã ở Ô Lâm có đáng là gì không?!”

    Chu Du nói, “Hoàng lão tướng quân, việc này ông không cần lo, ông chỉ cần đôn đốc tác chiến là được.”

    “Thứ cho ta khó thể tòng mệnh!” Hoàng Cái không nhịn được nữa, nói, “Lão phu chỉ đánh vì cơ nghiệp Tôn gia…”

    “Trong mắt ông có còn chủ soái hay không?!” Chu Du giận dữ quát lên, “Giờ khắc nguy cấp còn ở đây mặc cả với ta! Chủ công đã giao thủy quân cho ta, để ta mang binh, chứ không phải thương lượng với các người!”

    Đám Lưu Bị, Gia Cát Lượng, Trình Phổ vội vã khuyên Chu Du bớt giận.

    Chu Du nóng nảy nói, “Hoàng tướng quân, từ trận Cô Sơn, ông đã xem thường ta, năm xưa đã vậy, hôm nay cũng vậy, nếu đã khó thể tòng mệnh thì hãy đi đi! Giao thủy quân trong tay ông lại cho ta!”

    Hoàng Cái già mà cứng đầu, rống một tiếng như sấm rền, “Lòng người tan rã! Ở đây có ích gì!”

    Chu Du rút tên lệnh, tước chức quan của Hoàng Cái, Lỗ Túc biến sắc, “Đô đốc! Ra trận đổi tướng là tối kỵ!”

    Chu Du giận run người, một tay vịn bàn trà, ho dữ dội, máu văng đầy bàn, người xung quanh sợ đến mức hồn phi phách tán, vội vàng chạy đến kiểm tra, Chu Du giơ tay ngăn lại, tên lệnh rơi xuống đất.

    “Đánh ba mươi quân côn!” Khóe miệng Chu Du rướm máu, lạnh lùng nói, “Tước quân hàm, Chu Trị tướng quân thay thế điều động nhân sự, phải sắp xếp ổn thỏa trước tối nay!”

    “Chu Công Cẩn!” Hoàng Cái giận dữ hét, “Ta muốn bẩm báo chủ công!”

    Chu Du lau vệt máu nơi khóe miệng, lạnh lùng nói, “Đáng tiếc, người làm chủ chiến cuộc hiện tại không phải chủ công.”

    Hoàng Cái bị kéo ra thao trường trong tiếng gầm thét, lãnh ba mươi quân côn trước mặt toàn quân, không một ai dám dị nghị, tan họp.

    Đêm đó, lưng Hoàng Cái bị đánh máu me đầm đìa, Chu Du vén màn vào, mang theo thuốc mỡ, quỳ trước giường, tự tay bôi thuốc cho Hoàng Cái.

    Hoàng Cái hừ lạnh một tiếng, nói, “Đô đốc đến đây là muốn lão phu chịu đòn uổng phí đấy à?”

    Chu Du đặt thuốc lên bàn, lạy Hoàng Cái ba lạy, trầm giọng nói, “Trận này e rằng Hoàng lão một đi không trở lại, Chu Du thay tiên chủ quỳ tạ đại đức của Hoàng lão.”

    “Đi thôi.” Hoàng Cái nói, “Thuyền chuẩn bị xong hết chưa?”

    “Một vạn cân dầu hỏa, một trăm hai mươi thuyền.” Chu Du đứng dậy nói, “Đang chờ ở bờ sông.”

    “Sẵn sàng khai chiến đi.” Hoàng Cái nói.

    Chu Du đội mũ giáp, vừa ra ngoài đã nghe tiếng bước chân vội vàng, một Hiệu úy tiến vào, chắp tay với Hoàng Cái.

    “Hám Trạch.” Hoàng Cái hỏi, “Bên Thái Hòa sao rồi?”

    “Đã ổn định hắn.” Hiệu úy gọi là Hám Trạch đáp, “Chuyện lão tướng quân bị Đô đốc phạt đòn đã truyền khắp toàn quân.”

    “Ngươi thay ta viết thư quy hàng.” Hoàng Cái nói, “Trước canh ba đưa ta đến nói chuyện với hắn.”

    Hám Trạch chắp tay, “Tuân lệnh.”

    Chu Du đứng trước lều, vừa mở mắt, mơ hồ trông thấy một bóng người đứng bên cạnh.

    Người kia chỉ là một cái bóng nhạt nhòa, nhưng vẫn anh tuấn khí phách như ngày nào, vẫn là dung nhan thiếu niên năm xưa quen biết, thân thiết bá vai hắn.

    “Ta sợ Hoàng lão tướng quân gặp nguy hiểm.” Chu Du thấp giọng nói, “Cả đời ông ấy bán mạng vì Tôn gia huynh, già rồi còn phải lấy mạng mình đánh cược một phen.”

    “Đừng sợ.” Tôn Sách nói, “Mọi thứ đã được định sẵn, ta ở cùng đệ.”

    Chu Du trở tay, muốn nắm bàn tay Tôn Sách khoác trên vai mình, Tôn Sách chợt hóa thành bụi sáng, tan biến giữa trời.

    Canh ba, Thái Hòa chờ ở bờ sông, tiếng nước rào rạo, một chiếc thuyền nhỏ chở Hám Trạch và Hoàng Cái xuất hiện. Thái Hòa vừa gặp Hoàng Cái liền quỳ một gối, được Hám Trạch nâng dậy.

    Hoàng Cái mang thương tích, đi khập khiễng, chống kiếm đứng ở bờ sông thở dốc.

    “Ta già rồi.” Hoàng Cái nước mắt lưng tròng, nói, “Không ngờ, cơ nghiệp năm xưa của Phá lỗ tướng quân lại ra nông nỗi này.”

    “Vào đó rồi tướng quân định nói gì?” Thái Hòa vội hỏi, “Tào thừa tướng phụng mệnh thiên tử đến thu phục Giang Đông, ta và ông đều là thần tử nhà Hán, Ngô hầu hồ đồ ngu xuẩn, lão tướng quân lòng bên Hán thất, ngày sau tiền đồ vô lượng!”

    Hoàng Cái nhìn nước sông tối đen, im lặng không nói.

    Hám Trạch nói, “Thái tướng quân, ta và ngươi cùng đi gặp Tào Công, còn binh lực phải chờ một lát.”

    Thái Hòa biết lúc này Hoàng Cái không dám tùy tiện hàng địch, bèn nhận thư quy hàng của Hám Trạch, gật đầu nói, “Lão tướng quân bảo trọng.”

    Hoàng Cái thổn thức không thôi, nhìn vào bóng tối, thuyền nhỏ đưa Hám Trạch và Thái Hòa sang bờ Tây Bắc.

    Canh tư, Chu Du buộc chặt đai lưng, giắt bội kiếm, lên đài điểm tướng. Trong binh doanh tối đen một màu, chỉ có ánh lửa ảm đạm từ mấy ngọn đèn sắp tắt, Lã Mông đặt bình đồng đựng tên lên bàn Tôn Quyền, bên trong là những mũi tên các võ tướng đã ném vào trước đó.

    Chu Du rút mũi tên lệnh thứ nhất.

    “Trình Phổ tướng quân.” Chu Du nói, “Ngươi phòng thủ bờ Đông.”

    Trình Phổ tiến đến nhận lệnh, Chu Du rút tên lệnh thứ hai.

    “Cam Ninh tướng quân, ngươi cùng Chu Trị tướng quân lên thuyền, trấn thủ Đông Bắc, Tây Bắc, sẵn sàng đánh bọc sườn quân Tào.”

    Mũi tên lệnh thứ ba.

    “Lã Mông trấn thủ hậu phương, tùy thời tiếp ứng.”

    “Quan tướng quân hãy đến Hoa Dung trước, chặn đường lui của quân Tào.”

    “Tuân lệnh!”

    “Lăng Thống, Đinh Phụng dùng thuyền nhỏ mai phục dưới nước.”

    “Lỗ Túc tướng quân.” Chu Du rút tên lệnh, đến thì thầm vài câu bên tai Lỗ Túc.

    Sắc mặt Lỗ Túc không nhìn ra biểu cảm, nhìn Chu Du, lại nhìn Tôn Quyền trên cao, Chu Du vỗ vai hắn, nhìn vào mắt Lỗ Túc, rốt cuộc Lỗ Túc không thể làm gì hơn là nhận tên lệnh.

    “Chủ công, mời theo trung quân ta xuất chiến.” Chu Du rút mũi tên lệnh cuối cùng, trịnh trọng đặt vào tay Tôn Quyền.

    Chương 37: Xích Bích

    Bao năm qua Đông Ngô như gã khổng lồ say ngủ, thời khắc này chợt vươn mình tỉnh giấc.

    Giờ Dần, rồng lớn uốn lượn từ Nam Bình Sơn đến Trường Giang Xích Bích, không an phận mà vùng vẫy.

    Gia Cát Lượng bước lên tế đàn, sao sáng chi chít, bầu trời sáng rực, không một bóng mây, không một ngọn gió.

    Chậu than lớn đặt ở bốn phía, tương ứng với vị trí hai mươi tám vì tinh tú, Gia Cát Lượng cầm kiếm Thất Tinh, đầu đội đạo quan vàng chói, thân mặc áo bào Càn Khôn Bát Quái, chỉ kiếm lên trời.

    Trời đất như chấp nhận lời thỉnh cầu, mặt sông bờ Nam nổi từng con sóng, dồn dập xô nhau.

    Hoàng Cái hai tay chống kiếm xuống đất, sau lưng là mấy nghìn quân Đông Ngô lũ lượt lên thuyền, thuyền xuống nước, lướt nhanh vào dòng Trường Giang đen như mực.

    Một thuyền mười người, đều nhịp khua mái chèo, Hoàng Cái đứng ở đầu thuyền, sừng sững như pho tượng, tiến vào màn đêm mờ mịt.

    Sương mù trên sông bao trùm Xích Bích, trong bóng tối, tiếng xích sắt va chạm nghe loảng xoảng, tám mươi vạn quân Tào thẳng tiến Giang Đông.

    Chu Du dẫn quân lên thuyền, trên bàn gỗ đầu thuyền đặt một cây đàn, ba chén rượu, nến thơm thoang thoảng, sương trắng lượn lờ, hết tụ lại tan, như sắp hóa thành thực thể.

    “Công Cẩn.” Tôn Sách cười nói.

    Chu Du nâng mắt nhìn màn sương trắng xóa huyễn hóa thành Tôn Sách đối diện, mỉm cười.

    “Xin huynh phù hộ ta, Bá Phù.” Chu Du nói, “Che chở ta, che chở Đông Ngô.”

    Tôn Quyền bước lên, Chu Du cất cao giọng, “Ba chén rượu nhạt tế đất trời, tế tổ tiên Tôn gia, tế hồn thiêng của huynh!”

    Tôn Quyền cầm chén đổ rượu xuống sông.

    Gió Đông kéo đến, thời khắc đó, chiến ý ấp ủ nghìn vạn năm bộc phá, rít gào chấn động trời cao!

    Gió Đông ập tới, thổi bay nghìn tầng mây, xua tan sương mù bao trùm chiến trường Xích Bích.

    Đỉnh Nam Bình Sơn, cờ sao bay phấp phới, Gia Cát Lượng mở mắt, thu kiếm, ngẩng đầu nhìn trời, chậu than bị gió xô ngã, Lỗ Túc lấy gió lớn làm hiệu lệnh, đốt trụi tế đàn!

    Sau trận cuồng phong, đội thuyền quân Tào hiện hình trên mặt sông, trời Đông ló ánh mặt trời, thủy quân Giang Đông đồng loạt căng buồm, vung mái chèo.

    “Công Cẩn đại ca.” Tôn Quyền đột nhiên gọi.

    Chu Du đặt tay lên dây đàn, trầm ngâm không nói.

    “Huynh còn nhớ ngày anh ta qua đời không?” Tôn Quyền đứng phía sau Chu Du.

    “Nhớ rõ.” Chu Du nói, “Ta và anh đệ quen nhau hai mươi hai năm, từng ngày, từng khắc ta đều nhớ kỹ, mặc dù ở cùng thì ít, xa cách thì nhiều…”

    “Ta đã sắp quên mất dáng vẻ y rồi.” Tôn Quyền thấp giọng nói, “Chỉ nhớ năm đó y rất nghiêm khắc với ta.”

    Thiếu niên Tôn Sách vẫn khí phách như năm nào, ôm đầu gối ngồi ở mũi thuyền, cà lơ phất phơ nhoẻn cười.

    Gió Đông quét sạch sương mù, nhưng không thể thổi đi hình bóng cố nhân.

    “Lần đầu ta gặp anh đệ…” Chu Du khẽ mỉm cười, “Là năm bốn tuổi…”

    Đương lúc nói chuyện, lửa đỏ bùng lên, thiêu đốt nửa bầu trời.

    Trên Nam Bình Sơn, chuông đồng gõ vang, cuồng phong càng thêm dữ dội như rồng gầm.

    ẦM— ẦM— ẦM—

    Sắt thép va chạm rung động đất liền, Đông Ngô như rồng lớn vảy vàng hoàn toàn tỉnh giấc, vươn đầu rồng phun lửa đỏ càn quét Trường Giang dậy sóng!

    “Tách ra—” Hoàng Cái quát lên.

    Chiến thuyền quân Tào càng lúc càng gần, đội thuyền của Hoàng Cái chia làm hai, nương sức gió chèo bằng tốc độ nhanh nhất, tản ra khắp mặt sông, thuyền nhỏ bao vây chiến thuyền đồ sộ.

    Xích Bích 4

    Trận doanh quân Tào bắt đầu nhận ra có gì không ổn, dồn dập bắn tên, Hoàng Cái lại quát, “Phóng hỏa—”

    Trong phút chốc, lòng sông bùng cháy nghìn vạn đóa sen lửa, ngọn lửa bốc cao, lan theo dòng dầu hỏa thiêu đốt chiến thuyền quân Tào.

    Ngay khi tiếng nổ đầu tiên vang lên, Chu Du lướt ngón tay qua năm dây đàn, âm thanh như có thể xé nát bầu trời!

    Tiếng người la hét vang khắp Trường Giang, hướng đến quân Tào.

    Chiến thuyền ầm ầm ngã xuống, tia lửa bắn ra, ánh đỏ ngợp trời, buồm đổ thuyền nghiêng, xác người nghìn vạn, máu chảy thành sông.

    Không biết vì sao, ngay lúc đôi mắt Chu Du phản chiếu biển máu Tu La, hắn chợt nhớ lại buổi chiều gặp gỡ Tôn Sách.

    Tiếng đàn hối hả, cùng nước sông cuồn cuộn ập đến như tia sét, rồng lớn trở mình, mang theo ý chí của hồn thiêng quay về non sông, mang theo cơn thịnh nộ của toàn Giang Đông nghiền nát quân Tào! Mặt sông loang đầy dầu hỏa, quân Tào khựng lại, chiến thuyền tông vào nhau, lửa lớn bốc phừng phực mấy ngày không dứt, cắn nuốt đất trời.

    Cuồng phong dẫn lửa lan rộng, nuốt lần lượt từng chiến thuyền, Chu Du lấy tiếng đàn làm hiệu lệnh, truyền vào tai từng người, huy động toàn bộ chiến thuyền Đông Ngô vây thành vòng tròn, liên tục ném mồi lửa!

    “Giết cho ông!” Cam Ninh phẫn nộ quát.

    Chiến thuyền thứ nhất tông vào liên hoàn thuyền của quân Tào, lửa bùng lên, quân Ngô giết vào khoang thuyền.

    Tào Tháo trên thuyền soái quát, “Tháo xích! Phân tán đội hình!”

    Nhưng gió lớn đã thổi lửa đốt cháy cánh buồm, cột buồm liên tiếp đổ xuống, mặt sông biến thành hỏa ngục, thuyền soái của Tào Tháo đón đầu thuyền soái của Chu Du, Chu Du lại vung tay.

    Tiếng đàn ngân vang, Chu Du ngẩng đầu, nhịp điệu ngày càng nhanh!

    “Lùi lại!” Tôn Quyền hoảng hốt.

    Tào Tháo cười lạnh, “Chu Công Cẩn! Lại gặp nhau rồi!”

    “Từ biệt nhiều năm.” Chu Du cất cao giọng, “Thừa tướng vẫn khỏe chứ?”

    Nói thì chậm xảy ra thì nhanh, chiến thuyền Đông Ngô từ hai bên trái phải lao tới, nổ tung, đâm vào giữa mạn thuyền soái, Tôn Quyền nhận dùi trống, nổi trống, Chu Du nhảy khỏi thuyền soái.

    Mũi tên xé gió mà đến, Chu Du lại lướt qua dây đàn, âm điệu thay đổi.

    Tên bay như mưa, che kín bầu trời, khóa chặt thuyền soái, tiếng đàn ngân cao, trên khoang thuyền cắm chi chít mũi tên, song trong phạm vi ba bước quanh Chu Du lại không có một đầu tên nào!

    Tiếng đàn kiên định tựa sắt đá, như thiên quân vạn mã càn quét mặt sông, một khắc đó, Tôn Quyền ngẩng đầu, dường như trông thấy quầng sáng rọi xuống từ tầng mây, hồn thiêng quân Trường Sa từ trên trời giáng xuống. Mặt sông hừng hực lửa đỏ, theo nhịp đàn của Chu Du, từng đợt từng đợt lửa dữ nối nhau mà đến, Chu Du nhấn đứt một dây đàn, phun ngụm máu, nhuốm đỏ đàn cổ.

    “Đô đốc—” Tôn Quyền biến sắc.

    Đứt một dây đàn, trời long đất lở!

    Ngay sau đó, chiến thuyền Đông Ngô phóng đợt thuốc nổ cuối cùng, thùng đựng thuốc nổ vẽ một vòng cung giữa không trung, bay lên trời, hóa thành nghìn vạn đốm lửa, vệt lửa vung ra, rơi xuống mặt sông.

    Dưới bầu trời tối tăm, đốm lửa rơi như mưa rào, trong khoảnh khắc đã đâm xuyên chiến thuyền quân Tào!

    Dây đàn thứ hai bật ra, Trường Giang lặng sóng, thế gian yên tĩnh.

    Dưới màn mưa lửa, gió nổi mây vần, sao giăng đầy trời khuất bóng, đêm dài vật đổi sao dời như sắp chạm đến Tây Thiên cực lạc, vầng thái dương vàng rực ló dạng chốn trời Đông.

    Ánh chớp nhá lên, sấm giật ầm ĩ, tất cả chiến thuyền Đông Ngô thu hết chiến ý từ thuở khai thiên lập địa, đại phá quân Tào.

    Tiếng đàn chấn động, Trường Giang run rẩy, Chu Du quét năm ngón tay.

    Dây đàn thứ ba, thứ tư đứt đoạn.

    Trường Giang cuộn trào mãnh liệt, thủy triều sóng sau xô sóng trước, bọt trắng tung tóe, thiên quân giẫm đạp, vạn mã phi nhanh, cưỡi trên vầng lửa, hóa thành miệng rồng phun từng luồng lửa đỏ, thiêu rụi chiến thuyền quân Tào!

    Chu Du lướt ngón tay đến dây đàn cuối cùng, một bàn tay dịu dàng áp xuống mu bàn tay hắn.

    “Bá Phù.” Chu Du ngẩng đầu.

    Vẫn ánh mắt năm xưa, vẫn là nụ cười thân thương ấy.

    Tôn Sách vuốt ve gò má Chu Du, sau đó rút côn bàn long, bước lên mũi thuyền, hét lớn một tiếng, vung côn đánh phía chiến thuyền phương xa.

    Linh hồn Tôn Sách biến mất giữa trời, không còn dấu vết, một côn kia như kêu gọi sông dài biển lớn, chiến thuyền quân Tào tan rã, gió dữ quét qua như muốn hất đổ Thái Sơn!

    Lửa lan khắp đất trời, nổ “ầm” một tiếng, chân trời đằng xa nhuộm thắm màu đỏ máu.

    Chu Du lướt qua năm dây đàn, âm ngân văng vẳng, sừng sững như núi sông, cuồn cuộn như sóng lớn, lòng người rung động, cột buồm sập, thuyền nghiêng ngả, nước sông phản chiếu một màu đỏ, không biết đâu là máu, đâu là lửa.

    “Sau đó…”

    “Sau đó…” Chu Du ấn dây đàn, nói, “Chuyện là như vậy.”

    Tôn Quyền ngồi ngay ngắn phía sau Chu Du, tay đặt trên đầu gối, hai người cùng nhìn phía Xích Bích rực lửa, chiến thuyền chao đảo, tiếng giết vang trời.

    Bất tri bất giác đã nói lâu như vậy, từ khoảnh khắc lửa bùng lên, Chu Du chợt nhớ lại rất nhiều chuyện cũ, phút chốc chìm vào, nước mắt lưng tròng.

    Tôn Quyền ngồi bên cạnh nghe xong những ký ức phủ bụi, lòng dâng nghìn vạn cảm khái, không biết tiếp tục thế nào.

    “Ta vẫn không thể xuống tay.” Tôn Quyền nói.

    “Ta biết.” Chu Du đáp nhẹ như mây gió, “Cho nên ta đã phái Đinh Phụng đi trước một bước, bắt trói Khổng Minh.”

    Tiếng nổ mạnh vang lên phía xa, Trường Giang đã biến thành chiến trường lửa.

    Gia Cát Lượng vội vàng chạy xuống Nam Bình Sơn, Lỗ Túc đằng xa đuổi theo.

    “Tiên sinh xin hãy dừng bước!” Lỗ Túc cao giọng nói.

    Gia Cát Lượng thở dài một tiếng, chân bước không ngừng, lên thuyền nhỏ, Lỗ Túc biến sắc, nói, “Chủ công nhà ta có việc thương lượng.”

    Gia Cát Lượng mặc đạo bào, mặt mang ý cười, đứng từ xa vái chào Lỗ Túc.

    “Thân mang trọng trách, không thể phụng bồi.”

    Tiểu binh khua mái chèo, vượt sóng mà đi, quân đội dưới trướng Lỗ Túc đuổi tới bờ sông, Gia Cát Lượng thừa dịp nương gió Đông lướt xa trăm bước, để lại một câu, “Tử Kính huynh! Ngày sau Kinh Châu quét đường trải chiếu chờ người!”

    Chiến thuyền đuổi theo, thuyền nhỏ của Gia Cát Lượng cưỡi sóng lao nhanh, Đinh Phụng đứng ở đầu thuyền, đuổi sát không tha, mắt thấy sắp bắt kịp, một thuyền nhỏ khác lại rẽ sóng chặn ngang.

    “Ta thay chủ công vấn an Đô đốc!” Triệu Vân cầm cung, đứng ở đầu thuyền, cao giọng nói, “Mai này gặp lại ở Kinh Châu!”

    Nói rồi, Triệu Vân giương cung, một tên vút ra như sao băng, cắm vào cánh buồm, chiến thuyền bị chỉnh lệch hướng, Gia Cát Lượng thoát một kiếp, được Triệu Vân bảo vệ chạy đến bờ Bắc.

    Quân Tào tan rã, người rơi xuống nước nhiều vô kể, xác thuyền cháy rụi bị sóng dồn thành một hàng chặn ngang đường sông, quân Đông Ngô tiến đến Tào doanh.

    “Bảo vệ Thừa tướng—”

    Lửa lớn lan đến tận mười vạn quân đóng ở bờ Bắc, Hạ Hầu Uyên phóng ngựa, kỵ binh hốt hoảng lùi lại, quân Đông Ngô tiến công ào ạt như tên rời nỏ, liên tục áp sát. Tào Tháo kinh hoàng hô, “Triệu tập trung quân…”

    Trống trận rền vang, thiên quân vạn mã mai phục hai bên Ô Lâm đồng loạt xông ra, Trương Phi, Lưu Bị dẫn một vạn quân giết vào Tào doanh, vừa mới giao chiến, quân Tào vốn không đồng nhất lập tức rối loạn, giày xéo lên nhau, chết nhiều vô kể.

    Tào Tháo được đội cận vệ che chắn bỏ chạy khỏi Ô Lâm, rút về Tương Dương, sợ hãi lùi về đường Hoa Dung thì gặp Quan Vũ giương đao chặn lại.

    Phía Nam Trường Giang, tiếng hoan hô vang vọng trên sông.

    Ánh chớp rạch nát nền trời, cuồng phong gọi mưa rào, mưa càng lúc càng lớn, Chu Du bị tưới ướt, lửa trên sông đã bị mưa dập tắt, chiến thuyền rách nát trôi nổi, xác chết la liệt.

    Lỗ Túc bước vội lên thuyền, nói, “Quan Vũ để Tào Tháo chạy rồi.”

    “Sớm biết có ngày này mà.” Chu Du nói.

    Nước mưa chảy dọc mũ giáp của Chu Du, hắn chậm rãi đứng lên, Tôn Quyền muốn tiến đến đỡ, Chu Du khoát tay ngăn lại, mưa to như trút, Chu Du quỳ một gối trước mặt Tôn Quyền, ngửa mặt lên trời, nước mưa quất vào mặt hắn. Dưới cơn mưa buốt giá, mây đen phủ kín bầu trời.

    “Trời phù hộ Đông Ngô ta.” Chu Du trầm giọng nói.

    Hừng đông, thu binh, bờ Nam lại vỡ òa những tiếng reo vang.

    Mùa thu năm Kiến An thứ mười ba, Tào Tháo đại bại ở Xích Bích, năm mươi vạn đại quân bị diệt toàn bộ, chưa đến năm vạn tàn quân rút về Lạc Dương.

    Cùng năm, Tôn Quyền bình định Giao Châu.

    Lưu Bị dẫn hai vạn bộ binh, kỵ binh tiếp nhận Kinh Châu, nhậm nhức Châu mục Kinh Châu.

    Kinh Châu chia ba bởi Tào, Lưu, Tôn.

    Thiên hạ cắt cứ quy về Ngụy, Thục, Ngô.

    Năm Kiến An thứ mười lăm, Chu Du tấn công đất Thục, lúc xuất binh từ Giang Lăng thì trở bệnh nặng, qua đời tại Ba Khâu, cả nước đau buồn, lúc chuyển linh cữu về Ngô Quận, tất cả quân thần Đông Ngô ra khỏi thành nghênh đón. Cùng năm đó, linh cữu được đưa về hồ Sào, chìm sâu đáy hồ đúng như di ngôn của Chu Du, cùng làm bạn với Tôn Sách.

    Năm Kiến An thứ hai mươi bốn, Quan Vũ công phá Tương Dương – Phàn Thành, Tôn Quyền phái Lã Mông, Lục Tốn tập kích Kinh Châu, Quan Vũ hai bên gặp địch, thua trận bỏ mình, Kinh Châu về tay Đông Ngô.

    Một năm sau, Tào Tháo chết bệnh, Tào Phi thừa kế chức Ngụy Vương, soán ngôi nhà Hán, đổi niên hiệu thành Hoàng Sơ.

    Năm Hoàng Sơ thứ hai, Lục Tốn tuân theo di chí của Chu Du, hỏa thiêu bảy trăm dặm liên doanh, quân Thục đại bại, Lưu Bị lui về Ích Châu. Ba phần thiên hạ, Ích Châu thất thế.

    Năm Hoàng Sơ thứ bảy, Tào Phi chết bệnh ở Lạc Dương.

    Bảy năm sau, Gia Cát Lượng ngũ xuất Kỳ Sơn, Bắc phạt đánh Ngụy. Năm tháng sau, Tôn Quyền nhận tin, tiến quân đến hồ Sào, được hồn thiêng Chu Du, Tôn Sách che chở, đấu với liên quân Thục – Hán, chia binh mã làm ba đường tấn công Tào – Ngụy, cuối cùng không địch lại quân Mãn Sủng, tay trắng trở về.

    Năm Hoàng Long thứ nhất, Tôn Quyền xưng đế, lập nước Ngô. Năm Thái Nguyên thứ nhất chết bệnh, hưởng thọ bảy mươi mốt.

    Năm Hàm Ninh thứ năm, Lục Kháng chết bệnh, Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm chinh phạt Ngô, Tôn Hạo đầu hàng. Đông Ngô diệt vong, tam quốc quy về Tấn.

    Ngày mất nước, nước Ngô mất đi bốn châu, bốn mươi ba quận, ba trăm mười ba huyện, năm mươi hai vạn ba nghìn hộ, hai mươi ba vạn quân, hai trăm ba mươi vạn nam nữ, hai trăm tám mươi vạn hộc thóc gạo, hơn năm nghìn chiến thuyền.

    Năm Kiến An thứ mười lăm, Ba Khâu, gió thu hiu quạnh, vạn vật tiêu điều, trời trong vời vợi, nắng vàng tản khắp.

    Trong trạm gác Ba Khâu, tiếng ho của Chu Du truyền ra, Chu Du cố gắng hít thở, binh sĩ bên cạnh vội dâng trà.

    “Cảm ơn.” Chu Du mỏi mệt nói.

    “Đô đốc hãy nghỉ ngơi.” Binh sĩ nói, “Tiếp binh phải mấy ngày nữa mới đến, đừng quá gắng sức.”

    Chu Du đặt bút viết thư nhà, nhét vào bao sai người đưa đi. Tiểu Kiều đang ở Kiến Nghiệp, Lỗ Túc ở Giang Lăng, Tôn Quyền ở Ngô Quận, thu sang phong cảnh héo úa, bên cạnh không ai bầu bạn, lạnh lẽo cô tịch, mùi cỏ khô lởn vởn, lá vàng bay vào phòng.

    Chăm chú nhìn, trông sống động như cánh bướm chao liệng trước bàn trà, lượn một vòng quanh màn lụa.

    Chu Du uống nửa chén trà nguội, nằm xuống giường nghỉ một lát, lại chẳng ngủ được.

    “Giờ nào rồi?” Chu Du không ho, trầm giọng hỏi.

    “Bẩm Đô đốc, giờ Mùi.”

    Chu Du mơ màng nghe bên ngoài có tiếng trẻ con chơi đùa, trời thu quang đãng, ánh dương xán lạn, soi rọi thảm cỏ khô vùng quê, sưởi ấm thân mình.

    “Là… ai đang cười đùa?” Chu Du hỏi.

    “Bẩm Đô đốc, là mấy nhóc con nhà Lâm hiệu úy đang chơi diều, để đi đuổi.”

    “Không… không cần.” Chu Du nhắm mắt, nói, “Để vậy cũng vui, diều ở đâu thế?”

    Binh sĩ không trả lời được, Chu Du nhớ đến một thứ, nói, “Trên đài quân cơ, tầng dưới cùng có một cái hộp, lấy thứ trong hộp đến đây cho ta.”

    Binh sĩ bước đến, tìm được một cái hộp đen tuyền ở tầng dưới cùng, hộp sắt nặng trịch, mở nửa ngày không ra, đành báo lại với Chu Du, “Đô đốc, không có chìa khóa.”

    “Chìa khóa…” Chu Du cử động đôi môi khô nứt, “Nhất thời chẳng nhớ để đâu nữa.”

    Binh sĩ bèn phá khóa mở hộp, trong hộp đựng hai lá bùa bằng gấm vàng. Chu Du run tay tiếp nhận, binh sĩ đặt nó vào tay Chu Du.

    Chu Du yên lặng nằm trên giường, hai tay đan nhau, trong tay cầm hai túi gấm.

    “Bay cao nè…”

    “Đừng có xoắn dây…”

    “Chờ ta với…”

    Tiếng trẻ con nhốn nháo ngoài xa, ríu rít truyền đến bên cửa, Chu Du nửa tỉnh nửa mê, xung quanh chẳng còn ai, chỉ có một mình hắn.

    “Công Cẩn.” Âm thanh của Tôn Sách vang bên tai.

    Chu Du mở mắt, thấy Tôn Sách đã lâu không gặp, liền mỉm cười.

    “Sao huynh lại tới đây?” Chu Du bất ngờ.

    Tay Tôn Sách cầm một con diều, thần thần bí bí cười với hắn, vẫy tay, Chu Du ngồi dậy, theo Tôn Sách ra ngoài.

    Vạn dặm trời trong, nắng vàng ấm áp, không khí mát lành, cảnh sắc non núi khi ấy dường như tươi sáng hẳn lên, mùi cỏ khô hòa lẫn với hương quần áo của chàng thiếu niên, cỏ khô bị giẫm rạp theo mỗi bước chân hai người chạy.

    “Nè! Từ từ!” Tôn Sách cười hô.

    Chu Du đứng cách đó mười bước, kéo dây diều, cánh diều bay cao, lả lướt dưới trời xanh.

    Trong phòng trạm gác, trên giường, gió ngừng lay, màn rũ, Chu Du nét mặt trầm tĩnh mà bình thản, áo trắng bao quanh thân người đơn bạc, một tay vô lực buông xuống.

    Một tháng sau, Tôn Quyền đích thân đưa linh cữu về huyện Thư, non xanh nước biếc, hồ Sào sóng vỗ mênh mang.

    “Là mảnh đất lành.” Quần thần cùng nói.

    “Năm xưa khi Tôn tướng quân còn sống, Đô đốc từng nói sẽ có một ngày mời chúng ta đến huyện Thư.” Trương Chiêu vuốt râu, nói, “Đất lành nhiều anh kiệt, đúng là địa phương tốt.”

    Tôn Quyền nói, “Năm đó cha ta qua đời, ta và mẫu thân ở nhờ nhà Công Cẩn đại ca mấy năm, sau này muốn về nhưng bộn bề công việc, chẳng thể toại nguyện.”

    Tôn Quyền đã không còn là đứa trẻ năm xưa, nhưng khi đến trước hồ Sào, y vẫn nhớ rõ khung cảnh ngày ấy.

    Mùa xuân đó, Chu Du cùng Tôn Sách ngồi thuyền ra hồ Sào, một câu cá ở đuôi thuyền, một uống rượu nấu cá ở đầu thuyền, Tôn Quyền ngồi một bên rớt nước miếng chờ Chu Du mở nắp nồi.

    Trong những tháng ngày ấy, Chu Du dạy y tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.

    Hiện tại, Chu Du cùng Tôn Sách đắm mình nơi hồ Sào, cũng xem như đã thỏa mãn tâm nguyện năm xưa.

    Chu Du lẳng lặng nằm trong quan tài, trong lòng ôm tro cốt của Tôn Sách, dung nhan vẫn tuấn tú khôi ngô như khi còn sống, Tiểu Kiều hai mắt đẫm lệ, vung lá ngải, gồng sức đậy nắp quan tài, quan tài gỗ trầm được ba chiếc thuyền đưa ra giữa hồ, chậm rãi thả chìm xuống đáy hồ.

    Cắt trắng kêu một tiếng xé nát không trung, giang cánh bay đến phía chân trời.

    Trong làn nước buốt giá, quan tài nặng nề chìm xuống, Chu Du nhắm nghiền hai mắt, mái tóc đen dài tản ra, tay vẫn ôm chặt tro cốt của Tôn Sách.

    “Công Cẩn.” Tôn Sách mỉm cười, hóa thành bóng người ôm lấy Chu Du.

    Linh hồn Chu Du mở mắt, ý cười lan tràn, vươn tay ôm Tôn Sách.

    Dưới bầu trời xanh thẳm, xuân hạ luân chuyển, nhiều năm trôi qua như mây khói, Giang Đông lại đón một mùa xuân mới, hoa đào nở đầy Cô Sơn, ven hồ Sào, trẻ con chạy dọc sườn núi thả diều.

    “Bên này nè!”

    “Mau qua đây!”

    Hai đứa trẻ đuổi theo diều, chạy vào một ngôi chùa bỏ hoang, ngôi chùa năm xưa nay chỉ còn là phế tích, chiếc chuông đồng xanh hoen gỉ vẫn nằm đó, diều mắc kẹt trên giá chuông.

    Hai đứa nhóc ngồi sóng vai trước ngôi chùa Cô Sơn, một đứa tay quấn dây diều, một đứa cầm cánh diều.

    Phi Vũ xẹt qua bầu trời, thằng nhóc cao hơn nói, “Ê, nhìn con chim kia kìa, lượn qua lượn lại cả buổi rồi, chắc là chim cắt đó.”

    “Ừ.” Thằng nhóc còn lại mỉm cười, cẩn thận cuộn gọn dây diều.

    “Sao cứ thấy nó quen quen.” Nhóc cao hơn nói.

    “Gọi nó thử xem? Coi nó có đến không?” Nhóc kia lo quấn dây diều, không ngẩng đầu, nói.

    Nhóc cao to dẩu môi, huýt một tiếng, Phi Vũ trên trời nghe tiếng huýt, lập tức bổ tới, thu cánh, đứng trước mặt hai đứa. Nhóc quấn dây diều ngẩng đầu, trong mắt đầy vẻ kinh ngạc.

    “Chim nhỏ về với chúng ta rồi nè.” Nhóc cao kều cầm diều nói, “Đi thôi!”

    Đứa nhỏ kia dở khóc dở cười, bị lôi xuống núi, Phi Vũ vô cùng ngoan ngoãn, khép cánh, được mang xuống núi.

    Hai thằng nhóc bước lên bè gỗ, đứa khỏe hơn cầm sào, đứa còn lại gỡ từng vòng dây, cầm diều chờ gió nổi.

    “Thả lẹ lẹ coi!” Nhóc cao to thúc giục.

    “Đại phá Tào Công, cần dùng hỏa công, vạn sự đã bày, chỉ chờ cơ hội…” Thằng nhóc kia nói như thật.

    Gió Đông thổi qua đất trời, hồ Sào gờn gợn từng đợt sóng.

    Diều vừa buông, cánh diều chao liệng trên mặt hồ, lát sau đón gió bay lên, kéo căng dây diều, lượn dưới trời xanh.

    Hai chóp Cô Sơn như hai thành lũy sừng sững hai bên hồ Sào, hoa đào bay trong gió, dịu dàng bao trùm cả thế giới.

    ..

    Hoàn chính văn.

    Thuộc truyện: Giang đông song bích