Thiên quan tứ phúc – Chương 11-20

    Thuộc truyện: Thiên quan tứ phúc

    Chương 11: Miếu cổ ẩn trong núi, rừng thi thể treo ngược (3)

    Nữ quỷ kia gò má đầy đặn, hai hàng lông mày nhướn lên, phải nói là xinh đẹp khôn tả. Lẽ ra trong xinh đẹp còn mang ba phần khí khái anh hùng, thế mà giờ đây lại chứa đầy oán khí, như thể quanh năm bị trói buộc tại nơi nhỏ hẹp, không nhìn thấy trời trong. Ả quỳ dưới mặt đất, hỷ phục từ đầu gối trở xuống rách bươm, khó trách khi nãy có người chê rách.

    Tạ Liên bình tĩnh nhìn ả một lát, nói: “Tuyên Cơ?”

    Dường như đã thật nhiều năm không ai gọi ả tên này. Qua hồi lâu, oán hận tích tụ trên gương mặt nữ quỷ mới tiêu tan một chút, mắt ả bỗng chốc lóe lên tia sáng.

    Ả hỏi: “… Có phải chàng ấy phái ngươi đến tìm ta không?”

    “Chàng ấy” này, Tạ Liên đoán, tất nhiên là chỉ Bùi tướng quân.

    Tuyên Cơ tiếp tục truy hỏi: “Vậy chàng ấy đâu? Sao chàng ấy không tự mình đến gặp ta?”

    Nét mặt sốt sắng và giọng điệu chờ mong của Tuyên Cơ khi nói chuyện khiến Tạ Liên cảm thấy, tốt nhất đừng nên nói “không phải”. Thấy Tạ Liên hồi lâu không đáp, Tuyên Cơ thoáng cái ngã ngồi dưới đất.

    Ả tựa lưng vào pho tượng Võ Thần anh dũng cao ngất kia, hỷ phục đỏ thẫm trải thành một đóa hoa máu khổng lồ dưới mặt đất, tóc tai ả bù xù, sắc mặt đau đớn khổ sở, hệt như đang chịu sự giày vò lớn lao. Ả hỏi: “… Tại sao chàng ấy không đến gặp ta?”

    Vấn đề này, Tạ Liên cũng không biết trả lời thế nào, chỉ đành tiếp tục giữ im lặng. Tuyên Cơ ngẩng đầu nhìn pho tượng thần kia, buồn bã nói: “Bùi lang ơi Bùi lang, ta vì chàng mà phản bội quốc gia của ta, vứt bỏ mọi thứ của ta, biến thành như thế này, tại sao chàng không đến gặp ta?”

    Ả dùng hai tay bứt tóc mình, chất vấn: “Lẽ nào lòng chàng làm bằng sắt đá sao?”

    Tạ Liên không nói tiếng nào, sau khi nghe mấy câu đó, y lẳng lặng suy tư, Tuyên Cơ nói ả vì Bùi tướng quân mà phản bội quốc gia của mình, chẳng lẽ ý chỉ Bùi tướng quân thừa dịp hai người tình nồng ý mật moi tin tình báo từ miệng ả, khiến cho đất nước của ả thất bại trên chiến trường? Ả còn nói, vì Bùi tướng quân nên mới biến thành như thế này, “như thế này” hiển nhiên ám chỉ thảm trạng gãy chân của ả. Tuyên Cơ là một nữ tướng quân, ra chiến trường không thể nào mang thân tàn tật, chân của ả chỉ có khả năng bị gãy sau đó thôi, lẽ nào điều này cũng liên quan đến Bùi tướng quân? Có phải Bùi tướng quân bội tình bạc nghĩa mới khiến cho oán khí của ả sâu nặng đến thế?

    Mặc dù cảm thấy những gì mình đang nghĩ rất chi là ớn lạnh, nhưng oán niệm của Tuyên Cơ sâu nặng đến mức phải đi sát hại tính mạng người vô tội, dù ớn lạnh cũng chỉ đành kiên trì nghĩ sang hướng đó. Bấy giờ, ngoài miếu bỗng truyền đến tiếng hét chói tai của con gái: “Cứu mạng! Cứu mạng!”

    Tạ Liên và Tuyên Cơ đồng loạt nhìn ra ngoài cửa sổ, chỉ thấy nơi Nhược Da tạo thành vòng tròn trắng, một kẻ nào đó đang kéo thiếu niên quấn băng ra ngoài, còn Tiểu Huỳnh thì ôm ghì chân kẻ nọ không chịu buông. Kẻ nọ mắng ầm lên, chính là gã thanh niên kia: “Cút ngay! Con ngu này, nhỡ gọi nữ quỷ đến thì sao!”

    Tiểu Huỳnh cất cao giọng: “Gọi đến thì gọi đến, ngươi còn đáng sợ hơn quỷ nữa! Ta… ta thà gặp nữ quỷ!”

    Thì ra gã thanh niên khi nãy bị Tạ Liên dùng lụa quất hôn mê đã tỉnh lại, thấy đám tân nương chậm chạp mò mẫm khắp nơi, thoạt đầu bị dọa giật cả mình, nhưng chẳng mấy chốc đã phát hiện các nàng không nhìn thấy người. Lá gan của gã rất lớn, tính tình lại manh động lỗ mãng, gã định nhân lúc người khác không dám nhúc nhích tranh thủ kéo thiếu niên quấn băng xuống núi nhận tiền thưởng một mình. Gã chẳng thèm quan tâm rốt cuộc thiếu niên này có phải Quỷ tân lang hay không, nói chung dưới chân núi mọi người đều truyền nhau nó là Quỷ tân lang, vậy thì nó là Quỷ tân lang thôi. Nào ngờ Tiểu Huỳnh lại nhào đến la toáng lên, làm kinh động đến đám tân nương đang lang thang bốn phía và Tuyên Cơ trong miếu Minh Quang. Thấy lại là gã ta, Tạ Liên nhủ thầm lẽ ra lúc nãy nên quất mạnh hơn chút, quất cho gã hôn mê ba ngày ba đêm mới tốt, y hô lớn: “Trở vào trong vòng đi!”

    Vừa thấy một luồng sương mù đen ập về phía mình, gã thanh niên lật đật lùi trở về, nhưng tay gã đang kéo thiếu niên quấn băng, chân bị Tiểu Huỳnh ôm ghì, cuối cùng vẫn chậm một bước, chớp mắt đã bị sương mù đen cuốn đến tay Tuyên Cơ. Gã quay đầu lại nhìn, cô gái tóc dài xõa tung, âm khí dày đặc này, chẳng phải chính là thi thể nữ xinh đẹp nằm trong đám tân nương khi nãy bị mình sờ sao?

    Chuyện đến nước này, rốt cuộc gã mới biết sợ,gã kêu la thảm thiết, còn Tuyên Cơ khẽ cong năm ngón, cắm vào sau ót gã, chỉ trong tích tắc đã tróc toàn bộ hộp sọ của gã ra khỏi lớp da đầu dày cộm.

    Hộp sọ bị tróc ra nóng hôi hổi, vẫn còn há mồm hét to: “Á ——!!!!”

    Đám người đứng trong vòng trắng sợ đến hồn vía lên mây cũng há mồm hét to: “Á ——!!!!”

    Tiểu Huỳnh cũng bị dọa sợ, nàng vừa kéo thiếu niên quấn băng vào vòng vừa kêu la, Tuyên Cơ lại duỗi năm ngón về phía hai người họ, Tạ Liên lách mình chắn trước mặt Tiểu Huỳnh, nói: “Tướng quân, đừng tạo sát nghiệt nữa.”

    Tạ Liên gọi ả tướng quân, mục đích là nhằm nhắc nhở ả, ả từng là nữ kiệt đấu tranh anh dũng trên chiến trường để bảo vệ quốc gia. Nhưng rồi, Tuyên Cơ lại bóp nát cái hộp sọ kêu la thảm thiết trong tay, gương mặt xinh đẹp tuyệt trần giờ đây đã biến hình bảy phần. Ả cười lạnh hỏi: “Có phải chàng ấy không dám gặp ta không?”

    Tạ Liên hết cách, nghĩ thầm chi bằng trước tiên cứ vờ như Bùi tướng quân phái tới cho lành, nhưng Tuyên Cơ vốn chẳng cần câu trả lời của y. Ả cười to vài tiếng, quay phắt người lại, chỉ vào pho tượng thần kia, nói: “Ta đốt miếu của chàng, làm loạn ở địa bàn của chàng! Chỉ vì để chàng đến nhìn ta một lần, ta chờ chàng biết bao nhiêu năm!”

    Ả ngơ ngác nhìn pho tượng Võ Thần kia hồi lâu, sau đó thình lình nhảy lên, bóp cổ nổ lắc như phát rồ, quát: “Vậy mà chàng vẫn không chịu đến gặp ta, có phải chính chàng cũng biết mình có lỗi ta không? Chàng nhìn chân ta đi! Nhìn ta bây giờ ra nông nỗi này đi! Ta thế này cũng là vì chàng thôi, vì chàng cả thôi! Lẽ nào lòng chàng làm bằng sắt đá sao!”

    Thân là người ngoài cuộc, Tạ Liên cũng không muốn bình luận ai đúng ai sai, nhưng xét theo cảm nhận cá nhân, y thật sự nhịn không được nghĩ thầm: “Nếu ngươi muốn gặp hắn, sao không đổi cách nào bình thường hơn một chút? Nếu có người muốn dùng cách này gặp ta, ta không đời nào muốn tới đâu.”

    Bên kia, cuối cùng Tiểu Huỳnh và thiếu niên quấn băng cũng cùng nhau trở vào trong vòng trắng, nàng nhìn sang bên này, lo lắng nói nhỏ: “Công tử…” Nghe tiếng, Tạ Liên mỉm cười với nàng, ý bảo nàng không cần lo lắng. Nào ngờ y vừa cười, sắc mặt Tuyên Cơ lập tức trở nên vặn vẹo, từ trên tượng thần, ả bất chợt nhào tới, rít lên: “Chàng chẳng thèm nhìn đến ta, chỉ thích nhìn lũ con gái hay cười này, để ta cho chàng từ từ nhìn đủ!”

    Tuy rằng người ả túm là Tạ Liên, song lời thì lại nói với vị Bùi tướng quân kia. Ban đầu Tạ Liên cứ ngỡ Tuyên Cơ không gả được cho người mình yêu, thấy tân nương xuất giá hạnh phúc mỉm cười trên kiệu hoa bèn sinh lòng đố kỵ, lại không ngờ rằng thì ra vì Bùi tướng quân thích con gái hay cười, Tuyên Cơ mới rối loạn tâm thần liên tưởng rằng đây là tân nương sắp gả cho người ả yêu. Thảo nào ả đốt sạch miếu Minh Quang dưới chân núi, xem ra ả không thể chịu được cảnh suốt ngày có con gái ra ra vào vào trong miếu của Bùi tướng quân, chia sẻ cùng một pho tượng thần với mình. Nữ quỷ này không hổ danh là “Hung”, gãy hết hai chân mà hành động cực kỳ quỷ dị và nhanh nhạy, chưa kể sau khi bị Nhược Da đánh trúng, ả vẫn còn lắm sức như thế, túm đến mức Tạ Liên không giãy khỏi ả được. Y đang định gọi Nhược Da đến, chợt nghe một tiếng hét lớn: “A a a a a a ——”

    Thấy Tạ Liên và nữ quỷ giằng co quyết liệt, Tiểu Huỳnh nhặt một nhánh cây lao đến, vừa lao vừa hô to, như thể đang tiếp thêm can đảm cho mình. Tuyên Cơ căn bản không cần động tay, chỉ lạnh lùng quay đầu lại liếc một cái, Tiểu Huỳnh còn chưa đến gần đã bay ra ngoài, bay xa tận mấy trượng, đầu hướng xuống, thân thể hướng lên, rơi phịch xuống đất!

    Thiếu niên quấn băng khản giọng kêu “a a” chạy ào qua, Tạ Liên cũng giật mình, y vừa nhổm người ngồi dậy, sau ót bỗng dưng lạnh toát, năm ngón của Tuyên Cơ đã đặt lên, có vẻ ả định tróc hộp sọ của y ra khỏi da đầu như lúc nãy. Dưới tình thế cấp bách, Tạ Liên dùng tay phải nắm cổ tay của ả, quát: “Trói!”

    Chỉ nghe tiếng “sàn sạt” xé trời vang lên, một dải lụa trắng nghe gọi bay tới, quấn quanh Tuyên Cơ mấy vòng, trói gô ả ta. Do hai chân đã gãy, Tuyên Cơ tránh không kịp, “rầm” một tiếng quỳ xuống, ả lăn qua lộn lại dưới đất, muốn giãy khỏi dải lụa trắng này, nào ngờ nó càng quấn càng chặt. Mới vừa thoát thân, Tạ Liên không kịp thở hơi nào mà lập tức đứng dậy, chạy đến chỗ Tiểu Huỳnh rơi xuống.

    Mặc dù Nhược Da đã rút, mọi người vẫn không dám lộn xộn, nhưng cũng có vài thôn dân can đảm đã quen với việc đám tân nương mò mẫm tới lui, đi sang vây quanh nơi Tiểu Huỳnh ngã. Thiếu niên quấn băng quỳ gối cạnh thân hình nằm sấp của Tiểu Huỳnh, tay chân luống cuống không biết phải làm sao, sốt ruột như con sâu nhỏ trên chảo nóng. Không ai dám đụng đến Tiểu Huỳnh, sợ nàng té gãy chỗ nào yếu hại, đụng lung tung sẽ gãy nặng hơn. Tạ Liên vội vàng xem xét một phen, lòng biết dẫu cẩn thận thế nào cũng vô dụng, té nặng như vậy, mắt thấy sẽ không sống nổi.

    Mặc dù quen biết thiếu nữ Tiểu Huỳnh này chưa bao lâu, thậm chí nói với nhau chẳng được mấy câu, y vẫn biết tuy nàng dung mạo xấu xí nhưng tấm lòng lương thiện, kết cục này thật sự khiến lòng người xót xa. Tuyên Cơ ở bên kia ắt hẳn không thể giãy khỏi Nhược Da trong một sớm một chiều, Tạ Liên nhủ thầm: “Tuy rằng chẳng còn ích gì, nhưng nói sao cũng không thể để nàng nằm tư thế này trước khi chết được.” Nghĩ vậy, Tạ Liên cẩn thận lật người nàng lại.

    Mặt mũi Tiểu Huỳnh bê bết máu, người xung quanh nhìn mà tặc lưỡi thở dài, nàng vẫn còn sót một hơi, nhỏ giọng nói: “… Công tử, có phải muội giúp mà lại gây thêm phiền không…”

    Giúp mà gây thêm phiền thì không có, nhưng đúng là nàng không hề giúp được gì. Lúc đó Tạ Liên vốn định triệu hồi Nhược Da, căn bản không cần người ngoài hỗ trợ, mà nhánh cây của nàng dẫu có đánh trúng Tuyên Cơ cũng chẳng có tác dụng gì, huống chi từ đầu đến cuối nàng nào có đến gần được nữ quỷ kia? Nói thế này, khác nào bảo nàng tự tìm đường chết một cách vô giá trị.

    Tạ Liên nói: “Không có. Muội giúp được nhiều lắm, muội nhìn đi, muội chạy qua đánh lạc hướng chú ý của nữ quỷ, ta mới có thời gian chế ngự ả, thật sự phải cảm ơn muội đó. Có điều lần sau đừng như vậy nữa, muốn giúp phải nói với ta trước, nếu không ngộ nhỡ ta không nhận được thì nguy rồi.”
    *nhận được ở đây ý bảo nhận được sự giúp đỡ nha.

    Tiểu Huỳnh bật cười: “Ầy, công tử, huynh không cần phải gạt muội, muội biết mình chẳng giúp được gì, cũng không còn lần sau nữa.”

    Nàng nói ậm ờ không rõ, rồi lại phun một ngụm máu, lẫn trong máu là vài chiếc răng cửa té gãy. Thiếu niên quấn băng gấp đến độ run lẩy bẩy, miệng ê a chẳng biết muốn nói gì. Tiểu Huỳnh nói với cậu ta: “Sau này đệ… không cần xuống núi trộm đồ ăn nữa, lỡ như bị người ta phát hiện, đánh chết thì tiêu rồi.”

    Tạ Liên nói: “Nếu cậu ấy đói bụng, có thể tìm ta lấy đồ ăn.”

    Nghe vậy, ánh mắt Tiểu Huỳnh sáng lên: “… Thật sao? Vậy, vậy cảm ơn huynh nhiều…”

    Cười một hồi, hai hàng nước mắt bỗng chảy xuống từ đôi mắt nhỏ của nàng.

    Nàng nói khẽ: “Muội cảm thấy mình sống trên đời này, chẳng được mấy ngày vui vẻ.”

    Tạ Liên cũng không biết nên nói gì cho phải, chỉ đành vỗ nhẹ lên tay nàng. Tiểu Huỳnh lại thở dài: “Mà thôi, bỏ đi, có lẽ muội… trời sinh xui xẻo rồi.”

    Nghe lời này, quả thật có chút buồn cười. Hơn nữa do nàng mũi méo mắt lệch, xấu một cách khôi hài, bộ dạng máu me nước mắt đầy mặt của nàng, thoạt nhìn cũng rất buồn cười.

    Nàng chảy nước mắt, nói: “Nhưng mà, cho dù là vậy, muội vẫn… muội vẫn…”

    Nói đến đây, Tiểu Huỳnh tắt thở bỏ mình. Thấy nàng đã chết, thiếu niên quấn băng ôm thi thể của nàng nhỏ giọng khóc nức nở, cậu ta vùi đầu lên bụng nàng, như thể mất đi chỗ dựa này, làm thế nào cũng không dám ngẩng lên lại.

    Tạ Liên đưa tay khép hai mắt nàng lại, nhủ thầm: “Muội kiên cường hơn ta nhiều.”

    Đúng lúc này, một trận tiếng chuông kỳ dị truyền đến.

    Ba tiếng “Keng!” “Keng!” “Keng!” vang ầm ĩ, Tạ Liên nhất thời cảm thấy đầu váng mắt hoa: “Xảy ra chuyện gì vậy?”

    Lại nhìn sang bốn phía, đám tân nương ngã trái ngã phải nằm la liệt dưới đất, chỉ có cánh tay còn duỗi về phía trước, chỉa thẳng lên trời. Các thôn dân cũng ngã xuống đất không dậy nổi, dường như tất cả đồng loạt bị tiếng chuông đinh tai nhức óc này chấn cho chìm vào hôn mê. Tạ Liên cũng xây xẩm mặt mày, y đưa tay đỡ trán, cố gắng đứng lên, nhưng hai chân lại khuỵu xuống, khiến y nửa quỳ dưới đất, may là có người dìu y dậy, ngẩng đầu lên mới thấy là Nam Phong. Thì ra sau khi bảy tân nương lủi vào rừng cây, các nàng lập tức tản ra mọi phía, Nam Phong gần như phải chạy khắp núi Dữ Quân một lượt mới tóm được toàn bộ không bỏ sót người nào, lúc này mới vừa trở về. Thấy Nam Phong bình chân như vại, Tạ Liên vội hỏi: “Tiếng chuông này là sao thế?”

    Nam Phong nói: “Đừng lo, đây là viện binh.”

    Nhìn theo ánh mắt của Nam Phong, bấy giờ Tạ Liên mới phát hiện, trước miếu Minh Quang, chẳng biết đã xuất hiện một hàng binh sĩ từ lúc nào.

    Hàng binh sĩ này ai cũng mình khoác áo giáp, thần thái sáng láng, oai phong lẫm liệt, trên người phủ một tầng linh quang mờ ảo, mà đứng thẳng trước hàng binh sĩ là một võ tướng trẻ tuổi cao lớn xuất chúng, rõ ràng không phải người phàm. Võ tướng nọ chắp tay đi đến trước mặt Tạ Liên, khẽ cúi người với y, nói: “Thái tử điện hạ.”

    *Linh quang kiểu như ánh sáng thần thánh ấy.

    Tạ Liên còn chưa mở miệng hỏi, Nam Phong đã thấp giọng nói: “Đây là Bùi tướng quân.”

    Tạ Liên lập tức đưa mắt nhìn Tuyên Cơ dưới đất, nói: “Bùi tướng quân?”

    Vị Bùi tướng quân này không giống những gì y tưởng tượng cho lắm, cũng khác xa pho tượng thần trong miếu. Tượng thần kia oai hùng tột bậc, nét kiêu ngạo hằn rõ trên mặt, khôi ngô tuấn tú một cách đầy thế xâm lược, còn võ tướng trẻ tuổi này tuy cũng khôi ngôi tuấn tú, nhưng mặt mày trắng nõn, dung mạo trầm lắng như một viên ngọc lạnh giá, không mang sát khí, chỉ có sự điềm tĩnh không mảy may dao động. Nói là võ tướng cũng được, mà nói là mưu tướng cũng được nốt.

    Bùi tướng quân nhìn Tuyên Cơ dưới đất, nói: “Điện Linh Văn báo cho chúng ta biết, lần này sự việc xảy ra tại núi Dữ Quân nhiều khả năng có liên hệ sâu xa liên quan với điện Minh Quang chúng ta, tại hạ mới chạy vội đến ngay. Không ngờ quả nhiên có liên hệ sâu xa thật, làm phiền Thái tử điện hạ rồi.”

    Tạ Liên âm thầm cảm ơn Linh Văn, hiệu suất của Linh Văn điện kém hồi nào chứ. Y nói: “Cũng làm phiền Bùi tướng quân rồi.”

    Mà Tuyên Cơ giữa lúc vùng vẫy loáng thoáng nghe được ba chữ “Bùi tướng quân”, ả ngẩng phắt đầu lên, nói bằng giọng khẩn thiết: “Bùi lang, Bùi lang! Là chàng ư, chàng đến rồi sao? Rốt cuộc chàng đến rồi sao?”

    Do bị Nhược Da trói, ả có mừng như điên cũng chỉ có thể quỳ thẳng người. Ngờ đâu vừa trông thấy võ tướng kia, sắc mặt ả xanh mét: “Ngươi là ai?!”

    Bên này, Tạ Liên đã kể sơ vài câu cho Nam Phong biết rốt cuộc Quỷ tân lang là chuyện gì xảy ra, nghe nàng hỏi vậy, y nói: “Đây không phải là Bùi tướng quân sao? Chẳng lẽ ả chờ lâu quá nên không nhận ra?”

    Nam Phong nói: “Đúng là Bùi tướng quân, có điều không phải là người mà ả chờ.”

    Tạ Liên không hiểu mô tê gì: “Lẽ nào có đến hai vị Bùi tướng quân?”

    Nam Phong nói tiếp: “Không sai, đúng là có hai vị!”

    Thì ra Bùi tướng quân mà nữ quỷ Tuyên Cơ đợi chờ chính là chủ thần của điện Minh Quang, còn vị ở trước mặt bọn họ là phụ thần của điện Minh Quang, cũng chính là hậu duệ của vị Bùi tướng quân kia. Vì để phân biệt, lúc gọi mọi người sẽ xưng vị này là “Tiểu Bùi tướng quân”, trong điện Minh Quang chính thống phải thờ cả hai vị này một trước một sau. Với tư cách là chính thần chủ điện (hiểu nôm na là vị thần chủ chốt của điện), tượng thần của Bùi tướng quân nằm đối diện cửa điện, còn tượng thần của Tiểu Bùi tướng quân sẽ đặt sau lưng hắn. Tuy là tổ tiên và hậu duệ, song thoạt nhìn chẳng khác gì anh em. Một nhà hai người phi thăng, cũng có thể xem là một giai thoại lạ kỳ.

    Đưa mắt nhìn quanh một vòng, không thấy người mà mình muốn gặp trong hàng binh sĩ, Tuyên Cơ đau đớn nói: “Bùi Minh đâu? Sao chàng ấy không đến? Sao chàng ấy không đến gặp ta?”

    Tiểu Bùi tướng quân khẽ gật đầu, nói: “Bùi tướng quân có nhiệm vụ quan trọng trong người.”

    Tuyên Cơ lẩm bẩm: “Nhiệm vụ quan trọng?”

    Dưới mái tóc dài xõa đầy đất, ả vừa rơi nước mắt vừa nói: “Ta đợi chàng ấy suốt mấy trăm năm, chàng ấy có nhiệm vụ gì? Năm đó vì để gặp ta một lần, chàng ấy có thể một đêm vượt nửa biên giới, bây giờ chàng ấy có nhiệm vụ quan trọng gì chứ? Quan trọng đến mức ngay cả xuống đây nhìn ta một cái cũng không được? Có sao? Vốn dĩ không có đúng không?”

    Tiểu Bùi tướng quân nói: “Tuyên Cơ tướng quân, mời lên đường.”

    Hai binh sĩ của điện Minh Quang đứng trong hàng đi tới, Nhược Da bỗng chốc nhảy khỏi người Tuyên Cơ, quay về quấn vòng vòng quanh cổ tay Tạ Liên, Tạ Liên vỗ nhẹ lên nó hai cái như trấn an. Tuyên Cơ để mặc cho hai binh sĩ áp giải, thẫn thờ chốc lát rồi bỗng dưng giãy dụa kịch liệt, chỉ trời mà mắng: “Bùi Minh! Ta nguyền rủa chàng!”

    Tiếng gào của ả hết sức chói tai, Tạ Liên sửng sốt, nghĩ bụng: “Này là mắng tổ tiên trước mặt con cháu à?”

    Tiểu Bùi tướng quân vẫn mặt không đổi sắc, nói: “Để mọi người chê cười rồi.”

    Tuyên Cơ vẫn còn khản giọng mắng: “Ta nguyền rủa chàng, tốt nhất chàng mãi mãi đừng yêu bất cứ ai, bằng không nếu có ngày đó, ta nguyền rủa chàng sẽ trở thành như ta, vĩnh vĩnh viễn viễn, thời thời khắc khắc, vô cùng vô tận, lửa tình đốt người! Lửa tình đốt người, đốt sạch tim gan tỳ phổi thận của chàng!”

    Lúc này, Tiểu Bùi tướng quân nói với Tạ Liên: “Thất lễ, xin chờ một lát.” Nói đoạn bắt đầu khép hai ngón tay, để nhẹ lên huyệt thái dương. Đây là cách mở phép thông linh, hẳn là Tiểu Bùi tướng quân đang thông linh với ai đó. Lát sau, hắn “ừ” một tiếng, thả tay xuống, chắp tay sau lưng, quay sang nói với Tuyên Cơ: “Bùi tướng quân bảo ta chuyển lời cho ngài —— Đó là chuyện không thể nào.”

    Tuyên Cơ rống to: “Ta nguyền rủa chàng ——!!!”

    Tiểu Bùi tướng quân khẽ nâng tay, nói: “Giải đi.”

    Hai binh sĩ kéo Tuyên Cơ đang vùng vẫy điên cuồng xuống, Tạ Liên nói: “Tiểu Bùi tướng quân, cho phép ta hỏi một câu, Tuyên Cơ sẽ bị xử lý thế nào?”

    Tiểu Bùi tướng quân nói: “Đày dưới chân núi.”

    Tìm một ngọn núi trấn trụ, đây đúng là cách thiên giới thường dùng để đối phó yêu ma quỷ quái. Trầm ngâm chốc lát, Tạ Liên vẫn lên tiếng: “Oán khí của Tuyên Cơ tướng quân này rất nặng, ả vẫn nhớ mãi không quên mối hận vì Bùi tướng quân mà phản quốc gãy chân, chỉ sợ trấn áp không phải kế lâu dài.”

    Tiểu Bùi tướng quân lại khẽ nghiêng đầu, hỏi: “Ả nói ả vì Bùi tướng quân mà phản quốc gãy chân?”

    Tạ Liên đáp: “Đúng là ả từng nói mình vì Bùi tướng quân mới ra nông nỗi này, chẳng qua không biết rốt cuộc sự thật là thế nào.”

    Tiểu Bùi tướng quân nói: “Nếu nhất định phải nói thế thì cũng được, phản quốc vì Bùi tướng quân là thật, nhưng chi tiết trong cuộc, có lẽ không như tình hình mà người ngoài đã tưởng. Sau khi Bùi tướng quân và ả chia tay, vì níu kéo Bùi tướng quân, Tuyên Cơ tướng quân không ngại chủ động dâng tình báo trong quân đội, Bùi tướng quân không muốn thắng mà không vinh nên không nhận.”

    … Chuyện này thật sự không thể nào ngờ, cái gọi là “Ta vì chàng mà phản bội quốc gia của ta” thì ra là như thế. Tạ Liên nói: “Vậy ả nói mình gãy hai chân cũng vì Bùi tướng quân, tức là…?”

    Tiểu Bùi tướng quân đáp: “Hai chân ả là do chính ả bẻ gãy.”

    … Chính mình bẻ gãy?

    Tiểu Bùi tướng quân bình thản nói: “Bùi tướng quân không thích những cô gái mạnh mẽ, mà Tuyên Cơ tướng quân trời sinh hiếu thắng, đây cũng là nguyên nhân vì sao hai người họ không thể bên nhau lâu dài. Tuyên Cơ tướng quân không cam tâm, ả nói với Bùi tướng quân, ả nguyện hy sinh thay đổi vì Bùi tướng quân, thế nên tự phế bỏ võ công, còn bẻ gãy hai chân của mình. Kể từ đó, ả chẳng khác nào tự chặt hai cánh, trói mình bên người Bùi tướng quân. Bùi tướng quân không bỏ mặc ả không lo, còn thu nhận chăm sóc ả, nhưng từ đầu đến cuối vẫn không muốn cưới ả. Tuyên Cơ tướng quân tâm nguyện không thành, ôm hận tự sát, không vì nguyên nhân gì khác, chỉ vì khiến Bùi tướng quân đau lòng khổ sở. Nhưng mà, thứ lỗi cho ta nói thẳng.”

    Hắn nói chuyện vẫn với vẻ nhã nhặn lễ độ, bình tĩnh quá đỗi như thế: “Không có chuyện đó đâu.”

    Tạ Liên xoa xoa ấn đường, không nói lời nào, nhủ thầm: “Người gì thế này?”

    Tiểu Bùi tướng quân nói tiếp: “Thị phi đúng sai trong đó, ta cũng không biết. Ta chỉ biết nếu Tuyên Cơ tướng quân chịu buông tay, vốn dĩ sẽ không đến mức này. Thái tử điện hạ, tại hạ cáo từ.”

    Tạ Liên cũng chắp tay, tiễn bọn họ đi. Nam Phong bình luận: “Lạ đời.”

    Tạ Liên nghĩ thầm, bản thân mình cũng là trò cười của ba giới, nổi tiếng lạ đời đây, cần gì phải nói ai khác. Chuyện giữa Bùi tướng quân và Tuyên Cơ, không phải người trong cuộc cũng khó nói ai đúng ai sai. Chỉ tội nghiệp mười bảy tân nương vô tội, cả những Võ Quan và kiệu phu hộ tống cũng thật tai bay vạ gió.

    Nhắc đến tân nương, Tạ Liên lập tức dời mắt sang nhìn, chỉ thấy mười bảy thi thể tân nương dưới mặt đất bắt đầu xuất hiện mức độ thay đổi khác nhau. Có người hóa thành một đống xương trắng, có người bắt đầu thối rữa, tản ra từng đợt mùi tanh tưởi. Mùi hôi làm cho thôn dân dưới đất ngộp tỉnh, bọn họ ngơ ngác tỉnh dậy, thấy cảnh tượng trước mắt lại kinh hồn táng đảm.

    Thừa dịp này, Tạ Liên lằng nhằng lải nhải dạy cho bọn họ một bài thiện ác nhân quả báo ứng, khuyên bọn họ xuống núi rồi phải cầu phúc cho các tân nương nhiều vào, đồng thời nghĩ cách báo tin cho người nhà tân nương đến nhận thi thể, tuyệt đối không được buôn bán thi thể, cũng không được làm việc trái với lương tâm. Trải qua một đêm chấn động như thế, lại không còn kẻ đầu têu gây chuyện, mọi người nghe Tạ Liên nói đâu còn dám hó hé gì, ai cũng nơm nớp lo sợ đáp lời, cảm giác như vừa mơ thấy một cơn ác mộng, hiện tại họ mới phát hiện, sao tối qua mình như mê muội thế kia? Nhiều người chết như vậy, cớ sao lúc đó trong đầu mình toàn nghĩ đến việc kiếm tiền? Ngoảnh đầu hồi tưởng lại, chính họ cũng cảm thấy khủng khiếp. Tối qua bọn họ ỷ thế đông người, lại còn có kẻ dẫn đầu, nên mới lơ ngơ lóng ngóng ùa theo, bây giờ trong lòng nghĩ lại mà sợ, ai nấy cũng ngoan ngoãn ăn năn cầu phúc.

    Trời còn chưa sáng, sợ rằng trong núi còn có bầy sói chờ quấy phá, Nam Phong mới vừa chạy quanh núi một vòng, hiện giờ lại phải dẫn cả đám người xuống núi. Nam Phong cũng không phàn nàn gì, còn giao hẹn với Tạ Liên lát sau cùng bàn bạc giải quyết rừng thi thể treo ngược kia.

    Sau khi tỉnh dậy, thiếu niên quấn băng lại ngồi bên cạnh thi thể của Tiểu Huỳnh, ôm nàng chẳng nói chẳng rằng. Tạ Liên ngồi kế bên cậu ta, vắt óc tìm lời cả buổi, đang định mở miệng an ủi, chợt phát hiện đầu của cậu ta đang chảy máu.

    Nếu là máu của rừng thi thể, hẳn là đã khô rồi, nhưng máu này vẫn đang chảy không ngừng, chỉ có khả năng là cậu ta bị thương. Tạ Liên lập tức nói với cậu ta: “Trên đầu ngươi có vết thương, tháo băng vải xuống đi, để ta xem giúp ngươi.”

    Thiếu niên nọ từ từ ngẩng đầu lên, nhìn y bằng cặp mắt vằn vện tơ máu, có vẻ đang luống cuống do dự. Tạ Liên mỉm cười, nói: “Đừng sợ. Nếu có vết thương nhất định phải băng bó, ta cam đoan sẽ không bị ngươi dọa.”

    Thiếu niên nọ thoáng do dự, sau đó xoay người sang chỗ khác, chậm rãi tháo từng vòng băng vải trên đầu. Động tác của cậu ta rất chậm, Tạ Liên vô cùng kiên nhẫn chờ cậu ta, trong lòng đã cân nhắc vấn đề tiếp theo: “Thiếu niên này chắc chắn không thể ở lại núi Dữ Quân, vậy cậu ta có thể đi đâu đây? Cũng không thể theo mình về thiên giới, bản thân mình cũng chỉ được ngày nào hay ngày nấy, chi bằng nghĩ cách nào ổn thỏa thu xếp cho cậu ta rồi hẵng đi. Còn nữa, Thanh Quỷ, Thích Dung…”

    Lúc này, thiếu niên nọ đã tháo xong băng vải, xoay người qua.

    Mà sau khi thấy rõ mặt cậu ta, Tạ Liên cảm giác máu toàn thân rút sạch trong nháy mắt.

    Chương 12: Quỷ áo đỏ đốt văn võ miếu

    Đúng như những gì trước đó Tạ Liên đã tưởng, trên mặt thiếu niên nọ là một mảng sẹo bỏng nghiêm trọng. Nhưng mà, dưới vết sẹo liền nhau đó, có thể loáng thoáng trông thấy ba bốn gương mặt người nho nhỏ

    Mấy gương mặt đó chỉ lớn bằng lòng bàn tay trẻ con, phân bố xiên xẹo trên mặt và trán cậu thiếu niên. Do từng bị lửa cháy, ngũ quan của gương mặt nhỏ nào cũng co rút kịch liệt, như thể đang hét lên đau đớn. Những gương mặt nhỏ quái gở trông như đang la hét đó chen chúc trên mặt người vốn dĩ bình thường của cậu ta, phải nói là khủng khiếp hơn bất cứ con quỷ nào!

    Ngay khoảnh khoắc nhìn thấy gương mặt này, Tạ Liên như rơi vào một cơn ác mộng. Nỗi sợ hãi tột độ khiến cả người y chết lặng, đến nỗi y không biết mình đứng lên từ lúc nào, và cũng không biết trên mặt mình lộ ra biểu cảm gì, nhưng chắc chắn là đáng sợ vô cùng. Thiếu niên nọ rề rà tháo băng vải xuống, vốn dĩ đã thấp thỏm lo sợ, thấy phản ứng của Tạ Liên thì thụt lùi hai bước, dường như biết rằng Tạ Liên không thể nào chấp nhận gương mặt này, cậu ta thình lình che kín gương mặt khủng khiếp của mình như để tự vệ, sau đó hét to một tiếng, bỏ chạy vào sâu trong rừng rậm.

    Bấy giờ Tạ Liên mới phục hồi tinh thần lại, nói: “Đợi đã!!!”

    Y vừa đuổi theo vừa nói: “Đợi đã! Quay về đi!”

    Nhưng dù gì Tạ Liên cũng ngẩn người một lúc lâu mới phản ứng lại, còn thiếu niên nọ nắm rõ đường lối trong núi, lại quen lẩn trốn ẩn núp trong bóng đêm, chẳng mấy chốc đã trốn biệt chẳng thấy tăm hơi, y có gọi thế nào cũng không chịu ra. Bên cạnh không có ai tìm phụ, y lại cạn kiệt pháp lực, không có cách nào thông linh truyền âm, y chạy quanh núi một lượt, thế mà tìm gần nửa canh giờ cũng không có kết quả. Gió lạnh thổi qua, Tạ Liên tỉnh táo hơn chút, biết một mình mình đi lung tung như con ruồi không đầu cũng không phải cách hay, y cố giữ bình tĩnh, nhủ thầm: “Biết đâu cậu ta sẽ trở về mang thi thể của Tiểu Huỳnh cô nương đi.” Nghĩ vậy, Tạ Liên bèn quay lại trước miếu Minh Quang, thế rồi không khỏi giật mình.

    Chỉ thấy rất nhiều người mặc áo đen đã tụ tập trong khu rừng sau miếu, ai nấy cũng mặt mày nghiêm túc, đang cẩn thận đưa hơn bốn mươi thi thể bị treo ngược kia xuống. Trước rừng cây có một bóng người cao gầy đang đứng khoanh tay giám sát, lúc ngoảnh đầu để lộ gương mặt thiếu niên thanh tú mà lạnh nhạt, chính là Phù Dao. Xem ra Phù Dao quay về thiên đình một chuyến, dẫn theo một nhóm thần quan của điện Huyền Chân xuống giúp đỡ.

    Tạ Liên đang định mở miệng, phía sau chợt vang lên bước chân, là Nam Phong đưa đám thôn dân kia xuống núi xong quay trở về. Thấy tình hình trước mắt, Nam Phong liếc nhìn Phù Dao, nói: “Chẳng phải ngươi bỏ chạy một mình sao?”

    Lời này nghe không lọt tai tí nào, Phù Dao nhướn mày tỏ vẻ không hài lòng. Tạ Liên không muốn bọn họ cự cãi trong giờ phút mấu chốt, bèn nói: “Là ta bảo cậu ta về đưa viện binh tới.”

    Nam Phong cười nhạo: “Vậy viện binh đâu? Ta còn tưởng ít nhất phải mời tướng quân nhà các ngươi đích thân xuống chứ.”

    Phù Dao thản nhiên nói: “Lúc về ta nghe nói Tiểu Bùi tướng quân đã chạy xuống nên mới không đi tìm tướng quân của chúng ta. Huống hồ cho dù ta có tìm, ngài ấy bận rộn như thế, chưa chắc có thời gian xuống đâu.”

    Nói thật, theo sự hiểu biết của Tạ Liên dành cho Mộ Tình, cho dù Mộ Tình có thời gian cũng chẳng đời nào chịu đích thân xuống đây, nhưng trước mắt y không có thời gian nghĩ nhiều, chỉ uể oải nói: “Các ngươi khoan hãy tranh cãi, giúp ta một việc trước đi, cùng nhau đi tìm thiếu niên quấn băng.”

    Nam Phong cau mày: “Mới nãy cậu ta còn ở chung với huynh trông chừng thi thể của cô gái kia mà?”

    Tạ Liên nói: “Ta bảo cậu ta tháo băng vải xuống, cậu ta bị ta dọa chạy.”

    Phù Dao nhếch khóe miệng, nói: “Không đến mức đó chứ, huynh mặc đồ nữ đâu có đáng sợ đến thế.”

    Tạ Liên thở dài: “Chỉ trách lúc đó ta ngẩn người không kịp phản ứng. Tiểu Huỳnh cô nương đã chết, vốn dĩ cậu ta đã chịu cú sốc lớn, đã vậy còn cho rằng ta bị mặt mình hù dọa, có lẽ không chịu nổi đả kích này nên bỏ chạy.”

    Phù Dao nhíu mũi: “Cậu ta thật sự xấu đến thế sao?”

    Tạ Liên nói: “Vấn đề không phải là xấu hay không xấu. Cậu ta… có dịch mặt người.”

    Nghe ba chữ kia, động tác và sắc mặt của Nam Phong lẫn Phù Dao tức thì cứng đờ.

    Cuối cùng hai người cũng hiểu tại sao lúc nãy Tạ Liên lại ngây ngẩn.

    Tám trăm năm trước, hoàng thành của Tiên Lạc cổ quốc bị một dịch bệnh càn quét, cuối cùng dẫn đến diệt quốc. Nhiễm phải dịch bệnh này, trên thân thể người bệnh trước tiên sẽ xuất hiện từng cục sưng nho nhỏ, cục sưng càng lúc càng lớn, càng ngày càng cứng, có hơi đau nhức, sau đó người ta phát hiện, cục sưng này dần dần trở nên lồi lõm, ba chỗ lõm, một chỗ lồi, trông giống như… mắt, mũi và miệng. Sau này ngũ quan ngày càng rõ ràng, cuối cùng mọc thành hình dạng tương tự mặt người. Mà nếu mặc kệ không để ý tới nó, trên người sẽ mọc càng ngày càng nhiều mặt người. Nghe đâu có loại mặt người lớn dần, đến cuối cùng rõ dáng rõ hình, còn có thể mở miệng nói chuyện, hoặc thậm chí la hét.

    Mà tên của loại dịch bệnh này, chính là dịch mặt người!

    Sắc mặt Phù Dao biến đổi liên hồi, hai tay đang khoanh cũng thả xuống, nói: “Làm sao có thể! Thứ này đã bị tiêu diệt từ mấy trăm năm trước, tuyệt đối không thể nào xuất hiện nữa.”

    Tạ Liên chỉ nói một câu: “Ta không có nhìn lầm.”

    Nam Phong và Phù Dao không có cách nào phản bác, câu mà Tạ Liên vừa nói, không ai phản bác được.

    Tạ Liên nói tiếp: “Trên mặt cậu ta còn có dấu vết từng bị lửa thiêu, có lẽ là vì muốn thiêu hủy đống mặt người hoại tử đó.”

    Người bị nhiễm dịch mặt người, thông thường phản ứng đầu tiên chính là cầm dao cắt mấy thứ kinh khủng đó xuống, hoặc dùng đuốc thiêu chết nó, cho dù cắt thịt bẻ xương cũng không tiếc. Nam Phong trầm giọng nói: “Vậy chỉ e cậu ta cũng không phải người bình thường, nhiều khả năng đã sống trên đời này mấy trăm năm. Mà khoan đã, dịch bệnh trên người cậu ta có truyền nhiễm không?”

    Tuy đầu đau như búa bổ, Tạ Liên vẫn đã bình tĩnh cân nhắc về vấn đề này, y nói bằng giọng khẳng định: “Không đâu, khả năng truyền nhiễm của dịch mặt người rất mạnh. Nếu dịch độc trên người thiếu niên đó vẫn còn truyền nhiễm được, cậu ta ẩn núp trong núi Dữ Quân lâu như thế, toàn bộ vùng này ắt đã bị cậu ta truyền nhiễm mới đúng. Dịch độc của cậu ta hẳn đã… chữa khỏi rồi, chỉ là vết sẹo lúc trước để lại không hết được.”

    Tạ Liên nói tiếp: “Trên mặt cậu ta còn có dấu vết từng bị lửa thiêu, có lẽ là vì muốn thiêu hủy đống mặt người hoại tử đó.”

    Người bị nhiễm dịch mặt người, thông thường phản ứng đầu tiên chính là cầm dao cắt mấy thứ kinh khủng đó xuống, hoặc dùng đuốc thiêu chết nó, cho dù cắt thịt bẻ xương cũng không tiếc. Nam Phong trầm giọng nói: “Vậy chỉ e cậu ta cũng không phải người bình thường, nhiều khả năng đã sống trên đời này mấy trăm năm. Mà khoan đã, dịch bệnh trên người cậu ta có truyền nhiễm không?”

    Tuy đầu đau như búa bổ, Tạ Liên vẫn đã bình tĩnh cân nhắc về vấn đề này, y nói bằng giọng khẳng định: “Không đâu, khả năng truyền nhiễm của dịch mặt người rất mạnh. Nếu dịch độc trên người thiếu niên đó vẫn còn truyền nhiễm được, cậu ta ẩn núp trong núi Dữ Quân lâu như thế, toàn bộ vùng này ắt đã bị cậu ta truyền nhiễm mới đúng. Dịch độc của cậu ta hẳn đã… chữa khỏi rồi, chỉ là vết sẹo lúc trước để lại không hết được.”

    Ba người không dám sơ suất. Phù Dao có vẻ rất có địa vị ở Huyền Chân điện, các thần quan được gọi đến lại đào ba thước đất tìm tòi một trận trong núi Dữ Quân, nhưng bất luận thế nào cũng không tìm được tung tích của thiếu niên nọ, e rằng cậu ta đã chạy ra khỏi núi Dữ Quân, biến mất trong biển người mênh mông. Xét theo tình hình trước mắt, mọi người chỉ còn cách quay về thiên giới rồi nhờ điện Linh Văn hỗ trợ tìm kiếm, yên lặng đợi tin tức. Thứ trên người thiếu niên nọ sẽ không truyền nhiễm, điểm này khiến mọi người phần nào cảm thấy may mắn, song nghĩ đến việc tướng mạo cậu ta đáng sợ như thế, sau khi xuống núi ngộ nhỡ bị phát hiện, chỉ e sẽ bị xem là quái vật hô đánh hô giết, Tạ Liên nhủ thầm vẫn phải mau chóng tìm ra cậu ta mới được.

    Không tiện tiếp tục nán lại núi Dữ Quân, Tạ Liên bế thi thể của Tiểu Huỳnh, bước từng bước một xuống núi. Do tinh thần hơi mất tập trung, đến khi chủ quán trà hét lên Tạ Liên mới phát hiện suýt nữa mình đã bế thi thể vào quán nhỏ Tương Phùng, y cuống quýt nói xin lỗi, lại trở ra ngoài nhờ người an táng rồi mới về. Sau khi giải quyết xong mọi thứ, Tạ Liên ngồi xuống, lẳng lặng thở dài.

    Chuyện này cuối cùng cũng đi đến hồi kết, mà Tạ Liên chỉ cảm thấy mấy ngày sau phi thăng này còn oải hơn một năm mình lượm đồng nát ở nhân gian ngày trước, trèo lên rồi gục xuống, vượt nóc rồi băng tường, lăn lộn rồi la hét, giả trang kiêm biểu diễn tạp kỹ, xương toàn thân sắp rã ra luôn mà vẫn còn để lại rất nhiều tai họa về sau và bí ẩn chưa giải đáp, quả thật muốn làm một tấm bảng “Phi thăng không bằng lượm đồng nát” đeo sau lưng đi chu du nhân gian.

    Phù Dao vén vạt dưới tà áo ngồi xuống cạnh Tạ Liên, rốt cục vẫn nhịn không được thực hiện động tác trợn mắt đã chuẩn bị từ lâu, nói: “Huynh còn mặc bộ đồ này làm gì?”

    Thấy Phù Dao trợn mắt, Tạ Liên thế mà lại có cảm giác thân thiết đến lạ. Bấy giờ y mới cởi bộ hỷ phục mặc suốt một đường ra, vừa lau phấn son trên mặt vừa buồn rầu nói: “Thế nãy giờ ta vẫn mặc bộ đồ này nói chuyện với Tiểu Bùi tướng quân hả? Nam Phong à, nếu vừa rồi ngươi nhắc ta một tiếng thì tốt rồi.”

    Phù Dao nói: “Chắc tại vì huynh mặc trông hớn hở quá.”

    Nam Phong chạy cả ngày, cuối cùng cũng có thể ngồi xuống nghỉ ngơi: “Khỏi cần nhắc làm chi, Tiểu Bùi tướng quân chẳng để ý huynh mặc gì đâu. Cho dù huynh ăn mặc quái dị gấp bội, hắn cũng sẽ không nhiều lời với người khác.”

    Thấy rằng tối nay đúng là cực thân tiểu thần quan này, Tạ Liên bèn rót cho Nam Phong chung trà, rồi chợt nhớ đến thái độ lạnh tanh của Tiểu Bùi tướng quân, trái ngược với trạng thái điên cuồng của Tuyên Cơ, y nói: “Vị Tiểu Bùi tướng quân này đúng là bình chân như vại, giữ bình tĩnh hay thật.”

    Nam Phong uống trà, nói: “Huynh đừng nhìn Tiểu Bùi tướng quân nhã nhặn lễ độ thế mà lầm tưởng, hắn giống hệt tổ tiên của hắn đấy, cả hai đều khó đối phó.”

    Điểm này tất nhiên Tạ Liên nhìn ra được. Phù Dao cũng tán thành ý kiến này, nói: “Bùi Túc là tân quý* tốn gần hai trăm năm mới phi thăng được, dù vậy thế lực rất mạnh, leo lên rất nhanh. Lúc được Bùi tướng quân điểm mặt, hắn chỉ mới hai mươi tuổi, huynh biết lúc đó hắn đã làm gì không?”

    *Tân quý: kiểu như quan mới, vip mới nổi, nói chung là người mới ấy =)) Dạo trước tui toàn thay thẳng “người mới” mà câu này để vậy sẽ lặp từ nên để tân quý =))

    Tạ Liên nói: “Làm gì?”
    Phù Dao lạnh lùng phun ra hai chữ: “Đồ thành.”

    *Đồ thành: giết hàng loạt dân trong thành.

    Nghe vậy, Tạ Liên ra chiều đăm chiêu, nhưng cũng không cảm thấy bất ngờ. Trong Thượng thiên đình, đế vương khanh tướng đi đầy đất, mà chuyện đấu tranh giành thiên hạ và giữ vững giang sơn, bởi vì cái gọi là nhất tướng công thành vạn cốt khô*, muốn thành thần tiên, trước tiên phải thành nhân kiệt (người tài kiệt xuất). Đôi chân nhân kiệt, toàn giẫm trên đường máu mà đi. Phù Dao tổng kết: “Trong Thượng thiên đình, chẳng có mấy người dễ đối phó, không thể tin được ai.”

    *Nhất tướng công thành vạn cốt khô: Mỗi một vị tướng khi thành công đều phải trả giá bằng cả vạn bộ xương binh lính chết khô/ Vinh quang của bậc vua chúa cũng đều phải trả giá bằng sinh mạng của hàng vạn dân thường. (Theo Wiki)

    Nghe giọng điệu như người từng trải khuyên răn con cháu của Phù Dao, Tạ Liên không khỏi buồn cười, phỏng đoán liệu có phải Phù Dao từng bị ức hiếp ở Thượng thiên đình, cảm xúc dào dạt quá nên mới nói thế không. Có điều bản thân y cũng tự biết, mặc dù mình phi thăng ba lần, nhưng lần nào thời gian ở thiên giới cũng ngắn như phù dung sớm nở tối tàn, thoáng qua rồi biến mất, nếu bàn về độ thấu hiểu đối với chúng thần tiên, đúng là y chưa chắc hơn được hai tiểu thần quan này. Nam Phong có vẻ cực kỳ không đồng ý cách nói của Phù Dao: “Ngươi đừng có buông lời hù dọa, ở đâu cũng có tốt và xấu, trong thiên giới vẫn có không ít thần quan đáng tin cậy.”

    Phù Dao lại nói: “Ha ha, thần quan đáng tin cậy, ngươi muốn nói tướng quân nhà ngươi hả?”

    Nam Phong nói: “Có phải tướng quân nhà ta không thì ta không biết, tóm lại chắc chắn không phải tướng quân nhà ngươi.”

    Đối mặt với tình huống này, Tạ Liên đã tập mãi thành quen, không lấy gì làm lạ, cộng thêm trong lòng có chuyện, ngay cả ngăn cản cũng chẳng còn sức.

    Bên phía Bắc xong chuyện, quay trở lại Thiên giới, trước tiên Tạ Liên đến điện Linh Văn, kể lại chuyện thiếu niên quấn băng, nhờ Linh Văn giăng lưới tìm người ở nhân gian. Nghe xong, sắc mặt Linh Văn cũng đanh lại, nàng nhận lời, cuối cùng nói: “Điện Linh Văn nhất định sẽ dốc hết sức tìm kiếm. Có điều thật sự không ngờ, một chuyến hành trình đến phương Bắc lại dính dáng đến nhiều chuyện như thế. Lần này đúng là vất vả cho điện hạ rồi.”

    Tạ Liên nói: “Lần này còn phải cảm ơn hai tiểu thần quan tự nguyện xuống giúp đỡ, cả Tiểu Bùi tướng quân của điện Minh Quang nữa. Quả thật không biết nên cảm ơn thế nào.”

    Linh Văn nói: “Nếu đã là tai họa do một đoạn nghiệt duyên của lão Bùi gây nên, hiển nhiên Tiểu Bùi phải đi dọn dẹp thôi. Hắn cũng dọn dẹp quen rồi, không cần cảm ơn đâu. Nếu lát nữa điện hạ có thời gian, phiền điện hạ vào Thông Linh trận một lát, mọi người còn muốn tập họp thảo luận chuyện lần này.”

    Tạ Liên cũng có rất nhiều thắc mắc chưa được giải đáp, ra khỏi điện Linh Văn, y lượn tới lượn lui, tìm một cầu đá nhỏ. Cầu đá bắc ngang dòng nước chảy róc rách, nước sông trong vắt như pha lê, đến mức có thể nhìn thấy mây mù lềnh bềnh dưới đáy nước, thậm chí còn có thể thấy núi non nhấp nhô lên xuống và thành trấn vuông vắn ngay ngắn dưới trần gian xuyên qua dòng nước và mây mù. Tạ Liên nghĩ thầm: “Đây là chỗ tốt.” Sau đó ngồi xuống ở đầu cầu, lẩm nhẩm khẩu lệnh, vào trận.

    Vào rồi mới thấy Thông Linh trận của Thượng thiên đình quả là náo nhiệt một cách hiếm có, đông đảo âm thanh bay tới bay lui trong trận, loạn thành một đống. Giọng đầu tiên nghe được chính là tiếng mắng của Phong Tín: “Mẹ nó! Các ngươi chọn được đày dưới núi nào chưa?! Nữ quỷ Tuyên Cơ đó là kẻ điên, bất luận hỏi ả cái gì, ả cũng la lối đòi gặp Bùi tướng quân, từ đầu đến cuối không chịu nói Thanh Quỷ Thích Dung ở đâu!”

    Tiểu Bùi tướng quân lên tiếng: “Tính tình của Tuyên Cơ tướng quân vẫn luôn quật cường quyết liệt như thế.”

    Giọng của Phong Tín nghe hết sức nóng giận: “Tiểu Bùi tướng quân, Bùi tướng quân của các ngươi trở về chưa? Mau cho ả gặp một lần đi, hỏi ra tung tích của Thanh Quỷ Thích Dung rồi mau lôi ả đi!”

    Phong Tín dở nhất là đối phó với phụ nữ, thế mà lại giao cho hắn việc thẩm vấn này, Tạ Liên không khỏi cảm thông. Tiểu Bùi tướng quân nói: “Gặp cũng vô dụng, gặp càng điên hơn.”

    Một giọng khác nói: “Lại là rừng thi thể treo ngược… phẩm vị của Thích Dung bao giờ cũng thấp kém và khiến người ta khó chịu như thế.”

    “Ngay cả quỷ giới cũng chê gã phẩm vị thấp kém, đủ thấy quả là thấp kém cực kỳ.”

    Các vị thần quan trao đổi thoải mái, có thể thấy đôi bên rất thân quen. Với tư cách là người mới từng phi thăng tám trăm năm trước, Tạ Liên vốn nên ngồi yên không nói gì, nhưng nghe một hồi lâu, cuối cùng y vẫn nhịn không được chen vào một câu: “Chư vị, rừng thi thể treo ngược trong núi Dữ Quân là chuyện gì thế? Thanh Quỷ Thích Dung cũng ở gần đó sao?”

    Bởi vì Tạ Liên ít khi lên tiếng trong Thông Linh trận, giọng y nghe hơi lạ, chúng thần quan không biết có nên tiếp lời hay không, người đầu tiên trả lời y thế mà lại là Phong Tín: “Thanh Quỷ Thích Dung không ở tại núi Dữ Quân. Nhưng mà, rừng thi thể treo ngược kia là nữ quỷ Tuyên Cơ dâng cho gã theo yêu cầu của gã.”

    Tạ Liên hỏi: “Tuyên Cơ là thuộc hạ của Thanh Quỷ?”

    Tiểu Bùi tướng quân đáp: “Đúng thế. Tuyên Cơ tướng quân chết đã mấy trăm năm, lúc trước tuy có oán niệm nhưng không đủ sức nổi gió làm loạn, mãi đến hơn trăm năm trước bị Thanh Quỷ Thích Dung chọn trúng, Thanh Quỷ vô cùng coi trọng ả, thu nạp ả làm thuộc hạ, nhờ vậy pháp lực mới tăng vọt.”

    Thật ra ý của Tiểu Bùi tướng quân chính là, nữ quỷ Tuyên Cơ làm loạn không thể trách Bùi tướng quân, vì ả vốn không có bản lĩnh lớn như thế. Muốn trách thì trách Thanh Quỷ Thích Dung, là gã thu nạp Tuyên Cơ mới khiến ả có năng lực ra ngoài hại người. Vốn dĩ trong lòng chư vị thần quan đều cho rằng chuyện này thật ra là nghiệt do Bùi tướng quân tự tạo, chỉ không nói rõ ra thôi, nào ngờ lại bị Tiểu Bùi tướng quân phát hiện, một câu nhắc nhở không nặng không nhẹ bắt đúng ngay thóp, lập tức ẩn giấu tâm tư của mình càng sâu trong lời nói. Tạ Liên hỏi tiếp: “Vậy trong núi Dữ Quân đã tra triệt để chưa? Hẳn là còn một linh hồn trẻ con nữa.”

    Lần này, giọng Mộ Tình vang lên, không nóng cũng không lạnh: “Linh hồn trẻ con? Linh hồn trẻ con gì?”

    Tạ Liên nhủ thầm, chắc là Phù Dao chưa kể rõ chi tiết với Mộ Tình, nói không chừng ngay cả đi ra giúp mình cũng giấu diếm Mộ Tình, thôi không nhắc đến Phù Dao, đỡ mắc công gây thêm phiền phức cho cậu ta. Tạ Liên nói: “Lúc ngồi trên kiệu ta từng nghe được tiếng cười đùa của một đứa trẻ, dùng bài ca dao nhắc nhở ta. Lúc đó bên cạnh ta còn có hai tiểu Võ Quan của điện Võ Thần, nhưng bọn họ lại không hề phát hiện, xem ra pháp lực của linh hồn trẻ con này cũng cao lắm.”

    Mộ Tình nói: “Trong núi Dữ Quân không tra được bất cứ linh hồn trẻ con nào.”

    Tạ Liên không khỏi thấy khó hiểu, chẳng lẽ linh hồn trẻ con đó chỉ đến nhắc riêng mình? Nghĩ tới đây, y bỗng nhớ ra việc mình khắc ghi suốt một đường, bèn hỏi: “À còn nữa, lần này trong núi Dữ Quân, ta gặp được một thiếu niên có thể điều khiển bướm bạc. Chư vị có biết thiếu niên này là ai không?”

    Câu này của y vừa thốt ra, Thông Linh trận vốn đang ồn như vỡ chợ bỗng nhiên lặng ngắt như tờ.

    Phản ứng kiểu này, Tạ Liên đã đoán được từ sớm, y cũng kiên nhẫn chờ đợi, hồi lâu sau, Linh Văn mới hỏi: “Thái tử điện hạ, ngươi vừa nói cái gì?”

    Mộ Tình lạnh lùng nói: “Y vừa nói, y gặp được Hoa Thành.”

    Cuối cùng cũng biết tên của thiếu niên áo đỏ kia, chẳng hiểu sao Tạ Liên lại thấy tâm trạng không sai, y cười nói: “Thì ra cậu ấy tên Hoa Thành? Ừm, tên này cũng hợp với cậu ấy lắm.”

    Nghe giọng điệu và cách nói của y, chư vị thần quan trong Thông Linh trận đều có chút á khẩu. Lát sau, Linh Văn ho nhẹ một tiếng, nói: “Khụ… Thái tử điện hạ, ngươi có từng nghe cái gọi là Tứ đại hại chưa?” (Bốn mối họa lớn)

    Tạ Liên nghĩ bụng: “Ngại quá, ta chỉ biết Tứ danh cảnh thôi.” (Bốn cảnh đẹp)

    Cái gọi là Tứ danh cảnh, chính là bốn giai thoại được người đời ca tụng của bốn vị thần quan Thượng thiên đình trước khi phi thăng — Thiếu Quân Khuynh Tửu, Thái Tử Duyệt Thần, Tướng Quân Chiết Kiếm, Công Chúa Tự Vẫn. Trong số đó, “Thái Tử Duyệt Thần” ý chỉ Thái tử Tiên Lạc một thoáng kinh hồng trên đường Thần Võ. Có thể xếp trong Tứ cảnh, không nhất thiết phải là thần quan có pháp lực mạnh nhất, chẳng qua là vì truyền thuyết này của họ được truyền bá phổ biến nhất, trở thành đề tài cho người dân bàn luận hăng say. Đối với những dạng tin tức thế này của thế giới bên ngoài, Tạ Liên bao giờ cũng phản ứng chậm rì, nói y quê mùa nông cạn cũng còn được, có điều dù gì cũng là một cảnh trong số đó, cho nên y mới hiểu được đôi chút.Còn “Tứ đại hại” này, có lẽ là cách nói thật lâu về sau mới thịnh hành, Tạ Liên chưa từng nghe thấy. Đã dùng chữ “Hại”, ắt hẳn không phải thứ gì tốt. Tạ Liên nói: “Ngại quá, ta chưa nghe bao giờ. Xin hỏi là Tứ đại hại nào?”

    *Tạm dịch Thiếu Quân Khuynh Tửu = Thiếu quân đổ rượu, Tướng Quân Chiết Kiếm = Tướng quân bẻ kiếm, Công Chúa Tự Vẫn = Công chúa tự sát. Thái tử Duyệt Thần mọi người hiểu rồi ha (ai chưa hiểu coi lại chương 1). Từ “Thiếu quân” có nhiều nghĩa, mà trước mắt chưa biết Thiếu quân nói về người nào nên tui tạm khoan giải thích, khi nào Thiếu quân xuất hiện sẽ giải thích từ này sau.

    *Tiện thể nhắc lại: Một thoáng kinh hồng (惊鸿一瞥): ý chỉ những người hay sự vật, chỉ cần thoáng nhìn một cái thôi đã để lại trong lòng những ấn tượng mãnh mẽ, khó phai.

    Mộ Tình lạnh nhạt đáp: “Thái tử điện hạ ở nhân gian tôi luyện mấy trăm năm, vậy mà nguồn tin lại tắc nghẽn như thế, thật sự khiến người ta tò mò rốt cuộc ngươi làm gì dưới đó nhỉ.”

    Tất nhiên là ăn ngủ mãi nghệ lượm đồng nát rồi. Tạ Liên cười nói: “Làm người chứ gì nữa, chuyện để bận thì nhiều lắm, lại còn rất phức tạp, không dễ hơn làm thần quan đâu.”

    Linh Văn nói: “Tứ đại hại ấy à, xin điện hạ nhớ kỹ, chính là Hắc Thủy Trầm Chu, Thanh Đăng Dạ Du, Bạch Y Họa Thế, Huyết Vũ Thám Hoa. Ý chỉ bốn hỗn thế ma vương của quỷ giới khiến Thượng thiên đình lẫn Trung thiên đình đau đầu vô cùng.”

    *Tạm dịch: Hắc Thủy Trầm Chu = Nước đen dìm thuyền, Thanh Đăng Dạ Du = Đèn xanh đi trong đêm, Bạch Y Họa Thế = Áo trắng hại đời, Huyết Vũ Thám Hoa = Che chở hoa dưới mưa máu.

    Người, đi lên, thành thần; đi xuống, thành quỷ.

    Chúng thần tiên sáng lập thiên giới làm chốn cư ngụ, tách rời mình khỏi nhân giới, từ trên nhìn xuống quan sát phàm thế, ngự trị trên chúng sinh. Mà cái gọi là quỷ giới lại chưa tách khỏi nhân gian, yêu ma quỷ quái và loài người cùng hưởng dụng chung một vùng đất, có thứ ẩn núp trong bóng tối, có thứ ngụy trang thành con người, trà trộn trong chúng dân, lang thang ở nhân gian.

    Linh Văn tiếp tục nói: “Hắc Thủy Trầm Chu, ý nói một con quỷ nước lớn. Tuy rằng đã đạt mức Tuyệt, nhưng hắn ít khi ra ngoài gây sự, vô cùng thầm lặng, trước giờ chẳng mấy ai từng gặp qua, tạm thời mặc kệ hắn.”

    “Thanh Đăng Dạ Du, ý chỉ Thanh Quỷ Thích Dung phẩm vị thấp kém có sở thích treo ngược rừng thi thể của chúng ta. Tuy nhiên, gã là kẻ duy nhất chưa đạt mức Tuyệt trong số Tứ đại hại, thế vì sao gã lại có mặt trong đây? Có lẽ vì gã quanh năm gây sự, phiền ơi là phiền, cũng có thể đơn giản là vì thêm gã vừa đủ bốn người dễ nhớ hơn, tạm thời không đề cập.”

    “Bạch Y Họa Thế, vị này, hẳn là Thái tử điện hạ khá quen mặt. Hắn có một cái tên, là Bạch Vô Tướng.”

    Nghe đến tên này, Tạ Liên ngồi ở đầu cầu đá bỗng cảm nhận được một cơn quặn đau truyền từ tim sang tứ chi bách hài (bốn chi trăm xương), mu bàn tay khẽ run rẩy, vô thức siết thành nắm đấm.

    Dĩ nhiên y quen mặt rồi.

    Ai cũng nói “Tuyệt” vừa ra đời, tất sẽ hại nước loạn thế. Mà vị Bạch Vô Tướng này vừa ra đời, nước đầu tiên hắn diệt, chính là nước Tiên Lạc.

    Tạ Liên im lặng không đáp. Linh Văn nói tiếp: “Có điều, Bạch Vô Tướng đã bị diệt, tạm thời không đề cập. Cho dù hắn còn tồn tại trên đời, chỉ sợ bây giờ không tới lượt hắn tới chiếm danh tiếng.”

    “Thái tử điện hạ, bướm bạc mà ngươi nhìn thấy ở núi Dữ Quân, gọi là bướm Tử Linh. Chủ nhân của nó, chính là vị cuối cùng trong số bốn vị này, cũng là vị mà hiện nay thiên giới không muốn chọc vào nhất, Huyết Vũ Thám Hoa, Hoa Thành.”

    Trong thiên giới, xứng với danh “tiếng tăm lừng lẫy”, chắc chắn là Thần Võ Đại Đế và Thái tử Tiên Lạc. Tuy rằng hai người mang ý nghĩa hoàn toàn trái ngược, nhưng mức độ như sấm bên tai về cơ bản không chênh lệch mấy. Mà ở quỷ giới, muốn tìm một vị “tiếng tăm lừng lẫy” ngang sức ngang tài với bọn họ, ngoài Hoa Thành ra, không còn ai khác.

    Nếu muốn hiểu rõ một vị thần quan, chỉ cần dạo trên đường một lát, tìm một miếu thần đi vào, nhìn tượng thần mặc quần áo gì, cầm pháp khí gì, là có thể hiểu được đại khái. Nếu muốn hiểu nhiều hơn thì nghe thêm chút chuyện thần thoại truyền miệng hay truyền kỳ diễn nghĩa, hoặc khi làm người các thần quan đóng thân phận gì, đã làm những việc gì, tất cả gần như đã bị khai thác hết. Còn yêu ma quỷ quái thì không, khi làm người rốt cuộc chúng nó là hạng người gì, bây giờ lại trông như thế nào, hầu như đều là bí ẩn.

    Cái tên Hoa Thành này, nhất định là giả, tướng mạo cũng chắc chắn là giả. Bởi vì Hoa Thành trong truyền thuyết, lúc thì là một thiếu niên trái tính trái nết vui giận thất thường, lúc thì là một mỹ nam tử dịu dàng phong độ, lúc thì là một nữ quỷ kiều diễm lòng dạ ác độc, muốn nói kiểu nào cũng có. Về bản tôn của hắn, thông tin xác thực duy nhất chỉ có hắn mặc một thân áo đỏ, thường xuất hiện cùng mưa máu gió tanh, bướm bạc đuổi theo vạt áo và tay áo của hắn.

    *Bản tôn: là cách những nhân vật thần thông quảng đại trong thần thoại tự xưng mình, ở đây có thể hiểu là thân phận đích thực đó.

    Về phần xuất thân của Hoa Thành, càng có vô số phiên bản. Có người nói hắn là kẻ dị dạng, trời sinh thiếu một mắt phải, thế nên từ nhỏ nếm đủ ức hiếp, căm hận nhân thế. Có người nói hắn là một tướng sĩ thiếu niên, chết trận vì tổ quốc, vong hồn không cam tâm. Cũng có người nói hắn là một kẻ ngốc đau khổ vì người yêu qua đời; có người còn nói hắn là quái vật. Phiên bản ly kỳ nhất, nghe nói — chỉ là nghe nói thôi. Nghe nói, thật ra Hoa Thành là một thần quan phi thăng. Chỉ là sau khi phi thăng, chính hắn tự mình nhảy xuống, sa đọa làm quỷ. Có điều đây chỉ là một truyền thuyết không lưu hành rộng rãi, thật giả chưa biết, người tin cũng không nhiều. Nói trở lại, cho dù là thật, thì cũng là giả. Bởi vì trên đời nào có người bỏ thần tiên không làm, thà rằng nhảy xuống làm quỷ, với thiên giới mà nói, chuyện này thật sự quá mất thể diện. Nói tóm lại, cách nói càng đa dạng, sương mù càng dày đặc.

    Thần quan các nơi kiêng kỵ Hoa Thành một cách đặc biệt, có rất nhiều nguyên nhân. Ví dụ như, tính tình hắn biến đổi thất thường, khi thì thích giết chóc tàn nhẫn, khi thì làm những việc thiện lạ thường. Rồi ví dụ như, hắn có thế lực khổng lồ ở nhân gian, tín đồ vô số.

    Đúng thế, mọi người bái thần, cầu xin phù hộ, tránh bị yêu ma quỷ quái xâm nhập, nhờ vậy các thần quan mới có nhiều tín đồ. Nhưng một con quỷ như Hoa Thành, thế mà cũng có số lượng tín đồ khổng lồ ở nhân gian, gần như đạt đến cảnh một tay che trời.

    Nói đến đây, cần phải nhắc tới chuyện này. Lúc vừa ló đầu, Hoa Thành đã làm một việc cực nổi tiếng.

    Hắn ngang nhiên ước chiến với ba mươi lăm vị thần quan trên Thượng thiên đình. Nội dung ước chiến là, đấu pháp luận võ với Võ Thần, luận pháp vấn đạo với Văn Thần.

    Trong số ba mươi lăm vị thần quan, có ba mươi ba thần quan cảm thấy hết sức nực cười, nhưng cả đám đều bị sự khiêu khích của hắn chọc giận, chấp nhận lời khiêu chiến, chuẩn bị chung tay dạy hắn làm quỷ.

    Đầu tiên tỷ thí với hắn, là Võ Thần.

    Võ Thần là hệ thần mạnh nhất thiên giới, hầu như ai nấy cũng đông đúc tín đồ, pháp lực cao cường, đối mặt với một con quỷ nhỏ vừa ra đời, có thể nói là nắm chắc thắng lợi. Nào ngờ sau một trận chiến, toàn quân bị diệt, ngay cả thần binh cũng bị một thanh loan đao (đao cong) quỷ dị cực độ của Hoa Thành đánh cho tan tác!

    Đánh xong mới biết, Hoa Thành đi ra từ núi Đồng Lô.

    Núi Đồng Lô là một ngọn núi lửa, nhưng điều này không quan trọng, quan trọng là trong núi có một tòa thành, gọi là Cổ thành (Cổ = sâu độc). Cổ thành không phải tòa thành mà người người nuôi cổ, tòa thành đó, bản thân nó chính là một cổ độc cỡ lớn.

    Cứ cách một trăm năm, vạn quỷ lại tụ hội ở đây chém giết, giết đến khi cuối cùng chỉ còn một con quỷ. Tuy rằng kết quả thường là không còn con nào sống sót, nhưng chỉ cần có một con ra được, vậy nhất định sẽ là một hỗn thế ma vương. Mấy trăm năm qua, trong Cổ thành chỉ có hai con quỷ ra được, mà hai con này, quả nhiên đã trở thành Quỷ vương nổi tiếng khắp nhân gian.

    Hoa Thành là một trong số đó.

    Võ Thần bị đánh cho thua sấp mặt, sau đó đến lượt Văn Thần.

    Đánh nhau đánh không lại, vậy luận chiến chắc thắng được ha? (luận chiến = tranh luận)

    Vừa khéo, đúng là thắng không được. Hoa Thành lên trời xuống đất đạo cổ luận kim (bàn luận về xưa và nay), khi thì nhã nhặn, khi thì ác độc, khi thì cương quyết, khi thì thấu triệt, khi thì quỷ biện (ngụy biện cãi bướng), quả là miệng lưỡi sắc bén trôi chảy trót lọt, dẫn chứng phong phú yêu ngôn hoặc chúng (nói lời hoang đường mê hoặc người khác). Bị hắn mắng từ trên trời xuống dưới đất, mắng từ ngày xưa đến ngày nay, mấy vị Văn Thần giận đến mức phun thẳng một búng máu lên trời.

    Hoa Thành, đánh một trận thành danh.

    Tuy nhiên nếu chỉ có vậy, hắn vẫn chưa đủ được xưng là đáng sợ. Đáng sợ chính là, sau khi giành được thắng lợi, hắn yêu cầu ba mươi ba vị thần quan thực hiện lời hứa.

    Trước khi khiêu chiến, hai bên đã ra ước định: nếu Hoa Thành bại trận, dâng tro cốt. Nếu thần quan bại trận, tất cả phải tự nhảy khỏi thiên giới, từ nay trở đi làm người phàm. Nếu không phải thái độ của hắn ngông cuồng, tiền cược quyết tuyệt, ba mươi ba thần quan lại tin chắc mình không thể nào thua cuộc, bọn họ đã chẳng đồng ý đấu pháp luận chiến với hắn.

    Nhưng mà, không một vị thần quan nào chủ động thực hiện lời hứa. Dù rằng thất hứa mất mặt thật đấy, nhưng nghĩ đi nghĩ lại, có ba mươi ba thần quan thua lận mà, một người mất mặt thì mất mặt thật, nhưng nếu nhiều người như thế cùng mất mặt, vậy thì chẳng mất mặt tí nào, thậm chí còn có thể cùng cười nhạo đối phương. Cho nên bọn họ đạt thành hiệp ước ngầm, lòng hiểu nhưng miệng không nói, vờ như chuyện này chưa từng xảy ra. Suy cho cùng người đời hay quên lắm, qua thêm năm mươi năm, biết đâu chẳng còn nhớ nữa.

    Điểm này, bọn họ cũng không tính sai. Điều mà bọn họ tính sai là, Hoa Thành không dễ đối phó như thế.

    Không làm chứ gì? Được thôi, vậy để giúp một tay.

    Vì thế, hắn đốt sạch đạo quán miếu thờ của ba mươi ba vị thần quan này ở nhân gian chỉ bằng một mồi lửa.

    Đây cũng chính là cơn ác mộng mà bây giờ chúng thần tiên hễ nhắc đến là biến sắc — Quỷ áo đỏ đốt miếu thần của ba mươi ba quan Văn Võ.

    Đạo quán và tín đồ là nguồn pháp lực lớn nhất của thần quan, điện thờ không còn, tín đồ biết đến đâu bái thần? Lấy đâu ra nhang đèn? Nguyên khí tổn thương nặng nề, muốn lập điện lần nữa, chí ít cũng phải hơn một trăm năm, lại còn chưa chắc có thể khôi phục quy mô ngày trước. Đối với thần quan mà nói, việc này quả thật còn thảm họa hơn độ kiếp thất bại. Trong số những thần quan này, lớn có khoảng hơn một ngàn đạo quán, nhỏ cũng có hơn trăm, cộng dồn lại hơn chục ngàn, Hoa Thành thế mà lại đốt sạch chỉ trong một đêm. Không ai biết hắn làm bằng cách nào, nhưng hắn cứ làm được thôi.

    Quả thật là rồ dại.

    Đám thần quan khóc lóc kể lể với Quân Ngô, nhưng Quân Ngô cũng đành chịu, không có cách nào hơn. Lúc trước khiêu chiến là đám thần quan tự nhận lời, hứa hẹn cũng là bọn họ tự đồng ý, Hoa Thành lại vô cùng xảo quyệt, chỉ hủy miếu chứ không hại người, chẳng khác gì đào cái hố, hỏi bọn họ có nhảy xuống hay không, mà bọn họ tự đào cho hố lớn ra mới chịu nhảy, chuyện đến nước này, còn làm gì được nữa.

    Ban đầu ba mươi ba thần quan kia định đánh bại con quỷ nhỏ ngông cuồng này trước mặt người trong thiên hạ, vì vậy mới chọn nơi đấu võ luận chiến là trong giấc mơ của nhiều vương công quý tộc ở nhân gian, nhằm mục đích thể hiện thần uy trước mặt các đại các tín đồ, ai ngờ điều mà các vương công quý tộc nhìn thấy lại là dáng vẻ bọn họ bị đánh cho sấp mặt. Thế nên sau khi tỉnh mộng, không ít quý tộc ngừng bái quan trời, đổi sang bái quỷ. Mất đi tín đồ và đạo quán, ba mươi ba vị thần quan kia từ từ mai danh ẩn tích, mãi đến khi một thế hệ thần quan mới phi thăng, nhiều chỗ trống mới được lấp đầy.

    Từ đó trở đi, rất nhiều thần quan thiên giới nhắc đến tên “Hoa Thành” là kinh hoàng khiếp đảm, thậm chí nghe thấy áo đỏ với bướm bạc là sởn hết gai ốc. Có người sợ chọc tới hắn, nhỡ hắn mất hứng chạy tới khiêu chiến, rồi lại đốt trụi miếu thờ bằng một mồi lửa; có người bị hắn nắm thóp, không dám làm gì; có người lại vì Hoa Thành một tay che trời ở nhân gian, thỉnh thoảng một ít thần quan muốn làm việc còn phải cầu cạnh hắn, xin hắn mở đường. Dần dà cứ thế, xuất phát từ một loại tâm lý kỳ dị, một số thần quan cũng phần nào bái phục hắn.

    Chính vì lẽ đó, đối với vị Hoa Thành này, thiên giới quả là vừa hận vừa sợ vừa kính.

    Mà trong số ba mươi lăm vị thần quan, có hai Võ Thần không nhận lời khiêu chiến, chính là Huyền Chân tướng quân Mộ Tình, và Nam Dương tướng quân Phong Tín.

    Lúc trước hai người họ không nhận lời khiêu chiến, tuyệt nhiên không phải vì sợ Hoa Thành, chỉ là lúc đó hoàn toàn không coi Hoa Thành ra gì, cảm thấy mình không cần để ý đến loại khiêu chiến này, không rảnh quan tâm, ai ngờ thế mà lại chó ngáp phải ruồi. Nhưng cho dù không nghênh chiến, Hoa Thành vẫn chưa quên hai người họ, nhiều lần tết Trung Nguyên (rằm tháng 7) ra ngoài đi tuần, hai bên chạm mặt, đánh nhau mấy trận từ xa, Mộ Tình và Phong Tín đều bị ám ảnh sâu sắc bởi lũ bướm bạc tàn sát điên cuồng kia.

    Nghe đến đó, trong đầu Tạ Liên lại toàn là dáng vẻ vui thích của bướm bạc trong suốt đáng yêu bay quanh người mình, làm thế nào cũng không thể đối chiếu chúng nó với hình tượng trong lời đồn, y nhịn không được nghĩ thầm: “Con bướm bạc nho nhỏ đó kinh khủng đến thế sao? Cũng thường thôi… đáng yêu lắm mà.”

    Chương 13: Áo đỏ hơn lá phong, da trắng như tuyết

    Tất nhiên, loại suy nghĩ này Tạ Liên không thể nói ra rồi. Nhưng mà, giờ y đã hiểu vì sao khi nhắc tới bướm bạc, Nam Phong và Phù Dao lại biến sắc rồi. Bởi vì bọn họ đi theo hầu hạ hai vị thần quan đã từng nếm múi đau khổ từ chủ nhân bướm bạc nha.

    Một thần quan nói: “Thái tử điện hạ, ngươi từng gặp Hoa Thành, hắn hắn hắn… hắn có làm gì ngươi không?”

    Giọng điệu này hệt như đang hỏi y là “ngươi bây giờ thiếu tay hay thiếu chân” vậy.

    Tạ Liên đáp: “Cũng không làm gì, chỉ là…”

    Nói tới đây, y bỗng dưng không biết nên nói gì, tự hỏi bản thân: “Chỉ là cái gì? Chẳng lẽ nói hắn chỉ cướp kiệu hoa, rồi một đường nắm tay ta?”

    Im lặng một lát, Tạ Liên đành phải nói: “Chỉ là phá hủy mê trận của nữ quỷ Tuyên Cơ ở núi Dữ Quân, sau đó đưa ta vào thôi.”

    Các vị thần quan giống như đang nghi ngờ phạm nhân, trầm ngâm không nói. Sau nửa ngày mới có một vị hỏi: “Chư vị, các vị thấy thế nào?”

    Chỉ nghe giọng nói, Tạ Liên đã có thể tưởng tượng được bộ dáng lắc đầu bó tay của các vị thần quan:

    “Không thấy sao hết. Ta chẳng thấy gì hết.”

    “Không biết hắn định làm gì, nhưng thật sự khiến người ta lo sợ.”

    “Đến cùng thì Hoa Thành muốn làm gì, ai mà hiểu được…”

    Tuy rằng mới được phổ cập kiến thức rằng Hoa Thành mà một hỗn thế ma vương, nhưng mà đối với người này, y không hề thấy đáng sợ chút nào. Thực tình mà nói, y cảm thấy như thể Hoa Thành đang muốn giúp y. Nói tóm lại, giờ chỉ cần quay về Thiên giới nhận công đức của các đại tín đồ là xong, đại khái nhiệm vụ hoàn thành rồi.

    Như trước kia đã bàn, công đức tạ thần ở núi Dữ Quân lần này đều cho y hết. Tuy rằng lão quan kia rất đau buồn vì cái chết của con gái, lâu lâu mới nhớ ra việc phải trả lễ nhưng rồi cũng ôm theo đau thương làm lễ tạ thần. Mặc dù đã ăn bớt chút công đức, nhưng bảy gom tám góp, đủ loại phong thủy cũng gần đủ tám trăm tám mươi tám vạn công đức rồi. Sau khi trả nợ xong, trong lòng Tạ Liên vô cùng nhẹ nhõm, cảm thấy khoan khoái dễ chịu, tinh thần phơi phới, y quyết định an an ổn ổn làm thần. Tốt nhất là có thể kết bạn với các vị thần quan.

    Thông Linh trận của Thượng Thiên đình ngày thường khá yên tĩnh, nhưng nếu có việc thì sẽ náo nhiệt mấy ngày liền. Thông thường, các vị thần quan nếu tâm trạng tốt, hoặc là xem được cái gì hay ho thì đều vào trong trận chia sẻ, biết điểm dừng mà trêu chọc nhau vài câu. Tuy rằng Tạ Liên không rõ ai với ai, nhưng y cũng yên lặng lẳng nghe. Nhưng mà, y cũng không thể cứ im lặng như vậy mãi được, cho nên, khi đã lắng nghe đủ lâu, y sẽ ngẫu nhiên ôn hòa nói một câu:

    “Thật là thú vị nha.”

    “Ta đọc được một bài thơ rất hay, muốn chia sẻ cùng chư vị.”

    “Ta muốn chia sẻ cho các vị một bí quyết trị bệnh eo chân nhức mỏi vô cùng hiệu quả.”

    Làm người khác tiếc nuối nhất là, mỗi lần y nói những… việc vừa tốt cho thể xác lẫn tinh thần mà y chọn lựa kĩ càng kia, mọi người trong Thông Linh trận đều im bặt. Mãi về sau, Linh Văn không nhịn được nữa, nói nhỏ với y: “Điện hạ, tuy rằng ngươi nói chuyện trong Thông Linh trận là rất tốt, nhưng mà, cho dù thần quan hơn ngươi trăm tuổi cũng không nói mấy chuyện kiểu này đâu.”

    Tạ Liên thấy hơn buồn bực. Thật ra y cũng đâu phải người lớn tuổi nhất, nhưng tại sao so với các thần quan khác, y lại giống như người già không theo kịp sở thích của lớp trẻ vậy? Chắc là do y rời khỏi Thiên giới quá lâu, kiến thức hạn hẹp, lại không quan tâm tới việc xảy ra bên ngoài. Giờ cũng chẳng còn cách nào, y đành từ bỏ việc này, cũng không thấy buồn bực nữa.

    Nhưng còn một việc: dưới nhân giới giờ chẳng còn ai xây một đạo quán vì y cả. Có thể có, nhưng dù sao Thiên giới không tra ra được, cũng không ghi vào danh sách. Phải nói là thổ địa tốt xấu cũng có một nhà thờ, còn y thân là thần quan phi thăng, phi thăng tận ba lượt, vậy mà một đạo quán cũng chẳng có, tín đồ cũng không. Thiệt tình xấu hổ quá đi mất.

    Nhưng mà, cho dù thần quan khác có xấu hổ thay y, bản thân Tạ Liên thấy cũng thường thôi. Một ngày nọ, máu nóng dồn lên, Tạ Liên bỗng nảy ra một ý tưởng: “Nếu không ai xây đạo quán cho ta, vậy thì ta tự xây.”

    Chư vị thần quan đều cạn lời.

    Mẹ nó đã thấy qua vị thần quan nào tự mình xây đạo quán cho mình chưa!

    Làm thần mà thảm tới mức này, cảm thụ như thế nào hả!

    Tạ Liên sớm đã quen với việc không dược đáp lời, cảm thấy mình tự vui là được. Một khi đã quyết định, Tạ Liên luồn nhảy xuống nhân giới.

    Lúc này, Tạ Liên rơi xuống một thôn nhỏ trong núi, gọi là Bồ Tề thôn.

    Gọi là thôn nhỏ trong núi, thực ra nó nằm ở sườn núi. Tạ Liên thấy non xanh nước biếc, ruộng lúa trải dài mênh mông, khung cảnh đẹp tuyệt trần, thầm nghĩ: “May mà lần này rơi xuống nơi tốt.”

    Lại nhìn kĩ, trên sườn đất có một căn nhà nhỏ nghiêng ngả như sắp đổ, Tạ Liên liền hỏi thử. Thôn dân đáp: “Căn nhà đó bỏ hoang, không có chủ. Thỉnh thoảng có kẻ lang thang vào ngủ một đêm, tùy tiện ở đi.”
    Này chẳng phải đúng ý Tạ Liên sao? Y lập tức tới gần căn nhà.

    Đến gần mới nhận ra, căn nhà gỗ này thực sự rất rách nát, càng gần càng thấy vô cùng rách nát. Bốn góc nhà có bốn cây cột, sợ là phải có hai cây cột mục nát rồi, một trận gió thổi qua, cả nhà cọt kẹt rung chuyển. Tạ Liên thật sự nghi ngờ liệu nó có đổ hay không. Nhưng mà, loại này Tạ Liên vẫn có thể chấp nhận, y liền vào nhà dọn dẹp.

    Các thôn dân nhìn thấy, không ngờ lại có người ở lại chỗ này, rất là ngạc nhiên, tất cả đều túm tụm lại xem náo nhiệt. Thôn dân ở nơi đây rất nhiệt tình, không chỉ tặng y một cây chổi, lại còn ở lại xem y quét dọn tới mặt bám đầy bụi. Cuối cùng còn tặng y một sọt bồ tề mới hái. Bồ tề đã được lột vỏ, cùi trắng trắng mềm mềm, nước rất ngọt. Tạ Liên ngồi xổm ở cửa phòng, miệng đã nhai xong, khoanh tay trước ngực, vô cùng hạnh phúc. Y quyết định gọi nơi này là Bồ Tề Quán.

    Tạ Liên bận bịu một hồi, thôn dân nhận ra người trẻ tuổi này muốn làm một đạo quán nhỏ, càng thấy kì lạ, nhao nhao hỏi: “Ngươi định làm đạo quán thờ ai vậy?”

    Tạ Liên nói: “Ta… ta cũng không biết nữa. Hình như là một vị Thái tử điện hạ.”

    “Chắc là bảo vệ bình an.” Tiện thể lượm đồng nát.

    Mọi người sốt sắng hỏi: “Thái tử điện hạ này có lo việc chiêu tài tiến bảo không?!”

    *Chiêu tài tiến bảo: Ước mong tiền, thu được của. Nói chung là mong ước có được tiền tài và của cải.

    Tạ Liên nhủ thầm, không nợ ngược đã may lắm rồi, ấm giọng nói: “Tiếc quá, hình như là không.”

    Mọi người đua nhau đề xuất ý kiến cho y: “Thôi thờ Thủy Sư đi, chiêu tài á! Chắc chắn nhang đèn thịnh vượng!”

    “Không thì thờ Linh Văn chân quân đi! Biết đâu thôn chúng ta có thể đào tạo ra một Trạng nguyên!”

    Một cô gái ngượng nghịu nói: “Cái đó… huynh có… có cái đó không…”

    Tạ Liên giữ nguyên nụ cười, hỏi: “Cái nào?”

    “Cự Dương tướng quân.”

    “…”

    Nếu y thật sự mở một gian Cự Dương quán, chỉ sợ Phong Tín sẽ lập tức từ trên trời bay xuống cho y một mũi tên!

    Quét dọn sơ lược Bồ Tề quán, còn thiếu lư hương, ống xăm này nọ kia, nhưng Tạ Liên quên béng mất việc quan trọng nhất — Tượng thần. Y đeo mũ đi ra cửa, đúng rồi, đâu có cửa đâu. Nghĩ ngợi một lát, gian nhà này nhất định phải sửa lại, y bèn viết một tấm bảng đặt ở cửa: “Bản quán xập xệ nguy hiểm, khẩn thiết tìm bậc hiền sĩ, quyên tiền tu sửa, tích lũy công đức.”

    Ra khỏi cửa, đi bộ bảy tám dặm, đi đến trấn trên. Đến trấn trên để làm gì? Tất nhiên là để kiếm miếng cơm ăn, dùng lại nghề cũ của mình rồi.

    Trong truyền thuyết thần thoại, thần tiên đều chẳng cần ăn gì, thật ra việc này khó nói lắm. Đúng là các Đại năng Tạo hóa có thể trực tiếp hấp thu linh khí cần thiết từ ánh sáng mặt trời và mưa sương, nhưng vấn đề là — Có thể thì có thể, nhưng khi không ai lại thích làm thế? Tại sao phải làm thế?

    Mà có một số thần quan, vì tu luyện pháp môn yêu cầu ngũ tạng sạch sẽ, tuyệt đối không thể dính vào thức ăn mặn nhiều dầu mỡ của con người, nếu dính vào, sẽ giống như con người ăn sống trùng độc bùn đất, vừa nôn mửa vừa tiêu chảy. Nói thế cũng không phải không ăn được thức ăn, chẳng qua chỉ ăn được quả tiên linh cầm (linh cầm = chim quý, chim thần) sống ở đất sạch, có hiệu quả kéo dài tuổi thọ và tăng cường pháp lực.

    Nhưng Tạ Liên không gặp vấn đề đó, y mang gông nguyền rủa trong người, không khác gì người phàm, gì cũng ăn được, hơn nữa do thân kinh bách chiến, ăn cái gì cũng không chết, bất luận là bánh bao để cả tháng hay bánh ngọt đã mọc mốc xanh, y ăn vào hoàn toàn không thành vấn đề. Nhờ sở hữu thể chất nghịch thiên như thế, lúc lượm đồng nát thật ra y sống cũng khá ổn. So sánh một chút: Mở quán thì mất tiền, lượm đồng nát kiếm tiền, quả nhiên phi thăng không bằng lượm đồng nát.

    Tạ Liên tướng tá ngọc thụ lâm phong tiên phong đạo cốt, lúc lượm đồng nát có nhiều ưu thế hơn, chẳng mấy chốc đã thu đủ một bao lớn. Trên đường trở về, thấy một con bò già kéo một chiếc xe đẩy, trên xe chất vài đống rơm rạ cao ngất, y sực nhớ hình như khi nãy mình từng thấy chiếc xe đẩy này ở thôn Bồ Tề, hẳn là đi cùng đường. Tạ Liên hỏi có thể tiện đường quá giang không, chủ xe đẩy hất cằm, ý bảo y có thể lên, Tạ Liên bèn vác một bao đồng nát lớn lên xe ngồi. Ngồi lên rồi mới phát hiện, sau đống rơm rạ cao ngất, có một người đã nằm đó từ sớm.

    *Ngọc thụ lâm phong: ý chỉ người con trai tao nhã hiên ngang phóng khoáng.

    *Tiên phong đạo cốt: có phong thái và cốt cách của tiên.

    Thân trên của người này giấu sau đống rơm, chân trái gác lên chân phải, dường như đang gối cánh tay nằm ở đó nghỉ ngơi, thoạt nhìn vô cùng thong dong tự đắc, điệu bộ thoải mái thích ý như thế khiến Tạ Liên hâm mộ không thôi. Đôi giày đen buộc rất chặt, dán sát cẳng chân thon dài thẳng tắp, trông khá là đẹp mắt. Nhớ đến những gì mình nhìn thấy dưới khăn voan ở núi Dữ Quân đêm hôm đó, Tạ Liên nhịn không được nhìn thêm vài lần, xác nhận trên đôi giày này không mắc dây bạc, không biết dùng da động vật gì chế thành, y nghĩ thầm: “Chắc tiểu công tử nhà nào chạy ra ngoài chơi rồi.”

    Xe đẩy chầm chậm lắc lư trên đường, Tạ Liên lưng đeo mũ, lấy ra một cuộn giấy chuẩn bị đọc. Xưa giờ y không mấy chú ý đến tin tức lưu truyền ở thế giới bên ngoài, nhưng do bị phũ nhiều lần, y cảm thấy ít nhiều gì cũng nên bù lại. Lắc lư chẳng biết bao lâu, xe bò đi ngang qua một rừng cây phong. Ngẩng đầu nhìn khắp xung quanh, dải ruộng xanh mượt, rừng phong rực đỏ, mang chút mộc mạc lý thú của núi non, cùng với mùi cỏ tươi mát thấm tận ruột gan, khiến lòng người say đắm, Tạ Liên không khỏi ngẩn ngơ.

    Thuở nhỏ y tu hành ở Hoàng Cực quán, Hoàng Cực quán xây dựng trong núi, khắp núi đồi đều là rừng phong, chói lọi như vàng, hừng hực như lửa. Cảnh tượng này, khó tránh khiến y có chút hoài niệm. Nhìn một hồi lâu, cuối cùng y mới cúi đầu tiếp tục đọc cuộn giấy.

    Vừa mở ra nhìn đã thấy một hàng chữ, viết:

    Thái tử Tiên Lạc, phi thăng ba lần. Võ Thần, ôn thần, thần đồng nát.

    “……”

    Tạ Liên nói: “Được rồi, thật ra nghĩ kỹ lại, Võ Thần với thần đồng nát cũng không khác gì mấy. Chúng thần bình đẳng, chúng sinh bình đẳng.”

    Lúc này, sau lưng y truyền đến một tiếng cười khẽ, một giọng nói cất lên: “Vậy sao?”

    Thiếu niên nọ nói bằng giọng biếng nhác: “Ngoài miệng mọi người tất nhiên thích nói chúng thần bình đẳng, chúng sinh bình đẳng. Nhưng nếu thật sự là thế, chúng thần tiên căn bản sẽ không tồn tại.”

    Giọng nói này truyền đến từ sau đống rơm trên xe bò. Tạ Liên quay đầu lại nhìn, thấy thiếu niên nọ vẫn lười biếng nằm ở đó, không có ý định đứng dậy, chắc chỉ thuận miệng xen vào một câu, y mỉm cười nói: “Lời đệ nói cũng có lý lắm.”

    Tạ Liên quay trở lại, tiếp tục đọc cuộn giấy, bên dưới lại viết:

    Rất nhiều người tin tưởng, với tư cách là ôn thần, bút tích hoặc ảnh chân dung của Thái tử Tiên Lạc có tác dụng nguyền rủa. Nếu dán vào lưng người nào hoặc trên cửa nhà nào, thì sẽ làm cho người đó hoặc hộ nhà đó gặp vận rủi liên tục.

    “……”

    Kiểu tường thuật này, quả thật khiến người ta khó mà nhận định rốt cuộc đang nói thần hay nói quỷ.

    Tạ Liên lắc đầu, không nỡ đọc những tường thuật liên quan đến mình nữa, quyết định trước hết nên tìm hiểu về các vị thần quan hiện nay ở thiên giới, để tránh không nhận ra ai là ai, mắc công thất lễ. Nhớ lại khi nãy có thôn dân đề cập đến Thủy Sư, y bèn lật lại tường thuật về Thủy Sư, lật đến một câu:

    Thủy Sư Vô Độ. Chưởng nước, kiêm chưởng tài (chưởng = phụ trách/quản lý). Trong cửa hàng và trong nhà của nhiều thương nhân đều thờ một pho tượng Thủy Sư, bảo vệ tài vận của họ.

    Tạ Liên cảm thấy hơi khó hiểu: “Đã là Thuỷ thần, tại sao lại kiêm luôn chưởng tài vận?”

    Lúc này, thiếu niên nằm sau đống rơm lại lên tiếng: “Đội buôn ra ngoài kinh doanh vận chuyển hàng hóa, chủ yếu đều di chuyển bằng đường nước, cho nên trước khi khởi hành phải đến Thủy Sư miếu đốt cao hương, cầu xin một đường bình an, nếu nhận lời thì khi về sẽ thế này thế kia. Dần dà cứ thế, Thuỷ thần mới từ từ kiêm luôn chưởng tài vận.”

    Đây đúng là đang giải đáp thắc mắc riêng cho y. Tạ Liên xoay người lại, nói: “Là vậy sao? Thú vị thật, nói thế vị Thủy Sư này là đại thần quan lợi hại lắm nhỉ.”

    Thiếu niên nọ cười nhạo: “Ừ, Thủy Hoành Thiên cơ mà.” (Tạm dịch: Nước vượt trời)

    Nghe giọng điệu của cậu ta, dường như không hề đặt vị thần quan này vào mắt, cũng chẳng giống đang nói lời tán dương, Tạ Liên hỏi: “Thủy Hoành Thiên là cái gì?”

    Thiếu niên nọ khoan thai nói: “Thuyền băng qua sông lớn, đi hay ở đều dựa vào một câu nói của gã. Không dâng lễ cho gã thì gã sẽ trở mặt, rất ngang ngược (ngang ngược = hoành), bởi vậy mới tặng cho gã cái biệt hiệu, gọi là Thủy Hoành Thiên, ý nghĩa từa tựa Cự Dương tướng quân với Quét Nhà tướng quân ấy.”

    Thần quan tên tuổi vang dội, ít nhiều cũng có vài biệt hiệu ở nhân gian và thiên giới, tương tự như Tạ Liên là trò cười ba giới, nổi tiếng lạ đời, đồ sao chổi, chó nhà có tang, khụ khụ khụ khụ, vân vân mây mây. Thông thường dùng biệt hiệu gọi thần quan là chuyện vô cùng thất lễ, chẳng hạn như nếu như ai dám gọi Mộ Tình là “Quét Nhà tướng quân” ngay trước mặt hắn, Mộ Tình tất sẽ nổi cơn tam bành. Tạ Liên vẫn nhớ không thể gọi như thế, nói: “Thì ra là vậy, cảm ơn đệ đã giải đáp.” Dừng một lát, cảm thấy thiếu niên này nói năng thú vị, y lại nói: “Anh bạn này, tuổi còn trẻ mà biết nhiều phết.”

    Thiếu niên nọ đáp: “Không nhiều lắm đâu. Nhàn rỗi ấy mà, lúc rảnh đọc lung tung vậy thôi.”

    Ở dân gian, đâu đâu cũng thấy hàng đống sách truyện thần thoại, toàn nói về những chuyện nào thần nào quỷ, lớn thì nào ân nào oán, nhỏ thì lông gà vỏ tỏi, có thật cũng có giả, thiếu niên này biết nhiều như thế cũng không có gì kỳ lạ. Tạ Liên buông cuộn giấy, nói: “Vậy, anh bạn này, thần thì đệ biết nhiều, còn quỷ thì đệ biết không?”

    Thiếu niên nọ hỏi: “Quỷ nào?”

    Tạ Liên nói: “Huyết Vũ Thám Hoa, Hoa Thành.”

    Nghe vậy, thiếu niên nọ cười khẽ vài tiếng, cuối cùng cũng ngồi dậy. Thiếu niên vừa quay đầu, hai mắt Tạ Liên bỗng sáng lên.

    Chỉ thấy thiếu niên nọ ước chừng mười sáu mười bảy tuổi, áo đỏ hơn lá phong, da trắng như tuyết, mắt sáng như sao, mỉm cười nghiêng mắt nhìn y, khôi ngô một cách lạ thường, nét mặt lại mang vài phần hoang dã khó tả. Tóc đen buộc lỏng lẻo, buộc hơi lệch một chút, thoạt nhìn tùy ý cực kỳ.

    Hai người đang băng qua rừng phong đỏ rực như lửa, lá phong rơi rụng từng chiếc, có một chiếc rơi xuống đầu vai thiếu niên nọ. Hắn thổi nhẹ một hơi, thổi rơi lá phong, bấy giờ mới ngẩng đầu nhìn Tạ Liên, cười như không cười nói: “Huynh muốn biết gì? Cứ hỏi thoải mái.”

    Chương 14: Áo đỏ hơn lá phong, da trắng như tuyết (2)

    Sắc mặt thiếu niên mang vẻ trêu tức, nhưng chẳng hiểu sao lại có nét bình tĩnh ung dung của người biết tất tần tật. Tuy là giọng của một thiếu niên trẻ, song chất giọng của hắn có phần trầm thấp hơn bé trai cùng trang lứa, nghe rất êm tai. Tạ Liên ngồi ngay ngắn trên xe bò, suy nghĩ chốc lát rồi nói: “Huyết Vũ Thám Hoa (Che chở hoa dưới mưa máu), cảnh tượng này nghe có vẻ thật khó lường, anh bạn, đệ có thể nói xem nguồn cơn từ đâu không?”

    Để bày tỏ sự tôn trọng, Tạ Liên vẫn không thêm chữ “nhỏ” vào sau chữ “anh bạn”. Thiếu niên nọ ngồi một cách thoải mái, cánh tay khoác lên đầu gối gập thẳng, sửa lại ống tay áo tiễn tụ*, hờ hững nói: “Không có lai lịch gì to tát cả. Chỉ là có lần hắn bưng ổ của một con quỷ khác, mưa máu đổ khắp núi, lúc rời đi trông thấy ven đường có một đóa hoa bị mưa máu xối đến thảm thương, hắn bèn nghiêng dù che cho nó một chút.”

    Tiễn tụ: ý chỉ loại áo dài ống tay áo chật.

    Tưởng tượng đến hình ảnh đó, Tạ Liên chỉ cảm nhận được một vẻ thanh nhã quyến luyến khó tả giữa mưa máu gió tanh. Lại nhớ đến truyền thuyết quỷ áo đỏ đốt ba mươi ba miếu thần, y cười nói: “Vị Hoa Thành này thường xuyên đánh nhau khắp nơi hả?”

    Thiếu niên nọ đáp: “Cũng không phải thường xuyên, xem tâm trạng đã.”

    Tạ Liên hỏi: “Lúc còn sống hắn là người thế nào?”

    Thiếu niên nọ đáp: “Chắc chắn không phải người tốt gì.”

    Tạ Liên hỏi: “Hắn trông như thế nào?”

    Câu này vừa hỏi ra miệng, thiếu niên nọ ngước mắt nhìn Tạ Liên, đoạn nghiêng đầu, đứng dậy đi đến bên người Tạ Liên, sóng vai ngồi xuống, hỏi ngược lại: “Huynh cảm thấy, hắn nên trông như thế nào?”

    Các bạn đang đọc truyện đam mỹ huyền huyễn tại đam mỹ dammydmh.com

    Nhìn ở khoảng cách gần thế này, Tạ Liên càng cảm thấy thiếu niên nọ tuấn tú một cách lạ thường, mà còn là kiểu tuấn tú mơ hồ mang ý công kích, tựa như thanh kiếm sắc bén ra khỏi vỏ, loá mắt đến tột độ, khiến người ta không dám lại gần nhìn. Ngưng mắt nhìn nhau giây lát, Tạ Liên bỗng thấy có chút đỡ không nổi, y khẽ nghiêng đầu, nói: “Đã là một đại Quỷ vương, ắt hẳn hình thái biến đổi đa dạng, có rất nhiều diện mạo khác nhau.”

    Thấy Tạ Liên quay đầu đi, thiếu niên nọ nhướn một bên lông mày, nói: “Ừ, nhưng đôi khi hắn vẫn sẽ dùng diện mạo gốc. Cái mà chúng ta đang nói, tất nhiên là bản tôn.”

    Không biết có phải ảo giác hay không, Tạ Liên cảm thấy dường như khoảng cách giữa hai người đã xa hơn một chút, vì vậy y lại xoay mặt về, nói: “Ta thì cảm thấy, có lẽ bản tôn của hắn là một thiếu niên giống như đệ.”

    Nghe vậy, thiếu niên nọ khẽ nhếch khóe miệng, hỏi: “Vì sao?”

    Tạ Liên nói: “Không vì gì cả. Đệ tùy tiện nói một chút, ta cũng tùy tiện nghĩ một chút. Mọi sự tùy tiện thôi.”

    Thiếu niên nọ bật cười ha ha: “Biết đâu được nhỉ? Có điều, hắn mù một con mắt.” Nói đoạn chấm chấm dưới mắt phải của mình, nói: “Mắt này nè.”

    Cách nói trên trái lại không có gì đáng ngạc nhiên, trước đây Tạ Liên từng nghe rồi. Trong một vài phiên bản thuật lại, mắt phải của Hoa Thành đeo một miếng bịt mắt màu đen, che khuất con mắt mà hắn bị mất. Tạ Liên hỏi: “Vậy đệ có biết, mắt đó của hắn bị gì không?”

    Thiếu niên nọ đáp: “Ừm, vấn đề này, nhiều người muốn biết lắm.”

    Người ngoài muốn biết thứ gì khiến cho Hoa Thành mất một mắt phải, thật ra vì muốn biết nhược điểm của Hoa Thành là gì thôi, còn Tạ Liên hỏi vậy chỉ thuần túy vì muốn biết. Y còn chưa tiếp lời, thiếu niên nọ đã lên tiếng: “Hắn tự móc.”

    Tạ Liên sửng sốt, hỏi: “Tại sao? ”

    Thiếu niên nọ nói: “Phát điên.”
    … Điên lên thậm chí ngay cả mắt mình cũng móc, đối với Quỷ vương áo đỏ Huyết Vũ Thám Hoa này, Tạ Liên thật sự càng ngày càng tò mò. Y đoán có lẽ không phải là phát điên đơn giản như thế, nhưng nếu thiếu niên đã nói vậy, xem ra cũng không có chi tiết tỉ mỉ hơn, y hỏi tiếp: “Vậy Hoa Thành có nhược điểm nào không?”

    Hỏi câu này, Tạ Liên vốn không chờ mong thiếu niên có thể trả lời, chỉ thuận miệng hỏi mà thôi. Nếu nhược điểm của Hoa Thành dễ bị người ta biết như thế thì đâu còn là Hoa Thành nữa. Ai ngờ, thiếu niên nọ trả lời không chút do dự: “Tro cốt.”

    Nếu lấy được tro cốt một con quỷ, là có thể sai sử con quỷ đó. Nếu quỷ không nghe lệnh, hủy tro cốt của nó, nó sẽ thần hình câu diệt (thể xác lẫn tinh thần đều bị diệt), hồn phi phách tán, đây vốn là kiến thức thông thường. Có điều nếu áp dụng trên người Hoa Thành, kiến thức thông thường này hẳn không có ý nghĩa gì quá lớn. Tạ Liên cười nói: “Chỉ sợ không ai có thể lấy được tro cốt của hắn, thế nên nhược điểm này cũng đồng nghĩa với không có nhược điểm.”

    Thiếu niên nọ lại nói: “Chưa chắc. Có một loại tình huống, quỷ sẽ chủ động dâng tro cốt của mình.”

    Tạ Liên hỏi: “Giống như lúc hắn ước chiến với ba mươi ba thần quan, giao nộp với tư cách là tiền cược ư?”

    Thiếu niên nọ bật cười: “Sao có thể?”

    Tuy thiếu niên chưa nói hết câu, Tạ Liên vẫn nghe ra được, ý của hắn chắc là Hoa Thành sao có thể thua được. Thiếu niên nọ nói tiếp: “Quỷ giới có một tập tục. Nếu một con quỷ đã chọn người nào, nó sẽ giao phó tro cốt của mình vào tay người đó.”

    Vậy quả thật chẳng khác gì giao phó tính mạng của mình vào tay người khác, tình thâm như thế phải là giai thoại thiết tha đến nhường nào. Tạ Liên nói bằng giọng thích thú: “Thì ra quỷ giới còn có tập tục nghĩa tình thủy chung như thế.”

    Thiếu niên nọ nói: “Có, nhưng chẳng mấy ai dám làm.”

    Tạ Liên cũng lường được điều này. Trên đời không chỉ có yêu ma dụ dỗ lòng người, cũng có loài người lừa gạt yêu ma, nhất định có rất nhiều lợi dụng và phản bội. Y nói: “Nếu một tấm lòng si trao ra, cuối cùng đổi lấy nghiền xương thành tro, quả thật khiến người ta đau lòng.”

    Thiếu niên nọ lại cười ha ha: “Sợ cái gì? Nếu là ta, tro cốt đưa rồi, người đó muốn nghiền xương thành tro hay rắc chơi thế nào chẳng được?”

    Tạ Liên mỉm cười, sực nhớ hai người nói chuyện nãy giờ mà vẫn chưa biết tên nhau, bèn hỏi: “Anh bạn này, xưng hô thế nào đây?”

    Thiếu niên nọ gác một tay lên lông mày, che khuất ánh chiều tà màu rượu đỏ, mắt khẽ híp lại, dường như không thích ánh mặt trời lắm. Thiếu niên nói: “Ta hả? Ở nhà ta đứng hàng thứ ba, tất cả mọi người đều gọi ta là Tam Lang.”

    *Lang (郎): Mĩ xưng dùng cho đàn ông, ví dụ như “Chu lang” -> chàng Chu. Ngoài ra, nó còn là tiếng phụ nữ gọi chồng hoặc tình nhân (như Tuyên Cơ gọi Bùi lang).

    Thiếu niên không chủ động nói tên, Tạ Liên cũng không hỏi nhiều, nói: “Ta họ Tạ, tên một chữ Liên. Đệ đi hướng này, vậy là cũng muốn đến thôn Bồ Tề sao?”

    *Tạ (谢) là tạ ơn/tạ lỗi/héo tàn, Liên (怜) là thương xót/đáng thương/yêu thương.

    Tam Lang ngả lưng ra sau, tựa vào đống rơm, gối lên hai tay, bắt chéo hai chân, nói: “Không biết. Ta đi lung tung à.”

    Lời của Tam Lang nghe như có ẩn giấu nội tình, Tạ Liên hỏi: “Sao vậy?”

    Tam Lang thở dài, thong thả nói: “Ở nhà cãi nhau, bị đuổi ra ngoài. Đi lâu ơi là lâu, nhưng không có nơi nào để đến. Hôm nay đói bụng đến mức suýt té xỉu ngoài đường, giờ mới tìm đại chỗ để nằm.”

    Quần áo của Tam Lang tuy trông tùy tiện thật, nhưng chất liệu thượng hạng, cộng thêm nói năng không tầm thường, lại giống như ngày nào cũng rảnh rỗi, có thời gian đọc này đọc nọ nên cái gì cũng biết, Tạ Liên đã sớm đoán Tam Lang là tiểu công từ nhà giàu nào đó chạy ra ngoài chơi. Một thiếu niên sống an nhàn sung sướng ra ngoài một mình lâu như thế, dọc đường tất nhiên gặp rất nhiều gian khổ, điểm này Tạ Liên hiểu rõ hơn ai. Nghe Tam Lang than đói, Tạ Liên lục bọc đồ mang theo bên người, chỉ lục ra được một cái bánh bao, nhủ thầm may là chưa bị cứng, đoạn nói với Tam Lang: “Muốn ăn không?” Tam Lang gật đầu, Tạ Liên bèn đưa bánh bao cho đối phương. Tam Lang nhìn y, hỏi: “Huynh không còn nữa sao?”

    Tạ Liên nói: “Ta vẫn ổn, không đói lắm.”

    Tam Lang trả bánh bao lại cho y, nói: “Ta cũng ổn.”

    Thấy thế, Tạ Liên nhận lại, bẻ bánh bao ra làm đôi rồi đưa cho Tam Lang phân nửa, nói: “Vậy đệ phân nửa, ta phân nửa nhé.”

    Bấy giờ Tam Lang mới nhận lấy, sóng vai ngồi gặm bánh bao với Tạ Liên. Nhìn Tam Lang ngồi kế bên cắn bánh bao, ngoan ngoãn một cách kỳ lạ, Tạ Liên có cảm giác như mình làm người ta tủi thân chỗ nào đó.

    Xe bò kéo chầm chậm trên đường núi gập ghềnh, mặt trời dần dần lặn về hướng Tây, hai người ngồi trên xe trò chuyện. Càng trò chuyện Tạ Liên càng cảm thấy, đây quả là một thiếu niên lạ kỳ. Mặc dù tuổi còn trẻ, nhưng động tác và lời nói mang một thái độ bễ nghễ, thong dong tự tại, như thể trên trời dưới đất không có gì hắn không biết, cũng không có gì làm khó được hắn, khiến Tạ Liên cảm thấy hắn hiểu biết rất nhiều, như ông cụ non vậy, song cũng có lúc, hắn lại bộc lộ điểm thú vị của thiếu niên trẻ tuổi. Tạ Liên nói mình là quán chủ của Bồ Tề quán, Tam Lang hỏi: “Bồ Tề quán? Nghe có vẻ có nhiều củ năng để ăn đây, ta thích lắm. Thờ ai thế?”

    Lại bị hỏi vấn đề khiến người ta đau đầu này, Tạ Liên ho nhẹ một tiếng, nói: “Thái tử Tiên Lạc, chắc đệ không biết đâu.”

    Thiếu niên nọ mỉm cười, còn chưa lên tiếng, thân xe bò thình lình rung mạnh một cái.

    Hai người cũng lắc lư theo, sợ Tam Lang té xuống, Tạ Liên vội đưa tay túm lấy đối phương. Nào ngờ tay y vừa đụng đến Tam Lang, thiếu niên nọ như bị vật nóng đốt trúng, hất phăng tay y.

    Tuy biểu cảm trên mặt Tam Lang chỉ thay đổi chút ít, Tạ Liên vẫn phát hiện ra được, lòng nhủ thầm lẽ nào thiếu niên này thật ra rất ghét mình? Rõ ràng dọc đường hai bên trò chuyện vui vẻ lắm mà? Nhưng bây giờ cũng không tâm trí suy nghĩ nhiều, y đứng lên nói: “Xảy ra chuyện gì vậy?”

    Ông bác chủ xe bò nói: “Ta cũng không biết xảy ra chuyện gì nữa! Lão Hoàng à, sao mày không đi, mày mau đi coi!”

    Lúc này mặt trời đã xuống núi, xe bò lại đang nằm giữa núi rừng, bốn phía ảm đạm mờ tối. Con bò Lão Hoàng dừng yên tại chỗ, vẫn cứng đầu không chịu đi, mặc cho ông bác kia giục thế nào cũng vô dụng, chỉ hận không thể dúi đầu xuống đất, rống ụm bò ụm bò mãi, đuôi vẫy như một sợi roi. Thấy tình hình không ổn, Tạ Liên đang định nhảy xuống xe, bỗng nhiên, ông bác kia la hét chỉ về phía trước.

    Chỉ thấy phía trước đường núi, vô số đóm lửa xanh biếc đông một lùm, tây một lùm cháy âm ỉ. Một đám người áo trắng ôm đầu của chính mình, chậm rãi đi về hướng này.

    Thấy thế, Tạ Liên vội nói: “Bảo vệ!”

    Nhược Da tuột khỏi cổ tay y, quấn một vòng quanh xe bò, nối thành một vòng tròn lơ lửng giữa không trung, che chở ba người một bò. Tạ Liên quay đầu lại hỏi: “Hôm nay là ngày mấy?”

    Ông bác kia còn chưa trả lời, Tam Lang ở sau lưng y đáp: “Trung Nguyên.”

    Rằm tháng bảy, Quỷ môn mở. Y ra ngoài không nhìn ngày, hôm nay vừa khéo là tết Trung Nguyên!

    Tạ Liên trầm giọng nói: “Đừng đi lung tung. Hôm nay gặp tà. Nếu đi nhầm đường, sẽ không về được.”

     Chương 15: Áo đỏ hơn lá phong, da trắng như tuyết (3)

    Đám người áo trắng trên cổ không đầu, thân mặc quần áo tù nhân, mỗi người ôm một cái đầu lâu, trông hệt như là một đám tù phạm bị chém đầu. Bọn chúng chậm rãi đi về hướng xe bò, đầu lâu trong khuỷu tay vẫn đang lải nhải không ngừng. Tạ Liên thấp giọng dặn dò hai người còn lại: “Lát nữa bọn chúng đến gần, tuyệt đối đừng lên tiếng.”

    Tam Lang nhìn thoáng qua Nhược Da lơ lửng trên không trung, nghiêng đầu hỏi: “Vị ca ca này, huynh lại còn là một vị kỳ nhân dị sĩ nữa cơ à?”

    Giọng điệu của Tam Lang nghe tràn đầy hứng thú, Tạ Liên nói: “Cũng tạm thôi. Kỳ nhân dị sĩ thì không hẳn, chỉ biết một chút thôi. Bây giờ bọn chúng nhìn không thấy chúng ta, lát nữa đến gần rồi, ngộ nhỡ lên tiếng thì khó nói lắm.”

    Thấy dải lủa trắng tự bay, người không đầu đi đường, ông cụ đánh xe đã trợn mắt há mồm, nghe mà hoảng hồn, lắc đầu liên tục: “Không được không được! Ta sợ mình không nín được.”

    “……” Tạ Liên nói: “Vậy, đắc tội.” Nói xong nhanh chóng ra tay, chạm vào lưng ông cụ một cái, ông cụ lập tức nghiêng người ngã xuống, ngủ mê man. Lần này, cuối cùng không cần lo ông cụ sợ quá la lên bị phát hiện nữa. Tạ Liên nhẹ nhàng đỡ lấy ông cụ, đặt ông ta trên xe bò, đoạn xoay người nói với Tam Lang: “Không sao đâu. Đừng căng thẳng.”

    Sắc trời đã tối, không thấy rõ nét mặt của Tam Lang, chỉ thấy Tam Lang gật gật đầu. Tạ Liên lên trước xe ngồi, cầm dây thừng nhẹ giọng dỗ con bò kia. Đám quỷ mặc áo tù nhân đã đi tới, muốn băng qua nhưng phát hiện giữa đường có thứ gì chặn lại, cả bọn thô lỗ quát: “Đúng là kỳ lạ! Sao không băng qua được!”

    “Đúng thế! Không qua được! Bộ gặp quỷ à!”

    “Mẹ nó, bản thân chúng ta không phải là quỷ sao, còn gặp quỷ gì nữa!”

    Tạ Liên vất vả lắm mới dỗ được con bò, sát vai đi qua đám quỷ không đầu mặc áo tù nhân, nghe bọn chúng ôm đầu cãi nhau chí chóe, chỉ thấy hết sức buồn cười. Lũ quỷ hồn kia vẫn còn oán trách không ngớt: “Ê, có phải ngươi lấy nhầm không? Sao ta cảm giác như cái mà ngươi đang ôm mới là đầu của ta thế?”

    “Sao vết chém của đầu ngươi không nuột gì hết vậy?”

    “Uầy, đao phủ kia là lính mới, chém năm sáu nhát mới đứt, ta còn nghi không biết có phải gã cố tình không.”

    “Người nhà ngươi chưa đút lót tiền cho gã chứ gì! Lần sau nhớ đút lót trước một chút, một nhát đứt luôn!”

    “Làm gì còn lần sau nữa!”

    Rằm tháng bảy, Tết Trung Nguyên, chính là ngày lễ lớn nhất của Quỷ giới. Hôm đó, quỷ môn rộng mở, lũ yêu ma quỷ quái thường ngày ẩn núp trong bóng tối đều túa ra ngoài, thỏa sức cuồng hoan, người sống phải lẩn tránh. Nhất là vào buổi tối hôm đó, đóng cửa không ra là lựa chọn tốt nhất. Hễ ra khỏi cửa, cơ hội đụng phải thứ gì cao hơn ngày thường nhiều. Tạ Liên xưa giờ luôn là người uống nước lạnh cũng mắc răng, mặc áo đạo sĩ cũng gặp quỷ, bây giờ lại gặp ngay trực diện. Chỉ thấy ma trơi xanh lục lơ lửng bốn phương tám hướng, nhiều quỷ hồn đuổi chạy theo ma trơi, còn có vài quỷ hồn mặc áo liệm mặt không biểu cảm ngồi lẩm bẩm một mình trước một vòng tròn, thò tay nhận tiền giấy, đĩnh vàng và đồ cúng mà con cháu đốt cho mình. Cảnh tượng này, có thể nói là lũ quỷ múa loạn. Tạ Liên đi ngang qua chính giữa, trong lòng đang nghĩ sau này ra ngoài nhất định phải xem hoàng lịch thì bỗng cảm giác được phía sau có động tác lạ. Y ngoái đầu lại nhìn, chỉ thấy thiếu niên nọ ngồi xuống sau lưng mình.

    Tạ Liên hỏi: “Đệ không sao chứ?”

    Tam Lang dùng một tay chống cằm dưới, nói: “Có sao đó. Ta sợ lắm.”

    “……” Mặc dù thật sự chẳng hề nghe được nửa phần cảm giác sợ hãi từ giọng của Tam Lang, Tạ Liên vẫn an ủi: “Đừng sợ. Đệ ngồi sau người ta, không có thứ gì làm đệ bị thương được đâu.”

    Tam Lang cười cười, không đáp. Tạ Liên chợt phát hiện, Tam Lang thế mà lại đang nhìn mình chằm chằm. Lát sau, cuối cùng cũng kịp phản ứng, y nhận ra thứ mà Tam Lang nhìn chính là gông nguyền rủa trên cổ mình.

    Gông nguyền rủa này hệt như một cái vòng màu đen quấn quanh cần cổ, căn bản giấu không được, hơn nữa dễ khiến người ta nảy sinh một vài liên tưởng không hay. Tạ Liên đang định mở miệng, lúc này con bò già kia kéo xe đi đến một ngã ba. Tạ Liên vừa nhìn, hai đường núi tối như mực tách nhau tại đây, y lập tức kéo dây thừng của con bò.

    Ngã ba này, phải hết sức cẩn thận.

    Vào ngày Tết Trung Nguyên, thỉnh thoảng mọi người đi một hồi sẽ phát hiện trước mặt xuất hiện một con đường mọi khi không tồn tại. Con đường đó, người sống không thể đi được. Một khi đi nhầm, đi vào địa bàn của Quỷ giới, muốn về hơi bị khó.

    Tạ Liên mới vừa đến đây, không rõ nên đi đường nào trong hai đường núi này, nhớ khi nãy đến trấn trên ngoại trừ hốt được một bọc đồng nát lớn còn mua chút vật dụng linh tinh, trong đó có ống xăm, y nghĩ bụng để tính thử một quẻ xem sao, bèn lấy ống xăm ra khỏi bọc đồ, cầm trong tay lắc soạt soạt, vừa lắc vừa giải thích với Tam Lang: “Quẻ đầu tiên bên trái, quẻ thứ hai bên phải, đường nào được xăm tốt, chúng ta đi đường đó.” Tạ Liên dùng một chút pháp lực, sau đó đọc thầm ba lần, hai quẻ xăm rơi ra khỏi ống, y cầm lên xem thử rồi lặng thinh.

    Xăm hạ hạ, đại hung! (hung = nguy hiểm, không may)

    Hai quẻ xăm đều là xăm hạ hạ, nói cách khác, hai con đường đều là đại hung, thế chẳng phải đi đường nào cũng chết?
    Tạ Liên bất đắc dĩ, đành nói với ống xăm: “Ống ơi là ống, hôm nay tao và mày gặp nhau lần đầu tiên, có cần tuyệt tình như thế không? Làm lại lần nữa, cho tao chút mặt mũi đi.”

    Vì vậy, y đổi thành hai tay cầm ống, lắc tiếp một phen. Lại lắc ra hai quẻ, y cầm lên xem, vẫn là xăm hạ hạ, đại hung!

    Tạ Liên quyết định không lãng phí pháp lực nữa, bấy giờ, Tam Lang ngồi bên cạnh chợt lên tiếng: “Để ta thử xem?”

    Suy cho cùng thử hay không cũng thế, Tạ Liên bèn đưa ống xăm cho đối phương. Tam Lang dùng một tay nhận lấy, tùy tiện lắc lắc, hai quẻ rơi ra, hắn cầm lên chẳng buồn nhìn đã đưa cho Tạ Liên. Tạ Liên nhận lấy xem thử, hai quẻ ấy thế mà đều là xăm thượng thượng.

    Tạ Liên hơi kinh ngạc. Bởi vì thảm đến nông nỗi như y, dường như ngay cả vận may của người ngoài cũng bị y làm thảm theo, tuy không biết có phải thật sự là vậy không, nói chung ngày xưa y thường bị oán trách như thế. Vậy mà thiếu niên này không hề bị y ảnh hưởng, trực tiếp lắc ra được hai quẻ xăm thượng thượng. Tạ Liên tán thán từ tận đáy lòng: “Anh bạn, vận may của đệ tốt ghê.”

    Tam Lang tiện tay ném ống xăm ra sau, cười nói: “Vậy sao? Ừ, ta cũng thấy vận may của mình không tệ. Bao giờ cũng thế.”

    Nghe hắn nói “Bao giờ cũng thế”, Tạ Liên xoa xoa ấn đường, nghĩ thầm chênh lệch giữa người và người quả nhiên hệt như rãnh trời. Tam Lang lại hỏi: “Đi sao đây?”

    Với tình hình trước mắt, chỉ có thể đi, không thể ở lại, ban đầu Tạ Liên cũng định chọn đại một đường, bèn nói: “Nếu hai cái đều là xăm thượng thượng, vậy đi đại đi.”

    Nói đoạn lập tức giật dây thừng mấy cái, bánh xe bò lại lặn chầm chậm. Tạ Liên vốn đã căng thẳng thần kinh, chuẩn bị sẵn sàng để đối phó với các tình huống đột phát, ai ngờ thế mà lại một đường suôn sẻ thật. Không lâu sau, xe bò chậm chạp ra khỏi rừng, đi lên đường núi bằng phẳng, không ngờ y cũng có ngày chọn đúng đường.

    Thôn Bồ Tề đã nằm dưới sườn núi, hàng đống đèn đuốc ấm áp sáng sủa. Gió đêm thổi qua, Tạ Liên quay đầu lại, tâm trạng của Tam Lang có vẻ rất tốt, hắn lại nằm xuống, gối lên hai tay của mình, nhìn vầng trăng sáng đằng xa, dưới ánh trăng mờ ảo, mặt mũi của thiếu niên nọ trông không giống người thật.

    Trầm ngâm chốc lát, Tạ Liên cười nói: “Anh bạn, đệ coi bói bao giờ chưa?”

    Qua một chặng đường, trong lòng y chung quy vẫn có chút hoài nghi.

    Tinh thông đủ thứ hay hiểu biết sâu rộng cũng không có gì, nhưng lúc đi đêm giữa đám quỷ, thiếu niên này không khỏi có phần bình tĩnh quá. Mặc dù không thể loại trừ khả năng có người trời sinh đã giỏi giữ bình tĩnh, song Tạ Liên vẫn cảm thấy mình cần phải xác nhận một chút.

    Nghe y hỏi vậy, Tam Lang quay đầu nói: “Chưa.”

    Tạ Liên nói: “Vậy, đệ muốn ta coi giúp đệ không?”

    Tam Lang nhìn y, cười nói: “Huynh muốn coi giúp ta?”

    Tạ Liên đáp: “Cũng hơi muốn.”

    Tam Lang khẽ gật đầu: “Được.”

    Hắn ngồi dậy, thân thể hơi nghiêng về hướng Tạ Liên, nói: “Huynh muốn coi thế nào?”

    Tạ Liên nói: “Coi tay, được không?”

    Nghe vậy, Tam Lang khẽ nhếch khóe miệng. Nụ cười kia không rõ mang ý gì, chỉ nghe hắn nói: “Được.”

    Nói đoạn, Tam Lang chìa tay trái về phía Tạ Liên.

    Tay trái này ngón tay thon dài, đốt nào ra đốt nấy, trông đẹp vô cùng, hơn nữa không phải kiểu đẹp yếu đuối, mà là sức mạnh tích tụ trong đó, chẳng ai muốn bị bàn tay này bóp cổ họng đâu. Nhớ đến sắc mặt khẽ biến của Tam Lang khi chạm vào mình lúc nãy, Tạ Liên chú ý tránh tiếp xúc thân thể, không trực tiếp chạm vào tay Tam Lang, chỉ cúi đầu quan sát thật kỹ.

    Ánh trăng trong sáng, nói tối thì không tối, nói sáng cũng không hẳn là sáng, Tạ Liên nhìn ngắm một hồi, xe bò vẫn lăn chầm chậm trên đường núi, bánh xe và trục gỗ kêu cót két. Tam Lang hỏi: “Sao rồi?”

    Lát sau, Tạ Liên chậm rãi đáp: “Số mệnh của đệ rất tốt.”

    Tam Lang nói: “Ồ? Tốt thế nào?”

    Tạ Liên ngẩng đầu, dịu giọng nói: “Đệ tính tình nhẫn nại, nhất mực kiên trì, tuy gặp phải gian nan, nhưng quý ở chỗ mãi mãi giữ vững lương tâm, thường xuyên gặp dữ hóa lành, ngộ nan trình tường (gặp tai vạ cũng có thể hóa thành cát tường). Mệnh này phúc trạch dài lâu, anh bạn, tương lai của đệ tất sẽ phồn hoa tựa gấm, viên mãn xán lạn.”

    *Phúc trạch: hạnh phúc và ân huệ.

    Mấy câu trở lên, toàn bộ đều là bịa ra tại chỗ. Tạ Liên hoàn toàn không biết coi tay cho người ta. Lúc trước bị giáng chức, có dạo y thường xuyên hối hận tại sao ngày xưa ở Hoàng Cực quán mình không học coi tay và coi mặt, nếu có học thì lúc kiếm ăn ở nhân gian không cần thổi sáo gảy đàn đập đá trên ngực mãi nghệ đầu đường rồi. Mà sở dĩ y muốn coi, không phải vì muốn coi số phận thiếu niên này ra sao, mà là muốn xem rốt cuộc thiếu niên này có chỉ tay và dấu vân tay không.

    Yêu ma quỷ quái tầm thường có thể biến ra xác thịt giả tạo, đóng giả người sống, song những chỗ nhỏ nhặt trên xác thịt, chẳng hạn như chỉ tay, dấu vân tay, lọn tóc, thông thường không thể nào kỹ lưỡng đến mức đó. Mà trên người thiếu niên này, chẳng những không có bất cứ pháp lực gì dao động, không phát hiện được đầu mối nào, ngay cả chỉ tay cũng rõ mồn một. Nếu thật sự là yêu ma quỷ quái ngụy trang, vậy chỉ có cấp bậc “Hung” trở lên mới có thể ngụy trang hoàn hảo không kẽ hở nào như thế. Tuy nhiên, Quỷ vương đạt đến cấp bậc thân phận đó, sao lại cùng y đến một sơn thôn nhỏ ngồi xe bò giết thời gian? Cũng như các thần quan thiên giới ai cũng ngày bận ngàn việc chân không chạm đất, bọn họ cũng bận rộn lắm chứ!

    *Chân không chạm đất: ý nói đi rất nhanh, giống như mũi chân không chạm đất, ở trường hợp này có nghĩa là bận rộn chạy tới chạy lui liên tục.

    Tạ Liên bất chấp bịa ra vài câu như đúng rồi, cuối cùng bịa hết nổi, Tam Lang vẫn nhìn y không dời mắt, vừa nghe y nói bậy, vừa bật cười thật khẽ, điệu cười nghe đầy thâm ý, hỏi: “Còn gì nữa không? Hả?”

    Tạ Liên nhủ thầm không lẽ phải bịa nữa sao, nói: “Đệ còn muốn coi gì nữa?”

    Tam Lang nói: “Đã coi bói, chẳng phải ai cũng muốn coi nhân duyên sao?”

    Tạ Liên ho nhẹ một tiếng, nghiêm nghị nói: “Ta học nghệ chưa thông, không biết coi nhân duyên lắm. Có điều xem ra, đệ không cần lo lắng việc này đâu.”

    Tam Lang nhướn một bên lông mày, hỏi: “Tại sao huynh cảm thấy ta không cần lo lắng việc này?”

    Tạ Liên mỉm cười: “Chắc chắn sẽ có rất nhiều cô nương thích đệ rồi.”

    Tam Lang nói: “Vậy tại sao huynh cảm thấy chắc chắn sẽ có rất nhiều cô nương thích ta?”

    Tạ Liên đang định mở miệng trả lời theo đối phương, lại bỗng nhiên phát hiện ra, anh bạn nhỏ này đang tìm cách dẫn dụ mình mở miệng khen hắn, y vừa bất đắc dĩ vừa buồn cười, không biết nên nói gì cho phải, bèn xoa xoa ấn đường, nói: “Tam Lang à.”

    Đây là tiếng Tam Lang đầu tiên mà Tạ Liên mở miệng gọi. Nghe xong, thiếu niên nọ cười ha ha, cuối cùng tha cho y. Lúc này xe bò đã thở phì phò chạy vào trong thôn, Tạ Liên xoay người, khẽ nâng trán rồi vội vàng xuống xe. Tam Lang cũng nhảy xuống xe, ai ngờ Tạ Liên ngẩng đầu lên mới phát hiện, suốt chặng đường khi nãy Tam Lang đều lười biếng nằm trên xe bò, bây giờ hai người đứng cùng nhau thế này, Tam Lang ấy thế mà còn cao hơn y, hai người lại càng không có cách nào nhìn thẳng. Tam Lang đứng trước xe duỗi lưng một cái, Tạ Liên nói: “Tam Lang, đệ đi chỗ nào?”

    Tam Lang thở dài: “Không biết nữa. Chắc ngủ ngoài đường quá, hoặc tìm cái hang núi ở tạm cũng được.”

    Tạ Liên nói: “Vậy không được lắm nhỉ?”

    Tam Lang nhún vai, nói: “Hết cách thôi, ta lại không có nơi nào để đi.” Hắn nhìn sang đây, cười hai tiếng, nói: “Cảm ơn huynh coi bói cho ta. Nhận lời chúc phúc của huynh, hẹn ngày tái ngộ.”

    Nghe Tam Lang nhắc đến việc coi bói, Tạ Liên xấu hổ toát mồ hôi. Thấy đối phương xoay người đi thật, Tạ Liên vội nói: “Chờ đã, nếu đệ không chê, có muốn đến quán của ta không?”

    Bước chân khựng lại, Tam Lang xoay nửa người qua, hỏi: “Được ư?”

    Tạ Liên nói: “Gian nhà đó vốn dĩ cũng không phải của ta, nghe nói trước đây thường có nhiều người qua đêm ở đó. Chỉ là có lẽ nó còn thô sơ hơn đệ ngươi tưởng tượng, sợ đệ ở không được thôi.”

    Nếu thiếu niên này thật sự là tiểu công tử bỏ nhà ra đi, không thể cứ mặc hắn chạy loạn khắp nơi như thế được. Tạ Liên rất hoài nghi cả ngày hôm nay hắn chỉ ăn nửa cái bánh bao kia, người trẻ tuổi ỷ mình thân thể khỏe mạnh thỏa sức làm bậy, cứ theo đà này sớm muộn gì cũng có ngày té xỉu ngoài đường thật. Nghe Tạ Liên nói thế, bấy giờ Tam Lang mới xoay người lại, không trả lời mà đi tới trước mặt y, nửa người trên ngả về phía trước. Tạ Liên còn chưa rõ hắn muốn làm gì, chỉ cảm thấy khoảng cách giữa hai người bỗng gần nhau đến lạ, khiến y có chút đỡ không nổi.

    Tam Lang lại lùi về, ra là hắn chỉ tiện tay xách bọc đồng nát sắt vụn to đùng mà Tạ Liên vác về, nói: “Vậy đi thôi.”

    Chương 16: Áo đỏ hơn lá phong, da trắng như tuyết (4)

    Tạ Liên sửng sốt tại chỗ. Nhìn thiếu niên nọ thân hình mảnh khảnh nhưng lại giúp mình xách một bọc đồng nát lớn, còn xách thong thả ung dung như thế, khiến y liên tục nhủ thầm có lỗi quá có lỗi quá. Tam Lang bước vài bước đã đi ra ngoài, Tạ Liên đang định đuổi theo, sực nhớ ông cụ đánh xe còn nằm trên xe, y lập tức quay trở lại chạm tay cái nữa, đánh thức ông ta, căn dặn ông ta tuyệt đối đừng nói chuyện tối nay với ai. Dọc đường thấy bản lĩnh của y, ông cụ nghe một nào dám làm hai, gật đầu lia lịa rồi vội vàng kéo Lão Hoàng về nhà.

    Trên xe đẩy chỉ còn thừa lại một cuộn chiếu, Tạ Liên vác nó trên lưng, đến khi quay đầu lại, Tam Lang đã dùng một tay xách bọc đồ ngổn ngang to đùng đó, khoan thai bước lên sườn núi.

    Đến trước Bồ Tề quán xiêu vẹo xập xệ, Tam Lang vừa cúi đầu liền phì cười một tiếng, như thể trông thấy thứ gì thú vị lắm. Tạ Liên đến gần mới phát hiện, thứ mà Tam Lang đang nhìn chính là tấm bảng bản quán xập xệ nguy hiểm cầu quyên tiền kia, y ho khẽ một tiếng: “Đệ cũng thấy rồi, là như vậy đó. Cho nên lúc nãy ta mới nói, chắc đệ ở không quen đâu.”

    Tam Lang nói: “Tốt lắm mà.”

    Trước đây toàn là Tạ Liên nói “cũng thường thôi cũng thường thôi” với người khác, hôm nay thật sự là lần đầu tiên y nghe người khác nói như vậy với mình, cảm giác đúng là khó diễn tả. Cửa gỗ trước Bồ Tề quán đã mục nát từ lâu, Tạ Liên dỡ nó xuống thay bằng rèm, y bước lên vén rèm, nói: “Vào đi.” Tam Lang theo sau y, vào trong.

    Đồ đạc bày biện trong gian nhà gỗ nhỏ này nhìn một cái là thấy hết, chỉ có một bàn thờ hình chữ nhật, hai chiếc ghế gỗ nhỏ, một cái đệm hương bồ nhỏ, một chiếc hòm công đức. Tạ Liên nhận bọc đồ mà Tam Lang xách trong tay, đặt ống xăm, lư hương và giấy bút mua về lên bàn thờ, châm một cây nến đỏ mà lúc lượm đồng nát người ta thuận tay nhét cho, gian nhà thoáng cái sáng lên. Tam Lang tiện tay cầm lấy ống xăm, lắc lắc rồi buông xuống, hỏi: “Vậy nên, có giường không?”

    Tạ Liên xoay người, lặng lẽ đặt cuộn chiếu trên lưng xuống, đưa cho Tam Lang nhìn.

    Tam Lang nhướn một bên lông mày, hỏi: “Chỉ có một tấm thôi à?”

    Trên đường trở về từ trấn trên, Tạ Liên mới gặp phải thiếu niên này, tất nhiên không nghĩ rằng sớm nên mua thêm một tấm. Y nói: “Nếu đệ không ngại, tối nay chúng ta có thể chen chúc một tí.”

    Tam Lang đáp: “Cũng được.”

    Tạ Liên lấy chổi quét sàn lần nữa, Tam Lang nhìn quanh quán một vòng, nói: “Ca ca, trong quán của huynh, có phải thiếu chút đồ không?”

    Tạ Liên quét sàn xong, đang ngồi xổm dưới đất trải chiếu ra, nghe vậy bèn vừa trải vừa nói: “Ta nghĩ, ngoại trừ tín đồ, hẳn là không thiếu gì cả.”

    Tam Lang cũng ngồi xổm xuống, một tay chống cằm, hỏi: “Tượng thần đâu?”

    Được hắn nhắc nhở, bấy giờ Tạ Liên mới sực nhớ, mình thế mà lại quên thứ quan trọng nhất — Tượng thần!

    Quán không có tượng thần thì còn là quán gì nữa? Tuy rằng bản tôn Tạ Liên ở đây, nhưng đâu thể bảo y tự ngồi lên bàn thờ mỗi ngày.

    Suy tư chốc lát, Tạ Liên đã tìm được cách giải quyết, nói: “Mới nãy có mua giấy bút, ngày mai ta vẽ một bức chân dung treo lên vậy.”

    Tự mình vẽ chân dung cho mình treo trong quán của mình, nếu việc này truyền lên thiên giới, đoán chừng sẽ lại bị cười vào mặt mười năm. Nhưng mà điêu khắc một pho tượng thần vừa tốn tiền vừa tốn thời gian, so ra, Tạ Liên thà chọn bị cười vào mặt mười năm. Ai ngờ, Tam Lang nói: “Vẽ tranh? Ta biết nè, cần giúp không?”

    Tạ Liên sửng sốt, cười nói: “Vậy cảm ơn đệ trước, nhưng ta sợ đệ không biết vẽ tranh Thái tử Tiên Lạc đâu.” Suy cho cùng, tranh chân dung của y đã gần như bị đốt sạch vào tám trăm năm trước, mà bất luận bây giờ may mắn còn lại bao nhiêu, chỉ sợ chẳng có mấy ai từng xem qua. Tam Lang lại nói: “Dĩ nhiên ta biết rồi. Khi nãy chúng ta ở trên xe, không phải đang nói đến vị Thái tử điện hạ đó sao?”

    Tạ Liên nhớ lại, đúng là thế thật, khi nãy trên đường đi, y nói “chắc đệ không biết đâu”, mà Tam Lang lại không trả lời. Bây giờ nghe hắn nói vậy, Tạ Liên không khỏi lấy làm lạ. Trải chiếu xong, y đứng thẳng dậy, hỏi: “Chẳng lẽ Tam Lang đệ thật sự biết y?”

    Tam Lang ngồi trên chiếu, đáp: “Biết chứ.”

    Nét mặt và giọng điệu khi nói chuyện của thiếu niên này trông hết sức thú vị. Hắn thường xuyên mỉm cười, quả thật khó mà phân rõ, rốt cuộc nụ cười của hắn là thật lòng thật dạ, hay đang mỉa mai đối phương không đáng nhắc tới. Sau cả chặng đường nghe Tam Lang kể chuyện trên trời dưới đất, Tạ Liên vẫn có chút hứng thú với đánh giá của đối phương, y ngồi xuống bên cạnh, hỏi: “Vậy, đối với vị Thái tử Tiên Lạc này, Tam Lang đệ có quan điểm thế nào?”

    Hai người ngồi đối diện dưới đèn, nến đỏ bập bùng ánh lửa. Tam Lang đưa lưng về phía ánh nến, đôi mắt đen láy chìm trong bóng mờ, không thấy rõ sắc mặt.

    Lát sau, hắn nói: “Ta cảm thấy, chắc chắn Quân Ngô ghét y lắm.”

    Không ngờ lại nhận được câu trả lời này, Tạ Liên sửng sốt, hỏi: “Tại sao đệ lại cho là thế?”

    Tam Lang nói: “Bằng không tại sao lại đày y xuống tận hai lần?”

    Nghe vậy, Tạ Liên mỉm cười, nghĩ thầm: “Quả là cách nghĩ của trẻ con.”

    Y cúi đầu, vừa chậm rãi cởi đai áo vừa nói: “Việc này không liên quan đến ghét hay không ghét. Trên đời có rất nhiều chuyện không thể đơn giản dùng ghét và thích để giảng giải.”

    Tam Lang nói: “Ồ.”
    Tạ Liên xoay người, tháo giày trắng, nói tiếp: “Huống chi đã làm sai thì phải nhận trừng phạt, hai lần đó Đế Quân chỉ làm tròn bổn phận mà thôi.”

    Tam Lang từ chối cho ý kiến: “Chắc thế.”

    Bên này Tạ Liên cởi áo ngoài ra, gấp gọn gàng chuẩn bị đặt lên bàn thờ, còn định nói thêm đôi câu, nhưng vừa ngoảnh đầu chỉ thấy ánh mắt của Tam Lang đang dừng trên chân mình.

    Ánh mắt ấy kỳ dị khó tả, nói là lạnh buốt, nhưng lại cảm thấy nóng hổi đâm người; nói là nóng cháy, thì lại loáng thoáng để lộ ý lạnh. Tạ Liên cúi đầu nhìn, trong lòng đã tỏ tường. Thứ mà thiếu niên này nhìn, chính là gông nguyền rủa màu đen trên mắt cá chân phải của y.

    Suy tư chốc lát, Tạ Liên đã tìm được cách giải quyết, nói: “Mới nãy có mua giấy bút, ngày mai ta vẽ một bức chân dung treo lên vậy.”

    Tự mình vẽ chân dung cho mình treo trong quán của mình, nếu việc này truyền lên thiên giới, đoán chừng sẽ lại bị cười vào mặt mười năm. Nhưng mà điêu khắc một pho tượng thần vừa tốn tiền vừa tốn thời gian, so ra, Tạ Liên thà chọn bị cười vào mặt mười năm. Ai ngờ, Tam Lang nói: “Vẽ tranh? Ta biết nè, cần giúp không?”

    Tạ Liên sửng sốt, cười nói: “Vậy cảm ơn đệ trước, nhưng ta sợ đệ không biết vẽ tranh Thái tử Tiên Lạc đâu.” Suy cho cùng, tranh chân dung của y đã gần như bị đốt sạch vào tám trăm năm trước, mà bất luận bây giờ may mắn còn lại bao nhiêu, chỉ sợ chẳng có mấy ai từng xem qua. Tam Lang lại nói: “Dĩ nhiên ta biết rồi. Khi nãy chúng ta ở trên xe, không phải đang nói đến vị Thái tử điện hạ đó sao?”

    Tạ Liên nhớ lại, đúng là thế thật, khi nãy trên đường đi, y nói “chắc đệ không biết đâu”, mà Tam Lang lại không trả lời. Bây giờ nghe hắn nói vậy, Tạ Liên không khỏi lấy làm lạ. Trải chiếu xong, y đứng thẳng dậy, hỏi: “Chẳng lẽ Tam Lang đệ thật sự biết y?”

    Tam Lang ngồi trên chiếu, đáp: “Biết chứ.”

    Nét mặt và giọng điệu khi nói chuyện của thiếu niên này trông hết sức thú vị. Hắn thường xuyên mỉm cười, quả thật khó mà phân rõ, rốt cuộc nụ cười của hắn là thật lòng thật dạ, hay đang mỉa mai đối phương không đáng nhắc tới. Sau cả chặng đường nghe Tam Lang kể chuyện trên trời dưới đất, Tạ Liên vẫn có chút hứng thú với đánh giá của đối phương, y ngồi xuống bên cạnh, hỏi: “Vậy, đối với vị Thái tử Tiên Lạc này, Tam Lang đệ có quan điểm thế nào?”

    Hai người ngồi đối diện dưới đèn, nến đỏ bập bùng ánh lửa. Tam Lang đưa lưng về phía ánh nến, đôi mắt đen láy chìm trong bóng mờ, không thấy rõ sắc mặt.

    Lát sau, hắn nói: “Ta cảm thấy, chắc chắn Quân Ngô ghét y lắm.”

    Không ngờ lại nhận được câu trả lời này, Tạ Liên sửng sốt, hỏi: “Tại sao đệ lại cho là thế?”

    Tam Lang nói: “Bằng không tại sao lại đày y xuống tận hai lần?”

    Nghe vậy, Tạ Liên mỉm cười, nghĩ thầm: “Quả là cách nghĩ của trẻ con.”

    Y cúi đầu, vừa chậm rãi cởi đai áo vừa nói: “Việc này không liên quan đến ghét hay không ghét. Trên đời có rất nhiều chuyện không thể đơn giản dùng ghét và thích để giảng giải.”

    Tam Lang nói: “Ồ.”

    Tạ Liên xoay người, tháo giày trắng, nói tiếp: “Huống chi đã làm sai thì phải nhận trừng phạt, hai lần đó Đế Quân chỉ làm tròn bổn phận mà thôi.”

    Tam Lang từ chối cho ý kiến: “Chắc thế.”

    Bên này Tạ Liên cởi áo ngoài ra, gấp gọn gàng chuẩn bị đặt lên bàn thờ, còn định nói thêm đôi câu, nhưng vừa ngoảnh đầu chỉ thấy ánh mắt của Tam Lang đang dừng trên chân mình.

    Ánh mắt ấy kỳ dị khó tả, nói là lạnh buốt, nhưng lại cảm thấy nóng hổi đâm người; nói là nóng cháy, thì lại loáng thoáng để lộ ý lạnh. Tạ Liên cúi đầu nhìn, trong lòng đã tỏ tường. Thứ mà thiếu niên này nhìn, chính là gông nguyền rủa màu đen trên mắt cá chân phải của y.

    Gông nguyền rủa thứ nhất quấn quanh cần cổ, gông nguyền rủa thứ hai thì buộc chặt cổ chân. Hai gông nguyền rủa này, cái nào cũng xích chỗ không phù hợp mà còn không thể che. Trước đây nếu người ngoài hỏi, Tạ Liên thường sẽ đáp bậy đây là đồ cần dùng cho luyện công, nhưng nếu anh bạn Tam Lang này hỏi, sợ rằng không dễ qua mặt như thế.

    Tuy nhiên, Tam Lang chỉ nhìn chằm chằm mắt cá chân của y một hồi chứ không nhiều lời. Tạ Liên cũng không xoắn xuýt việc này nữa, nằm xuống. Thiếu niên nọ cũng ngoan ngoãn nằm xuống cạnh y, mặc áo mà nằm, đoán chừng không có thói quen cởi áo ngủ dưới đất. Tạ Liên nghĩ bụng, mai mốt vẫn phải tìm cái giường mới được, y nói: “Nghỉ ngơi đi.”

    Thổi nhẹ một hơi, nến đỏ lụi tắt.

    Sáng hôm sau, Tạ Liên mở mắt ra, Tam Lang không nằm bên cạnh, mà khi ngẩng đầu nhìn lên, lòng y tức thì chấn động. Phía trên bàn thờ, thế mà lại treo một bức chân dung.

    Bức chân dung này, vẽ một nam tử thân mặc hoa phục, đeo mặt nạ vàng ròng, một tay cầm kiếm, một tay cầm hoa. Bút lực tuyệt vời, dùng màu tuyệt vời.

    Chính là bức “Thái tử Tiên Lạc Duyệt Thần”.

    Đã rất nhiều năm không thấy bức họa này, Tạ Liên nhìn mà ngơ ngác cả buổi trời, hồi lâu sau mới đứng dậy, mặc quần áo tử tế, vén rèm lên. Tam Lang ở ngay bên ngoài, đang đứng tựa dưới bóng mờ, vừa xoay chơi cây chổi trong tay, vừa chán chường nhìn lên bầu trời.

    Thiếu niên này có vẻ không thích ánh sáng mặt trời cho lắm, điệu bộ hắn nhìn trời cứ như đang nghĩ xem làm thế nào để lôi vầng thái dương kia xuống giẫm nát bấy vậy. Ngoài cửa có một chồng lá rụng, tất cả đều bị quét gọn chất chung một chỗ. Tạ Liên ra khỏi cửa, hỏi: “Tối qua nghỉ ngơi tốt không?”

    Tam Lang vẫn tựa vào tường, quay đầu sang nói: “Không tệ.”

    Tạ Liên đi tới, nhận cây chổi trong tay hắn, hỏi: “Tam Lang, bức chân dung trong quán là đệ vẽ ư?”

    Tam Lang nói: “Ừ.”

    Tạ Liên nói: “Vẽ đẹp lắm.”

    Tam Lang nhếch khóe miệng, không nói gì thêm. Chẳng biết có phải do ngủ bừa ngủ bạ một đêm không mà hôm nay tóc hắn buộc càng lệch hơn, xõa tung lỏng lẻo, vô cùng tùy ý, nhưng thật tình cũng đẹp vô cùng, tùy ý mà không mất trật tự, trái lại thêm vài phần khôi ngô. Tạ Liên chỉa chỉa tóc mình, hỏi: “Muốn ta giúp đệ không?”

    Tam Lang gật đầu, theo Tạ Liên vào quán. Chờ Tam Lang ngồi xuống, Tạ Liên gỡ tóc của hắn ra, cầm mái tóc đen đó trong tay, lẳng lặng quan sát thật kỹ.

    Mặc dù chỉ tay và dấu vân tay được làm hoàn hảo không tỳ vết, nhưng lũ yêu ma quỷ quái rồi cũng có chỗ xuất hiện sơ hở. Tóc của một người sống, đếm cỡ nào cũng đếm không xuể, hơn nữa mỗi sợi đều được chia một cách tỉ mỉ và rõ rệt. Mà túi da giả do nhiều yêu ma quỷ quái ngụy tạo, tóc của chúng nó hoặc là một đám mây đen, hoặc là dính thành một mảng lớn, trông hệt như một miếng vải bố, còn không thì… dứt khoát làm thằng hói luôn.

    Tối qua đã xác nhận chỉ tay và dấu vân tay, vốn dĩ Tạ Liên đã lơi lỏng cảnh giác, nhưng sáng nay nhìn bức chân dung kia, y không khỏi nảy sinh chút hoài nghi.

    Không phải vẽ không tốt, mà bởi vì vẽ quá tốt, nên y mới thấy lạ.

    Nhưng mà, tay y chỉ nhẹ nhàng ma sát giữa mái tóc của Tam Lang, chậm rãi dò xét, tóc của thiếu niên này đen mượt dài thẳng, rõ ràng không hề có gì khác thường. Hồi lâu sau, không biết có phải bị y mò mẫm đến phát ngứa hay không, Tam Lang bật cười một tiếng, khẽ nghiêng đầu liếc nhìn y, hỏi: “Ca ca, huynh đang giúp ta buộc tóc hay đang muốn làm gì khác nha?”

    Tóc dài của hắn xõa xuống, không hề mất vẻ tuấn tú, còn vô cớ nhiều thêm vài phần tà khí. Nghe đối phương hỏi như đang trêu chọc, Tạ Liên mỉm cười nói: “Được rồi.” Sau đó nhanh chóng giúp hắn buộc tóc lên.

    Nào ngờ buộc xong, Tam Lang nhìn chậu nước bên cạnh rồi quay đầu nhướn mày với Tạ Liên. Tạ Liên nhìn xong cũng ho nhẹ một tiếng, đưa tay xoa xoa ấn đường.

    Mái tóc này, lúc nãy buộc đã lệch, bây giờ buộc lại, vẫn lệch.

    Mặc dù không nói tiếng nào, song Tam Lang vẫn cứ nhìn y chằm chằm, Tạ Liên cảm thấy ít nhất cũng có vài trăm năm mình chưa lúng túng như thế, y thả tay xuống, đang định nói đệ qua đây chúng ta làm lại lần nữa, chỉ nghe ngoài cửa ồn ào huyên náo, tiếng người và tiếng bước chân vang khắp bốn phía, vài tiếng hét lớn truyền đến: “Đại tiên!!!”

    Tạ Liên nghe mà giật mình, vội vàng chạy ra xem thử, chỉ thấy một đống người chặn ngoài cửa, ai nấy cũng tỏ ra kích động, mặt mũi đỏ bừng, thôn trưởng dẫn đầu bước một bước dài nhào tới, túm lấy tay y, nói: “Đại tiên! Thôn chúng ta thế mà lại có thần tiên sống đến, thật sự quá tốt rồi!!!”

    Tạ Liên: “???”

    Các thôn dân còn lại đã lũ lượt vây quanh đây: “Đại tiên, hoan nghênh đến trú ngụ tại thôn Bồ Tề của chúng ta!”

    “Đại tiên! Ngài có thể phù hộ ta cưới được vợ ta không?!”

    “Đại tiên! Ngài có thể phù hộ vị nhà ta mau mau sinh một đứa không?!”

    “Đại tiên! Chỗ ta có củ năng tươi ngon nè! Ăn củ năng không?!”

    Các thôn dân quá đỗi nhiệt tình, Tạ Liên bị vây công đến mức liên tục lùi ra sau, trong lòng kêu khổ. Ông cụ tối qua đúng là miệng rộng, rõ ràng đã dặn đừng nói với ai, sáng nay lập tức truyền khắp cả thôn rồi!

    Chương 17: Ở Bồ Tề quán kể chuyện ma quỷ nơi cửa ải Bán Nguyệt

    Tuy hoàn toàn không biết trong quán này thờ thần tiên phương nào, các thôn dân vẫn tới tấp đòi dâng một nén nhang, nói chung tiên gì cũng là tiên, bái một cái cũng sẽ không hại gì. Cảnh tượng mà trước đó Tạ Liên dự liệu chính là vắng như chùa bà đanh, quanh năm suốt tháng cũng chẳng có mấy người đến thăm, vậy nên y chỉ tỏ chút lòng thành, chuẩn bị vài bó nhang sợi, ai ngờ mới chớp mắt đã bị chia hết sạch, cắm chi chít trong lư hương nhỏ xíu, mùi nhang nồng nặc khắp phòng, do đã lâu không ngửi được mùi này, Tạ Liên còn sặc vài tiếng, vừa sặc vừa nói: “Các vị hương thân, thật sự không thể phù hộ tiền vô như nước, thật đó, làm ơn đừng cầu xin tiền tài ở đây! Hậu quả không thể lường được đâu…” “Xin lỗi, không lo cả việc nhân duyên nhé…” “Không không không, không thể phù hộ sinh con dưỡng cái được luôn.”

    Mặc kệ mái tóc bị Tạ Liên buộc lệch, Tam Lang ngồi cạnh hòm công đức, một tay chống cằm, một tay chậm rãi ném củ năng vào miệng ăn. Nhiều thôn nữ vừa nhìn thấy thiếu niên này, mặt mày tức thì đỏ như gấc, nói với Tạ Liên: “Mà nè, huynh có…”

    Tuy rằng không biết các nàng muốn nói gì, nhưng trực giác nói cho Tạ Liên biết nhất định phải ngừng ngay, y vội nói: “Không có!”

    Vất vả lắm thôn dân mới giải tán, trên bàn thờ đã chất đầy dưa quả, rau cải, thậm chí cả cơm tẻ và mì sợi. Bất luận nói như thế nào, nhìn chung cũng được cung phụng một mớ. Tạ Liên quét những vật linh tinh mà thôn dân ném dưới đất ra ngoài, Tam Lang cũng đi ra theo y, nói: “Nhang đèn khá đấy chứ.”

    Tạ Liên vừa quét vừa lắc đầu: “Tình huống đột phát ngoài ý muốn thôi. Bình thường thì chắc mười ngày nửa tháng cũng chẳng ai hỏi han.”

    Tam Lang nói: “Sao lại thế?”

    Tạ Liên nhìn hắn một cái, cười đáp: “Xem ra, có khả năng là hưởng nhờ vận khí của Tam Lang.”

    Nói đoạn, sực nhớ phải thay rèm cửa, Tạ Liên lấy ra một tấm rèm mới trong tay áo, mắc lên cửa. Lùi lại hai bước, cân nhắc chốc lát, y bỗng chú ý đến Tam Lang đã ngừng chân, bèn quay đầu hỏi: “Sao vậy?”

    Chỉ thấy Tam Lang nhìn chằm chằm tấm rèm cửa, ra chiều nghiền ngẫm. Nhìn theo ánh mắt của hắn, Tạ Liên phát hiện, hắn đang nhìn bùa chú vẽ trên rèm.

    Bùa này là lúc trước Tạ Liên thuận tay vẽ, bên trên chằng chịt bùa chú, khí thế uy nghiêm, vốn dĩ dùng để trừ tà, có thể đẩy lùi sự xâm phạm của tà vật từ thế giới bên ngoài. Nhưng do nó được Tạ Liên tự tay viết, có khi nào mang luôn công hiệu gọi mời vận rủi không thì chưa biết. Chỉ là nếu đã không có cửa, vậy vẽ một đống bùa chú lên rèm cũng khá là an toàn.

    Mắt thấy Tam Lang đứng yên không nhúc nhích trước tấm rèm vẽ đầy bùa chú, trong lòng Tạ Liên khẽ động, cất tiếng gọi: “Tam Lang?”

    Lẽ nào mình vẽ bùa chú này nên Tam Lang bị chặn ở ngoài cửa, không thể vào trong?

    Tam Lang đưa mắt nhìn Tạ Liên, cười một tiếng, nói: “Ta đi đây một lát.”

    Hắn thản nhiên bỏ lại một câu rồi xoay người đi mất. Theo lý thuyết, Tạ Liên hẳn nên đuổi theo hỏi mới đúng, nhưng không hiểu sao y có cảm giác rất lạ, y cảm thấy nếu thiếu niên này đã nói đi một lát thì sẽ không đi quá lâu, tất nhiên sẽ quay trở về, vì vậy tự mình vào quán trước.

    Tạ Liên lục lọi đống đồ tối qua mình lượm khắp hang cùng ngõ hẻm, tay trái móc ra một cái nồi sắt, tay phải lấy ra một con dao phay, nhìn mớ dưa quả và rau cải trên bàn thờ, y đứng dậy.

    Qua chừng một nén nhang, ngoài Bồ Tề quán quả nhiên vang lên tiếng bước chân. Tiếng bước chân này không nhanh không chậm, vừa nghe là tưởng tượng được dáng vẻ ung dung tự tại của thiếu niên nọ khi đi đường.

    Bấy giờ, những thứ Tạ Liên cầm trong tay đã biến thành hai dĩa, y ngó tới ngó lui mấy thứ trong dĩa, sau đó thở dài một tiếng, không muốn nhìn nữa, vừa đi ra ngoài, quả nhiên lại trông thấy Tam Lang.

    Thiếu niên nọ đứng ở ngoài quán, có lẽ do nắng gắt quá, hắn cởi chiếc áo đỏ kia ra, cột tạm quanh hông, thân trên chỉ mặc một chiếc áo trắng đơn giản, tay áo xắn lên, cả người trông gọn gàng mà thoải mái. Hắn giẫm chân phải lên một tấm ván gỗ hình chữ nhật, tay trái xoay một con dao chẻ củi. Con dao đó ắt hẳn mượn từ nhà thôn dân nào đó, thoạt nhìn vừa cùn vừa nặng, nhưng nằm trong tay hắn, nó chẳng những dễ dùng mà còn có vẻ sắc lẹm, thỉnh thoảng vót vài nhát trên ván gỗ như vót da. Thiếu niên liếc mắt nhìn sang, thấy Tạ Liên đi ra bèn nói: “Làm chút đồ.”

    Tạ Liên đi qua xem thử, Tam Lang thế mà đang làm một cánh cửa, hơn nữa còn làm kích cỡ vừa khít, chỉn chu đẹp mắt, mặt vót cực kỳ trơn nhẵn, tay nghề đúng là miễn chê. Do lai lịch của thiếu niên này có vẻ không tầm thường, Tạ Liên cứ ngỡ đối phương hẳn thuộc loại hình ngũ cốc bất phân tứ chi bất cần*, ai ngờ hắn làm việc lại lưu loát khéo léo đến thế. Y nói: “Cực thân đệ rồi, Tam Lang.”

    *Ngũ cốc bất phân tứ chi bất cần (không phân biệt được ngũ cốc, tay chân không chăm chỉ): ý nói những người thiếu hụt kiến thức lao động.

    Tam Lang mỉm cười, không tiếp lời, tiện tay ném dao chẻ củi đi rồi lắp cửa giúp Tạ Liên, đoạn gõ cánh cửa nọ, nói: “Nếu đã vẽ bùa, vẽ trên cửa chẳng phải tốt hơn sao?”

    Nói xong, hắn vén rèm bước vào như không có việc gì.

    Xem ra, đống bùa chú nghiêm ngặt trên rèm quả thật không có bất cứ sức uy hiếp nào với Tam Lang, Tam Lang cũng chẳng buồn để ý.

    Tạ Liên đóng cánh cửa mới, kiềm lòng không đặng mở ra rồi lại đóng, rồi lại mở ra rồi lại đóng, nhủ thầm cửa này làm tốt ghê. Đóng mở như thế vài lần, y bỗng giật mình choàng tỉnh, cảm thấy mình đúng là tẻ nhạt. Bên kia, Tam Lang đã vào trong ngồi, Tạ Liên buông cánh cửa, bưng dĩa bánh bao mà sáng sớm thôn dân dâng lễ cúng, đặt lên bàn thờ.

    Tam Lang nhìn thoáng qua bánh bao, không nói gì mà chỉ cười khẽ một tiếng, dường như nhìn thấu điều gì đó. Tạ Liên điềm nhiên rót thêm hai chén nước, đang định ngồi xuống thì trông thấy chỗ tay áo vén lên của Tam Lang, trên cánh tay có một hình xăm nhỏ, xăm văn tự hết sức kỳ dị. Phát hiện ánh mắt của y, Tam Lang vuốt tay áo xuống, cười nói: “Hồi nhỏ xăm.”
    Đã vuốt tay áo xuống, tức là không muốn nhiều lời, Tạ Liên hiểu. Y ngồi xuống, ngẩng đầu nhìn bức chân dung kia, nói: “Tam Lang, đệ vẽ tranh đẹp quá, ở nhà có người dạy đệ hả?”

    Tam Lang dùng đũa chọt mấy cái bánh bao, nói: “Không có ai dạy hết. Ta tự vẽ chơi cho vui.”

    Tạ Liên nói: “Sao ngay cả tranh Thái tử Tiên Lạc Duyệt Thần mà đệ cũng biết vẽ vậy?”

    Tam Lang cười nói: “Chẳng phải huynh nói cái gì ta cũng biết sao? Thế đương nhiên cũng biết vẽ thế nào rồi.”

    Dù rằng kiểu trả lời này quá sức vô lại, nhưng thái độ của hắn lại bình tĩnh như thường, dường như không hề sợ Tạ Liên đem lòng sinh nghi, cũng chẳng sợ Tạ Liên chất vấn, Tạ Liên cũng chỉ mỉm cười không nhắc tới nữa. Đúng lúc này, bên ngoài truyền đến một trận tiếng động ồn ào, hai người không hẹn mà cùng ngẩng đầu nhìn nhau.

    Chỉ nghe bên ngoài có người gõ cửa ầm ầm, nói: “Đại tiên ơi! Nguy rồi, đại tiên cứu mạng với!”

    Tạ Liên mở cửa ra xem, cả đám người đứng thành một vòng trước cửa. Thấy y mở cửa, thôn trưởng mừng rỡ nói: “Đại tiên ơi! Người này hình như sắp chết! Ngài mau cứu hắn đi ”

    Vừa nghe có người sắp chết, Tạ Liên vội vã tới xem, chỉ thấy cả đám thôn dân vây quanh một đạo nhân, đầu bù mặt bẩn, cát vàng đầy người, quần áo và giày dưới chân rách tả tơi, dường như đã lang bạt nhiều ngày, rốt cuộc về đây chống hết nổi mà ngất xỉu, sau cùng mới được đưa tới nơi này. Tạ Liên nói: “Đừng hoảng, không chết đâu.” Nói đoạn, y cúi người chấm vài cái lên người đạo nhân nọ. Trong lúc đó, y phát hiện trên người đạo nhân có đeo một ít vật như gương bát quái và kiếm sắt, tất cả đều là pháp khí hữu hiệu, xem ra không phải đạo nhân giang hồ bình thường, lòng y không khỏi chùng xuống. Không lâu sau, đạo nhân nọ quả nhiên từ từ tỉnh lại, khản giọng hỏi: “… Đây là đâu?”

    Thôn trưởng nói: “Đây là thôn Bồ Tề!”

    Đạo nhân kia lẩm bẩm: “… Ra rồi, ta ra rồi, cuối cùng trốn ra được rồi…”

    Gã nhìn khắp xung quanh, bỗng nhiên trợn to mắt, hoảng loạn nói: “Cứu, cứu mạng với, cứu mạng với!”

    Đối với kiểu phản ứng này, Tạ Liên đã sớm lường trước, y nói: “Vị đạo hữu này, rốt cuộc xảy ra chuyện gì, cứu mạng ai, chuyện như thế nào, ngươi đừng gấp, cứ từ từ nói rõ ràng.”

    Chúng thôn dân cũng nói: “Đúng đó ngươi không phải sợ, chỗ chúng ta có đại tiên, ngài nhất định sẽ giải quyết tất tần tật cho ngươi!”

    Tạ Liên: “???”

    Thật ra các thôn dân chưa thấy Tạ Liên thể hiện thần uy gì, nhưng vẫn xem y là thần tiên sống như đúng rồi, Tạ Liên cũng không biết nên nói gì cho phải, nghĩ thầm: “Giải quyết tất tần tật, cái này thật tình không dám đảm bảo à nha.” Y hỏi đạo nhân kia: “Ngươi từ đâu đến?”

    Đạo nhân kia nói: “Ta… ta đến từ cửa ải Bán Nguyệt!”

    Nghe vậy, mọi người đưa mắt nhìn nhau: “Cửa ải Bán Nguyệt là nơi nào?” “Chưa nghe bao giờ!”

    Tạ Liên nói: “Cửa ải Bán Nguyệt nằm ở vùng Tây Bắc, cách nơi này rất xa. Ngươi đến đây bằng cách nào?”

    Đạo nhân kia nói: “Ta… ta vất vả lắm mới trốn tới được.”

    Gã nói năng không đầu không đuôi, tâm trạng cực kỳ bất ổn. Trước tình hình này, xung quanh càng đông người càng khó nói chuyện, bảy miệng tám lưỡi (nhiều người chen nhau nói), nói không rõ mà nghe cũng chẳng xong, Tạ Liên nói: “Vào trong hẵng nói.”

    Y nhẹ nhàng nâng đạo nhân kia dậy, đỡ vào trong nhà, đoạn xoay người nói với các thôn dân: “Mời mọi người về cho, đừng vây xem nữa.”

    Chúng thôn dân hết sức nhiệt tình: “Đại tiên, rốt cuộc làm sao vậy!” “Đúng đó, rốt cuộc xảy ra chuyện gì thế?” “Có gì khó khăn mọi người sẽ giúp một tay!”

    Bọn họ càng nhiệt tình, e rằng càng không giúp được gì. Tạ Liên không còn cách nào, chỉ đành hạ giọng, nghiêm túc nói: “Kiểu này… chắc bị trúng tà rồi.”

    Các thôn dân nghe mà hãi hùng. Trúng tà thì chết dở! Thôi đừng xem thì hơn, giải tán lẹ cho lành. Tạ Liên dở khóc dở cười đóng cửa lại, Tam Lang vẫn ngồi cạnh bàn thờ, xoay chơi đũa trong tay. Hắn liếc nhìn đạo nhân nọ, ánh mắt chứa đầy ý thăm dò, Tạ Liên nói với hắn: “Không có gì đâu, đệ ăn tiếp đi.”

    Tạ Liên bảo đạo nhân kia ngồi xuống, mình thì đứng nói: “Vị đạo hữu này, ta là quán chủ của nơi đây, cũng xem như là người tu hành. Ngươi đừng căng thẳng, có chuyện gì thì cứ nói. Nếu có chỗ nào giúp được, biết đâu ta có thể góp chút sức. Khi nãy ngươi nói, rốt cuộc cửa ải Bán Nguyệt xảy ra chuyện gì?”

    Đạo nhân kia thở hổn hển mấy hơi, như thể đến nơi ít người mà còn nghe được lời y trấn an, cuối cùng cũng bình tĩnh lại, nói: “Ngươi chưa từng nghe về nơi đó sao?”

    Tạ Liên đáp: “Nghe rồi. Cửa ải Bán Nguyệt nằm trên một ốc đảo trong sa mạc, cảnh đêm trăng khuyết mỹ lệ khôn tả, có thể nói là cảnh đẹp lộng lẫy tráng lệ, vậy nên mới có tên này.”

    *Bán Nguyệt = nửa vầng trăng, trăng khuyết.

    Đạo nhân kia nói: “Ốc đảo? Cảnh đẹp? Đó là chuyện của một hai trăm năm trước rồi, bây giờ gọi nó là cửa ải Bán Mệnh (nửa cái mạng) cũng không kém là bao!”

    Tạ Liên sửng sốt, hỏi: “Sao lại nói thế?”

    Đạo nhân kia mặt mày xanh mét, xanh đến phát sợ, nói: “Bởi vì mặc kệ ai từ đâu đi qua đó, ít nhất cũng sẽ có phân nửa số người biến mất không thấy tăm hơi, không phải cửa ải Bán Mệnh thì là gì?”

    Chuyện này đúng là chưa từng nghe bao giờ. Tạ Liên hỏi: “Cái này là nghe ai nói?”

    Đạo nhân kia đáp: “Không phải nghe ai nói, là ta tận mắt chứng kiến!” Gã ngồi dậy, nói: “Có một đội buôn muốn đi ngang qua đó, biết chỗ đó quỷ quái nên mời cả sư môn chúng ta hộ tống một chuyến, kết quả… ” Gã căm uất nói: “Kết quả sau chuyến này, chỉ còn lại một mình ta!”

    Tạ Liên nhấc tay, ý bảo gã ngồi yên đừng kích động, nói: “Nhóm các ngươi có bao nhiêu người?”

    Đạo nhân kia đáp: “Cả sư môn của ta cộng thêm đội buôn, khoảng hơn sáu mươi người!”

    Hơn sáu mươi người. Trong một trăm năm nữ quỷ Tuyên Cơ tác loạn, cuối cùng điện Linh Văn tính được số người sống bị giết hại cũng chưa đến hai trăm, mà nghe lời kể của gã đạo nhân, những chuyện thế này có vẻ đã kéo dài hơn một trăm năm, nếu lần nào cũng có nhiều người mất tích như vậy, cộng dồn lại thật sự không phải chuyện đùa. Tạ Liên hỏi: “Cửa ải Bán Nguyệt biến thành cửa ải Bán Mệnh là chuyện bắt đầu từ khi nào?”

    Đạo nhân kia nói: “Khoảng chừng, một trăm năm mươi năm trước, kể từ sau khi nơi đó biến thành địa bàn của một yêu đạo.”

    Tạ Liên còn định hỏi chi tiết về chuyện những người bị giết hại trong chuyến đi lần này và “yêu đạo” trong miệng gã đạo nhân, song từ lúc nói chuyện với nhau đến bây giờ, lòng y vẫn mơ hồ cảm thấy có chỗ nào không ổn. Nói đến đây, làm cách nào cũng không che giấu được cảm giác quái dị trong lòng, y bèn dừng câu chuyện, khẽ nhíu mày.

    Lúc này, Tam Lang bỗng nhiên hỏi một câu.

    Hắn hỏi: “Ngươi trốn một mạch từ cửa ải Bán Nguyệt về đây à?”

    Đạo nhân kia nói: “Đúng thế, ôi! Cửu tử nhất sinh đấy.”

    Tam Lang “ồ” một tiếng, không nói gì nữa, nhưng chỉ cần câu này, Tạ Liên đã phát hiện lạ chỗ nào.

    Y xoay người lại, dịu giọng nói: “Vậy ngươi trốn một mạch về đây, chắc chắn khát nước rồi.”

    Đạo nhân kia sững người, mà Tạ Liên đã đặt một chén nước trước mặt gã, nói: “Ở đây có nước, vị đạo hữu này, uống một hớp đi.”

    Đối diện với chén nước, sắc mặt gã đạo nhân chợt lóe một tia do dự. Tạ Liên đứng bên cạnh, hai tay giấu trong tay áo, lẳng lặng chờ đợi.

    Gã đạo nhân này đến từ Tây Bắc, lại còn là hoảng loạn chạy trối chết suốt một đường, tất phải khát nước đói bụng, nhìn dáng vẻ của gã cũng không giống đã từng nhàn nhã ăn cơm uống nước trên đường.

    Nhưng mà sau khi tỉnh lại và nói nhiều lời như thế, từ đầu chí cuối gã lại không hề đưa ra bất luận yêu cầu uống nước ăn cơm nào. Sau khi vào quán, đối mặt với thức ăn nước uống trên bàn thờ, gã cũng chẳng có chút tham muốn gì, thậm chí còn chẳng buồn ngó đến.

    Thế này quả thật, không giống người sống chút nào.

    Chương 18: Ở Bồ Tề quán kể chuyện ma quỷ nơi cửa ải Bán Nguyệt (2)

    Dưới ánh nhìn dò xét của hai người khác trong quán, gã đạo nhân cầm lấy chén nước, khom lưng chậm rãi uống vào. Bộ dạng của gã chẳng những không giống nắng hạn lâu ngày gặp mưa rào, trái lại trông có phần chần chừ đề phòng hơn.

    Ngay vào lúc gã uống nước, Tạ Liên nghe được tiếng “tõm tõm” rõ mồn một, nghe như tiếng rót nước vào trong bình rỗng vậy.

    Chỉ trong chớp mắt, Tạ Liên đã thông suốt, y túm lấy tay đối phương, nói: “Đừng uống nữa.”

    Gã đạo nhân run tay, ngờ vực nhìn y. Tạ Liên cười nói: “Uống cũng vô dụng thôi, không phải sao?”

    Gã đạo nhân nghe mà biến sắc, tay còn lại rút kiếm sắt bên hông đâm về hướng Tạ Liên. Tạ Liên đứng yên không nhúc nhích, nhấc tay búng một cái, “keng” một tiếng, nhẹ nhàng búng văng mũi kiếm. Thấy Tạ Liên vẫn nắm chặt tay kia của mình, gã đạo nhân cắn răng giật mạnh một cái. Tạ Liên chỉ cảm thấy cánh tay của gã thình lình xẹp lép, hệt như quả bóng hơi xẹp xuống triệt để, roẹt cái giãy khỏi tay mình. Vừa thoát ra, gã đạo nhân lập tức chạy về hướng cửa. Tạ Liên cũng không nóng nảy, tại nơi không có lực cản trở của thế giới bên ngoài, cho dù gã đạo nhân có chạy xa mười trượng (33 mét), Nhược Da cũng có thể kéo gã về. Nào ngờ y vừa nâng cổ tay, một tiếng xé gió sắc như dao cạo xẹt qua người y.

    Tiếng động này nghe như có người bắn một mũi tên nhọn từ sau lưng y, xuyên thẳng qua bụng gã đạo nhân, ghim lên cánh cửa. Tạ Liên đưa mắt nhìn kỹ, đó thế mà lại là một chiếc đũa tre.

    Y ngoảnh đầu lại nhìn, Tam Lang vừa nghiêm túc vừa thong thả đứng lên từ bên bàn, đi lướt qua vai y, rút đũa tre ra, lắc mấy cái trước mặt y, nói: “Bẩn rồi. Lát nữa vứt.”

    Còn gã đạo nhân bị thương nặng lại hoàn toàn không mở miệng kêu đau, chỉ lẳng lặng tựa vào cửa từ từ tuột xuống. Thứ chảy ra ào ạt từ bụng gã, không phải máu tươi mà là nước trong.

    Chính là chén nước khi nãy gã mới vừa uống.

    Hai người khuỵu gối đứng cạnh gã đạo nhân, Tạ Liên ấn miệng vết thương của gã, cảm thấy vết thương này hệt như lỗ thủng trên một quả bóng hơi phồng to, khí lạnh xịt vù vù ra ngoài, mà “thi thể” của gã đạo nhân cũng dần dần thay đổi. Lúc nãy rõ ràng còn là một gã đàn ông vạm vỡ, giờ đây toàn thân như thu nhỏ một vòng, mặt mày và tứ chi đều héo rút, đồng thời vẫn không ngừng thu nhỏ, thoạt nhìn cứ như một lão già.

    Tạ Liên nói: “Là xác rỗng.”

    Có một số yêu ma quỷ quái, bản thân không thể hóa thành hình người hoàn hảo bèn nghĩ ra một cách khác: Chế tạo xác rỗng.

    Bọn chúng sẽ dùng một ít vật liệu giống y như thật, dày công chế tạo một túi da giả hình người. Túi da này thường mô phỏng người sống thật sự, thậm chí đôi khi còn dùng da người tạo thành, vì thế chỉ tay, dấu vân tay và tóc tai tất sẽ hoàn hảo không tỳ vết. Hơn nữa loại xác rỗng này, miễn là bản thân bọn chúng không mặc vào, nó sẽ không bị nhiễm quỷ khí, cũng không sợ bùa chú trừ tà. Đó cũng chính là nguyên nhân vì sao bùa chú trên cửa không chặn gã đạo nhân ở ngoài.

    Có điều, loại xác rỗng này rất dễ bị nhìn thấu, bởi vì suy cho cùng chúng nó chỉ là người giả ruột rỗng, nếu không có ai mặc lớp da này, chúng nó chỉ có thể hành động dựa theo mệnh lệnh của người điều khiển, hơn nữa mệnh lệnh không được quá phức tạp, chỉ có thể là những việc đơn giản, trùng lặp, được thiết lập sẵn từ trước. Cũng chính vì thế, điệu bộ và cử chỉ của chúng nó thường khá là đờ đẫn, không giống người sống cho lắm, chẳng hạn như chúng nó sẽ lặp đi lặp lại một hai câu, làm hoài một việc, hoặc tự hỏi tự trả lời, hỏi một đằng trả lời một nẻo, nói nhiều vài câu với người ta là lộ tẩy. Tuy nhiên, đối với việc làm sao để phân biệt xác rỗng, Tạ Liên có một cách thực dụng hơn: Cho chúng nó uống một chén nước hoặc ăn thứ gì là được. Dù sao lớp vỏ cũng rỗng ruột, không có lục phủ ngũ tạng, lúc chúng nó ăn hay uống sẽ như ném đồ hoặc rót nước vào bình rỗng, có thể nghe được tiếng vọng rõ ràng, khác hẳn tiếng người sống ăn cơm uống nước.

    Thi thể của gã đạo nhân đã xẹp lép, chẳng khác nào một lớp da mềm oặt nằm úp sấp. Tam Lang dùng chiếc đũa tre kia chọt chọt lên da gã, đoạn ném đũa đi, nói: “Lớp vỏ này thú vị đấy.”

    Tạ Liên biết thiếu niên này đang ám chỉ điều gì. Sắc mặt và cử chỉ của gã đạo nhân nọ không lọt khỏi mắt hai người họ, nào chỉ y như thật, phải nói là cứ như người sống giao lưu đối đáp vanh vách với Tạ Liên, có thể thấy pháp lực của kẻ điều khiển kinh người nhường nào. Tạ Liên nhìn Tam Lang, nói: “Tam Lang, xem ra đệ cũng có đọc sơ về loại dị thuật này nhỉ.”

    Tam Lang cười đáp: “Không nhiều lắm.”

    Xác rỗng này đặc biệt tìm đến tận cửa, báo cho Tạ Liên biết chuyện ở cửa ải Bán Nguyệt, bất luận là thật hay giả, mục đích cũng là vì muốn dẫn y đến cửa ải Bán Nguyệt, để cho chắc ăn, chi bằng lên Thông Linh trận hỏi một chút. Tạ Liên bấm đốt ngón tay tính toán, tính ra pháp lực còn sót lại cũng đủ để mình dùng thêm vài lần, y bèn lẩm nhẩm dùng tay ra hiệu, lên Thông Linh trận.
    Vừa vào trận, bên trong thế mà náo nhiệt một cách hiếm thấy, lại còn không phải náo nhiệt vì bận việc công, dường như mọi người đang chơi trò gì đó, tiếng cười ha ha hố hố vọng khắp. Tạ Liên còn đang kinh ngạc, chỉ nghe Linh Văn nói: “Điện hạ về rồi sao? Mấy ngày qua ở dưới đó sống thế nào?”

    Tạ Liên nói: “Cũng thường thôi cũng thường thôi. Mọi người đang làm gì mà vui thế?”

    Linh Văn đáp: “Phong Sư đại nhân đã trở về, bây giờ đang rải công đức, điện hạ không đi giành sao?”

    Quả nhiên, Tạ Liên nghe được tiếng mấy vị thần quan đang gào khản cổ trong trận: “Một trăm công đức! Giành được rồi!” “Sao ta chỉ có một công đức vậy…” “Một nghìn! Một nghìn! A! Cảm ơn Phong Sư đại nhân!!! Ha ha ha ha ha ha ha…” Tạ Liên nghĩ bụng, lẽ nào trời đang thả tiền mọi người đang lượm? Tuy hòm công đức của y trống huơ trống hoác, nhưng thứ nhất y không biết phải giành thế nào, thứ hai các vị thần quan còn lại đều quen biết nhau, giành giật chơi một tí thì không sao, y bỗng dưng nhảy vào hơi bị kỳ, vậy nên cũng không để ý nữa, tự ngẫm tự hỏi: “Chư vị, mọi người có biết cửa ải Bán Nguyệt không?”

    Lời vừa thốt ra, Thông Linh trận đang rộn ràng sôi nổi giành công đức tức thì lặng thinh.

    Tạ Liên lại cảm thấy hơi phiền muộn.

    Dạo trước y phát một ít thơ và bài thuốc bí truyền, mọi người im lặng thì thôi đi, bởi vì các thần quan còn lại không phát những thứ này, cho nên lời y phát có lẽ lệch tông thật. Nhưng mà trong Thông Linh trận thường có thần quan mở miệng hỏi một ít vấn đề liên quan đến việc công, chẳng hạn như các ngươi ai biết con quỷ đó, nó dễ đối phó không? Các ngươi địa bàn của ai ở bên đó, giúp một tay được không? Lúc ấy mọi người sẽ tự phát biểu ý kiến của mình, có đề xuất cho đề xuất, không đề xuất thì khi nào rảnh ta sẽ hỏi giúp ngươi. Y hỏi về cửa ải Bán Nguyệt cũng xem như là việc công, vì cớ gì vừa mở miệng lại khiến cả làng im re như cũ thế này.

    Hồi lâu sau, đột nhiên có người hô to: “Phong Sư đại nhân lại rải mười vạn công đức kìa!!!”

    Thông Linh trận lập tức sôi nổi trở lại, chúng thần quan đua nhau đi giành công đức, chẳng còn ai để ý đến câu y vừa hỏi. Tạ Liên biết e rằng việc này không hề đơn giản, hỏi trong trận chắc cũng không được gì, nghĩ thầm vị Phong Sư đại nhân này đúng là bạo tay, rải một phát mười vạn, ghê gớm thật, đang định lui ra thì Linh Văn đột nhiên phát ngầm một câu cho y.

    Linh Văn hỏi: “Điện hạ, sao tự dưng lại muốn hỏi về cửa ải Bán Nguyệt?”

    Tạ Liên kể lại chuyện có một xác rỗng tìm đến tận cửa, nói: “Lớp vỏ giả đó vờ như mình là người sống sót trốn ra từ cửa ải Bán Nguyệt, tất nhiên có mục đích của nó. Không biết nó nói thật hay xạo nên ta mới lên hỏi một chút. Nơi đó sao thế?”

    Bên kia, Linh Văn trầm ngâm giây lát, nói: “Điện hạ, chuyện này, ta khuyên ngươi, đừng nhúng tay vào.”

    Tạ Liên ít nhiều cũng lường trước sẽ nghe được câu này, bằng không chuyện đã chẳng kéo dài một trăm năm mươi năm mà không người nào hỏi đến, còn mình vừa hỏi thì cả làng im re. Y nói: “Mỗi lần qua cửa ải, mất tích hơn phân nửa, việc này là thật sao?”

    Một lúc lâu sau, Linh Văn đáp: “Là thật. Nhưng chuyện này, ta không tiện nhiều lời.”

    Tạ Liên nghe được ý đắn đo trong giọng của nàng, chỉ sợ có chỗ khó xử, bèn nói: “Được rồi, ta hiểu mà. Nếu ngươi đã không tiện, vậy không cần nhiều lời nữa. Chúng ta cũng chưa từng lén lút bàn về đề tài này, đều là ta đụng bừa đụng bậy.”

    Tuy rằng hai người đang lén lút nói chuyện, Linh Văn vẫn giảm nhỏ giọng: “Điện hạ, ta nói thêm một câu nữa. Nếu ngươi muốn điều tra chuyện này, đừng để các thần quan khác biết. Với lại, đừng đi từ thiên giới.”

    Thu thần thức, ra khỏi Thông Linh trận, Tạ Liên đứng dậy, trầm ngâm chốc lát rồi ngẩng đầu lên nói: “Tam Lang, ta e mình phải đi xa một chuyến.”

    Linh Văn báo cho y đừng để các thần quan khác phát hiện, đủ thấy việc này dính dáng không ít. Mà nếu y phóng lên trời rồi nhảy xuống cửa ải Bán Nguyệt, tiện thì tiện thật, nhưng xuất phát như thế sẽ bị ghi lại trong danh sách. Chưa kể nếu có ai động tay động chân trong thông đạo (đường qua lại), rốt cuộc nhảy xuống sẽ hạ cánh ở đâu, quả thật không dám nói trước. Thế thì xem ra, đúng là chỉ có thể đi bộ đến cửa ải Bán Nguyệt. Nếu xác rỗng này tự mình đưa tới cửa, tức là muốn gạt y đi, chắc chắn không phải là nơi gì tốt. Tam Lang chợt nói: “Được, ca ca, nếu không ngại thì dẫn ta theo với.”

    Tạ Liên ngơ ngẩn, dùng chổi quét túi da giả trải dưới đất qua một bên, nói: “Đường xá xa xôi, bão cát gian truân, sao đệ lại phải theo?”

    Tam Lang cười nói: “Huynh muốn biết Yêu đạo Bán Nguyệt là chuyện gì phải không?”

    Nghe vậy, Tạ Liên khựng lại, hỏi: “Ngay cả chuyện này đệ cũng biết?”

    Tam Lang khoanh tay, ung dung nói: “Hai trăm năm trước, cửa ải Bán Nguyệt chính là nơi tọa lạc của nước Bán Nguyệt quốc, người Bán Nguyệt sức mạnh vô song, tính tình lại hung hãn hiếu chiến, thường xuyên quấy rầy dân chúng ở đất Trung Nguyên.”

    Hắn ngồi thẳng người dậy, ánh mắt sáng ngời, nói: “Yêu đạo Bán Nguyệt, chính là quốc sư của bọn họ.”

    Tạ Liên gác chổi lên tường, muốn ngồi xuống nghe kỹ hơn. Bấy giờ, ngoài cửa truyền đến tiếng gõ cửa “cốc cốc”.

    Lúc này sắc trời đã tối, các thôn dân đều bị câu “trúng tà” khi nãy của Tạ Liên dọa cho trốn về nhà không dám chui ra, vậy là ai gõ cửa? Tạ Liên đứng trước cửa, nín thở chốc lát, không cảm giác được trên bùa chú có thay đổi lạ thường nào, ngay sau đó lại nghe hai tiếng “cốc cốc”. Tiếng động này, nghe như có hai người cùng gõ cửa.

    Y ngẫm nghĩ một lát rồi mở cửa ra, quả nhiên, hai thiếu niên áo đen đứng ở cửa. Một tuấn tú, một thanh tú, chính là Nam Phong và Phù Dao.

    Tạ Liên nhìn hai người kia một hồi, nói: “Hai người các ngươi…”

    Phù Dao trợn mắt trước, Nam Phong mở miệng hỏi ngay: “Có phải huynh muốn đến cửa ải Bán Nguyệt không?”

    Tạ Liên nói: “Các ngươi nghe được từ đâu?”

    Ban đầu y cứ tưởng Linh Văn lại đến Trung thiên đình hỏi mượn lôi kéo người giúp đỡ, nhưng ngẫm lại, nàng từng bảo đừng để người ngoài biết, tất nhiên cũng sẽ không rêu rao. Nam Phong nói: “Nghe mấy thần quan dọc đường bàn vài câu, nghe nói hôm nay huynh hỏi chuyện cửa ải Bán Nguyệt trong Thông Linh trận.”

    Tạ Liên đã hiểu, hai tay giấu trong tay áo, nói: “Hiểu rồi. “Ta tự nguyện”, đúng không?”

    Bày ra điệu bộ đau răng đến mức mặt mày méo xệch, hai người đáp: “… Đúng.”

    Tạ Liên buồn cười: “Hiểu rồi, hiểu rồi. Nhưng thỏa thuận trước nhé, lần này đến cửa ải Bán Nguyệt, nếu dọc đường gặp phải chuyện gì không ứng phó nổi, hoan nghênh bỏ chạy bất cứ lúc nào.”

    Nguyên tắc đời người của Tạ Liên là: Không ép buộc người khác. Bất luận là ép người khác làm chuyện gì, hay ép họ không làm chuyện gì, tất cả đều là ép buộc. Một chuyện rốt cuộc có làm được hay không, chỉ khi bắt tay vào làm mới biết. Nếu ép buộc một người làm chuyện gì, dù cho người đó có làm đi chăng nữa, trong lòng cũng sẽ không tán đồng; nếu ép buộc một người không làm chuyện gì, cho dù người đó không làm cũng sẽ trăm phương nghìn kế nhớ nhung, ngày nào đó sẽ làm thôi. Vì vậy, mọi sự cứ thuận theo tự nhiên. Muốn đến thì đến, muốn đi thì đi. Tạ Liên lập tức nghiêng người tránh ra, định mời hai người kia vào nhà rồi nói chi tiết hơn. Nào ngờ, hai người kia vừa nhìn thấy thiếu niên ngồi nghiêng ngả phía sau Tạ Liên, sắc mặt vốn dĩ tái đen, thoắt cái biến thành tái mét.

    Nam Phong lách mình bước vào, chắn trước mặt Tạ Liên, nói: “Lùi lại!”

    Chương 19: Ở Bồ Tề quán kể chuyện ma quỷ nơi cửa ải Bán Nguyệt (3)

    Tạ Liên hỏi: “Sao vậy?”

    Tam Lang ngồi đó nhún vai, hỏi: “Sao vậy?”

    Phù Dao nhíu mày: “Ngươi là ai?”

    Tạ Liên nói: “Là một người bạn của ta. Các ngươi quen hả?”

    Tam Lang ra chiều vô tội, nói: “Ca ca, hai người này là ai?”

    Nghe hắn gọi ca ca, Nam Phong giật khóe miệng, Phù Dao giật lông mi. Tạ Liên nhấc tay nói với Tam Lang: “Không sao đâu, đừng căng thẳng.” Nam Phong quát lên: “Đừng nói chuyện với hắn!”

    Tạ Liên nói: “Gì vậy, hai ngươi quen hả?”

    “……” Phù Dao lạnh lùng nói: “Không quen.”

    Tạ Liên nói: “Không quen vậy các ngươi sao lại như thế…” Lời còn chưa dứt, y bỗng cảm giác được hai bên có thứ gì đó lóe sáng, lơ đãng ngoái đầu lại nhìn, hai người kia thế mà lại cùng lúc hội tụ một luồng sáng trắng ở tay phải, dự cảm không lành tức thì trỗi dậy, Tạ Liên vội nói: “Ngừng ngừng, các ngươi đừng manh động nha!”

    Hai luồng sáng trắng xèn xẹt bất chợt toát ra trông hết nguy hiểm, tuyệt đối không phải là thứ có thể xuất hiện từ tay người bình thường. Tam Lang vỗ tay hai cái, tâng bốc mang tính lịch sự: “Thần kỳ, thần kỳ quá.” Hai câu khen ngợi này, quả thật không hề có thành ý. Tạ Liên vất vả lắm mới giữ được cánh tay của hai người kia, Nam Phong quay đầu nhìn y, tức giận nói: “Người này huynh gặp ở đâu? Họ gì tên gì? Nhà ở phương nào? Lai lịch ra sao? Tại sao lại ở chung với huynh?”

    Tạ Liên nói: “Gặp dọc đường, tên Tam Lang, nói chung không biết gì hết, do đệ ấy không có chỗ để đi nên ta mới cho đệ ấy ở chung với ta. Các ngươi trước hết đừng manh động được không.”

    “Huynh…” Nam Phong nghẹn một hơi, dường như muốn mắng nhưng lại ép mình nuốt xuống, chất vấn: “Huynh không biết gì hết mà dám cho hắn vào?! Huynh không sợ hắn có mưu đồ sao?!”

    Tạ Liên nghĩ thầm sao giọng điệu của Nam Phong nghe như cha mình vậy? Nếu đổi thành thần quan khác, hoặc đổi sang người khác, nghe một đứa nhỏ tuổi hơn mình nói năng như thế, hẳn đã khó chịu từ lâu rồi. Nhưng thứ nhất Tạ Liên sớm đã vô cảm với các kiểu trách mắng mỉa mai, thứ hai y biết hai người này chỉ xuất phát từ cảnh giác, suy cho cùng cũng có ý tốt, vì vậy cũng không để tâm, chỉ im lặng chốc lát rồi hỏi: “Các ngươi cảm thấy, ta có cái gì để mưu đồ đây?”

    Lời vừa thốt ra, Nam Phong và Phù Dao nhất thời nghẹn họng.

    Hỏi câu này, thật sự rất chí lý. Nếu một người bị kẻ khác mưu đồ gì đó, thông thường đều vì có của mà gặp họa*. Nhưng khiến người ta đau lòng chính là, vắt óc nghĩ một hồi, thế mà hoàn toàn nghĩ không ra trên người Tạ Liên của hôm nay có thứ gì đáng để mưu đồ.

    *Nguyên văn “Hoài bích kỳ tội”: ý bảo vì có của cải mà gặp họa, ngoài ra còn có nghĩa có tài hoa mà bị đố kỵ và hãm hại.

    Lúc này, chỉ nghe Tam Lang hỏi: “Ca ca, hai người này là đầy tớ của huynh hả?”

    Tạ Liên dịu giọng đáp: “Từ đầy tớ này dùng không đúng, nói một cách chính xác, hẳn nên là trợ thủ.”

    Tam Lang cười cười: “Thế à?”

    Hắn đứng dậy, tiện tay túm một thứ ném sang chỗ Phù Dao, nói: “Vậy giúp một tay nhé?”

    Phù Dao chẳng thèm nhìn mà chụp luôn, đến khi cầm trong tay, cúi đầu nhìn một cái, khí đen thoáng chốc xộc lên đỉnh.

    Cái thằng này thế mà dám ném cây chổi cho mình!!!

    Nét mặt của Phù Dao trông như muốn chẻ cả cây chổi lẫn Tam Lang thành bột phấn ngay tại chỗ, Tạ Liên vội vàng vớ lấy cây chổi, nói: “Bình tĩnh, bình tĩnh, ta có mỗi cây này thôi đó.” Ngờ đâu lời còn chưa dứt, luồng sáng trắng trên tay Phù Dao đã phóng ra, Phù Dao quát lớn: “Mau mau hiện hình!”

    Tam Lang tuyệt nhiên không hề cố gắng né tránh, vẫn giữ nguyên tư thế ngồi khoanh tay, chỉ nhẹ nhàng nghiêng người, luồng sáng trắng lóa mắt kia bắn trúng một chân của bàn thờ, chiếc bàn nghiêng ngả, lộp độp loảng xoảng, ly chén bát dĩa rơi đầy đất. Tạ Liên nâng trán, cảm thấy không thể tiếp tục như vậy nữa, y bèn phất tay một cái, Nhược Da thoáng chốc bay ra, trói chặt cánh tay của Nam Phong và Phù Dao. Hai người kia giãy mấy cái cũng không thoát, Nam Phong giận dữ nói: “Huynh làm gì thế!”

    Tạ Liên ra dấu tạm ngừng: “Ra ngoài hẵng nói, ra ngoài hẵng nói.” Sau đó phất tay lần nữa, Nhược Da kéo cả hai người kia bay ra ngoài. Tạ Liên quay đầu nói với Tam Lang: “Ta quay lại ngay.” Dứt lời trở tay đóng cửa, đi đến trước quán. Đầu tiên y thu Nhược Da vào, tiếp theo lấy tấm bảng ở cửa đặt trước mặt Nam Phong và Phù Dao, nói với hai người họ: “Tạm khoan nói đã. Mời đọc một lần, nói cho ta biết đây là cái gì.”

    Phù Dao nhìn tấm bảng, đọc: “Bản quán xập xệ nguy hiểm, khẩn thiết cầu bậc hiền sĩ, quyên tiền tu sửa, tích lũy công đức.” Đọc xong ngẩng đầu lên: “Bản quán xập xệ nguy hiểm cầu quyên tiền? Là huynh viết??”

    Tạ Liên gật đầu: “Đúng thế, là ta viết. Nếu các ngươi tiếp tục đánh nhau trong đó, vậy ta cầu không phải là sửa nhà, mà là xây nhà.”
    Nam Phong chỉ vào Bồ Tề quán: “Thái tử điện hạ! Huynh không cảm thấy thiếu niên đó kỳ lạ sao??”

    Tạ Liên nói: “Dĩ nhiên cảm thấy rồi.”

    Nam Phong nói: “Vậy huynh thừa biết hắn nguy hiểm mà còn dám để hắn bên mình?”

    Tạ Liên đặt tấm bảng về chỗ cũ, nói: “Nam Phong, ngươi nói vậy là không đúng. Trên đời này tính tình con người và kỳ ngộ* có hàng ngàn hàng vạn, kỳ lạ không đồng nghĩa với nguy hiểm. Phải biết trong mắt người khác, chắc chắn trông ta cũng kỳ lạ lắm, nhưng các ngươi có thấy ta nguy hiểm không?”

    *Kỳ ngộ: gặp gỡ bất ngờ.

    “……”

    Lần này quả thật không thể phản bác. Người nọ rõ ràng tướng tá tiên phong đạo cốt ngọc thụ lâm phong, thế mà lại suốt ngày lượm đồng nát, kỳ lạ hết chỗ nói ấy chứ!

    Tạ Liên nói tiếp: “Hơn nữa, không phải ta chưa từng thăm dò đệ ấy.”

    Sắc mặt đanh lại, hai người kia hỏi: “Thăm dò thế nào?” “Kết quả ra sao?”

    Tạ Liên bèn kể lại những lần mình thử, nói: “Không có kết quả gì hết. Đã làm được đến mức này, nếu đệ ấy không phải con người, vậy chỉ còn lại một khả năng.”

    Tuyệt!

    Phù Dao cười lạnh: “Biết đâu là Tuyệt thật thì sao?”

    Tạ Liên dịu giọng nói: “Các ngươi cho rằng Quỷ vương cấp Tuyệt người ta rảnh rỗi như chúng ta chắc? Chả nhẽ lại đến một cái thôn đi lượm đồng nát với ta.”

    “……”

    Trên sườn núi nhỏ, ba người bên ngoài Bồ Tề quán chỉ nghe được tiếng thiếu niên nọ chậm rãi đi tới đi lui trong nhà, bước chân nghe rất thoải mái, như thể không hề lo lắng bất cứ chuyện gì. Tạ Liên vỗ vai Nam Phong và Phù Dao, nói: “Ta và anh bạn nhỏ này rất hợp nhau. Nếu đã hợp nhau, mà ta cũng chẳng có gì đáng để mưu đồ, vậy không cần chú ý nhiều thế.”

    Hồi lâu sau, Nam Phong trầm giọng nói: “Không được, vẫn phải nghĩ cách, thử xem hắn có phải là Tuyệt không.”

    Biết mình ngăn không được, Tạ Liên xoa xoa ấn đường, nói: “Vậy các ngươi thử đi, nhưng đừng làm to chuyện quá. Dù sao các ngươi cũng là thần quan trên thiên đình, biết đâu người ta thật sự chỉ là một tiểu công tử bỏ nhà ra đi thì sao? Thân thiện một chút, đừng bắt nạt đệ ấy.”

    Nghe câu “đừng bắt nạt đệ ấy”, sắc mặt Nam Phong khó nói hết trong một lời, còn mắt của Phù Dao sắp trợn ra sau ót tới nơi. Tạ Liên dặn dò bọn họ, sau đó mở cửa ra, Tam Lang đang cúi đầu, hình như đang kiểm tra chân kia của bàn thờ. Tạ Liên ho nhẹ một tiếng, hỏi: “Đệ không sao chứ?”

    Tam Lang cười đáp: “Ta không sao, đang xem thử bàn này nên sửa hay không sửa thì tốt hơn.”

    Tạ Liên nói: “Vừa rồi chỉ là hiểu lầm thôi, đệ đừng để bụng nha.”

    Tam Lang cười nói: “Nếu huynh đã nói vậy, sao ta lại để bụng chứ? Có lẽ bọn họ thấy ta quen mắt thôi.”

    Phù Dao lạnh lùng nói: “À đúng, nhìn hơi quen mắt, cho nên khi nãy mới nhìn lầm.”

    Tam Lang cười ha ha: “Ồ, trùng hợp ghê, ta nhìn hai vị này cũng thấy hơi quen mắt.”

    “……”

    Tuy rằng lòng vẫn cảnh giác, song Nam Phong và Phù Dao cũng không có hành động gì quá khích. Nam Phong buồn bực nói: “Dọn ra một chỗ cho ta đi, vẽ trận pháp.”

    Đã có hai tiểu thần quan này gia nhập, vậy không cần đi bộ đến cửa ải Bán Nguyệt nữa. Bọn họ thân mang pháp lực, tất nhiên có thể dùng “thuật Rút Đất”, rút ngàn dặm sông núi thành một bước. Tuy rằng mỗi lần dùng thuật Rút Đất sẽ không thể dùng lại trong vài canh giờ, nhưng tính ra cũng tiện lợi vô cùng. Tạ Liên dọn chiếu dưới đất, nói: “Vẽ ở đây đi.”

    Khi nãy bước vào chưa nhìn kỹ nội thất trong quán, bây giờ đứng trong gian nhà nhỏ xập xệ này một lát, quan sát đánh giá xung quanh, Phù Dao tỏ thái độ cả người mất tự nhiên, nhíu mày hỏi: “Huynh sống ở chỗ thế này sao?”

    Tạ Liên lấy cho Phù Dao cái ghế, nói: “Ta vẫn luôn sống ở chỗ thế này mà.”

    Nghe vậy, động tác của Nam Phong khựng lại, lát sau mới tiếp tục vẽ trận. Phù Dao không ngồi xuống, sắc mặt cũng hơi cứng lại, biểu cảm trên mặt khó mà nói rõ, có ba phần như sửng sốt, cũng có hai phần như đang cười trên nỗi đau của người khác.

    Nhưng mà, Phù Dao nhanh chóng thu hồi sắc mặt khác thường của mình, hỏi tiếp: “Giường đâu?”

    Tạ Liên ôm chiếu, nói: “Cái này được rồi.”

    Nam Phong ngẩng đầu nhìn tấm chiếu kia, sau đó lại cúi đầu. Phù Dao liếc nhìn Tam Lang đứng bên cạnh, hỏi: “Huynh ngủ chung với hắn?”

    Tạ Liên nói: “Có vấn đề gì không?”

    Hồi lâu sau, hai người kia cũng không nặn ra câu nào, xem ra chắc không có vấn đề. Tạ Liên bèn quay đầu hỏi: “Tam Lang nè, vừa rồi đệ nói được phân nửa thì bị cắt ngang. Rốt cuộc Yêu đạo Bán Nguyệt là chuyện gì? Đệ nói tiếp đi.”

    Khi nãy Tam Lang đang nhìn hai người kia chằm chằm, ra chiều như có điều nghiền ngẫm, ánh mắt đen như mực, nghe Tạ Liên hỏi, hắn mới phục hồi tinh thần lại, cười nói: “Được.”

    Dừng một chút, hắn nói: “Quốc sư Bán Nguyệt đó, chính là một trong Yêu đạo Song sư.”

    Tạ Liên thuận miệng hỏi: “Yêu đạo Song sư tất nhiên là hai vị, vậy vị còn lại là ai?”

    Tam Lang tất nhiên hỏi là đáp ngay: “Là một vị yêu đạo của Trung Nguyên, tên là quốc sư Phương Tâm.”

    Tạ Liên khẽ mở to mắt, tiếp tục nghe phần sau.

    Thì ra người Bán Nguyệt dũng mãnh hiếu chiến, lại sở hữu vị trí đắc địa, nắm giữ một trong những trạm kiểm soát quan trọng trên đường qua lại của Trung Nguyên và Tây Vực, hai nước thường xuyên xung đột ở biên giới, xích mích liên tục, chiến sự lớn nhỏ rối ren. Hai trăm năm trước, một vương triều của Trung Nguyên cuối cùng cũng xuất binh tấn công nước Bán Nguyệt.

    Yêu đạo Bán Nguyệt này, chính là một cô nhi ở nước Bán Nguyệt, hồi nhỏ bị người ta chán ghét vứt bỏ, lưu lạc khắp nơi, lớn lên rồi chẳng biết học một thân bản lĩnh yêu tà từ đâu trở về. Người dân Bán Nguyệt khiếp sợ pháp lực của kẻ đó, tôn thờ kẻ đó làm quốc sư, kính trọng có thừa. Hai nước giao tranh, giằng co mãi không xong, quốc sư mở đàn tế trời, nói rằng muốn bảo vệ binh sĩ Bán Nguyệt. Thế là đám binh sĩ sát khí tăng mạnh, sĩ khí tăng cao, liều chết giữ cổng thành. Tên bay, đá tảng, dầu sôi, đao kiếm, chém giết mấy ngày liền.

    Nào ngờ vào giờ phút chiến đấu kịch liệt nhất, vị quốc sư này thế mà lại đột nhiên mở cổng thành.

    Cửa thành mở rộng, mấy vạn quân địch tức khắc điên cuồng ùa vào trong thành.

    Kỵ binh giẫm qua, cả tòa thành nháy mắt biến thành một tế đàn đẫm máu. Quốc sư Bán Nguyệt này nghịch thiên huyết tế, cuối cùng yêu pháp đại thành, từ nay về sau trở thành “Hung” chiếm giữ một phương. Mà nước Bán Nguyệt, từ đó trở đi biến thành cửa ải Bán Nguyệt.

    *Huyết tế: Giết người/động vật dùng máu hiến tế thần linh. Nghịch thiên: đi ngược ý trời.

    Nhắc đến cũng lạ, nơi tọa lạc của cửa ải Bán Nguyệt vốn là một vùng ốc đảo, sau khi Bán Nguyệt diệt quốc, nó tựa như bị tà khí ăn mòn, ốc đảo cũng dần dần bị sa mạc xung quanh nuốt sống. Nghe đâu có đêm, mọi người còn có thể từ xa nhìn thấy binh sĩ Bán Nguyệt thân hình vạm vỡ tay cầm gậy nanh sói lang thang trên sa mạc. Ban đầu nơi này có vài vạn cư dân, nhưng từ từ sống không nổi nữa, rủ nhau dọn đi hết. Cùng lúc đó, truyền thuyết “Mỗi lần qua cửa ải, mất tích hơn phân nửa” dần dần lan truyền.

    “Mỗi lần qua cửa ải, mất tích hơn phân nửa”, ý nói nếu có đội buôn đi ngang qua đây, nhất định phải để lại tiền mua đường. Mà cái gọi là “tiền mua đường”, chính là mạng người, bởi vì Yêu đạo Bán Nguyệt muốn bắt những người sống qua đường để nuôi vong hồn của binh sĩ Bán Nguyệt cả thành, tránh cho bọn chúng đói đến điên không có đồ ăn, tự cắn ngược mình.

    Phù Dao ngoài cười nhưng trong không cười, nói: “Vị công tử này, ngươi biết cũng nhiều quá nhỉ.”

    Tam Lang cười nói: “Nào có nào có, tại các ngươi biết ít quá thôi.”

    “……”

    Tạ Liên buồn cười, nghĩ thầm anh bạn nhỏ này đúng là miệng lưỡi sắc bén, lại nghe Tam Lang lười biếng nói: “Có điều chỉ là một ít cách nói trong dã sử và sách cổ ghi chép những chuyện kỳ lạ mà thôi. Ai biết có một vị quốc sư như thế thật không? Thậm chí có nước Bán Nguyệt hay không cũng chưa biết chừng.”

    *Dã sử: nguồn lịch sử không chính thống, được ghi chép trong nhân gian.

    Chương 20: Rút ngàn dặm đất, lạc giữa bão cát

    Tạ Liên lại nói: “Tuy rằng đều là lời đồn dã sử, nhưng nước Bán Nguyệt hẳn thật sự tồn tại.”

    Tam Lang nói: “Ồ?”

    Tạ Liên nghĩ thầm, cũng không thể nói cho Tam Lang biết hơn hai trăm năm trước lúc nước Bán Nguyệt còn chưa xuất hiện yêu đạo này nọ kia, mình từng lượm đồng nát ở bên đó. Lúc này, Nam Phong đã vẽ xong một trận pháp chi chít dưới mặt đất, đứng lên nói: “Được rồi. Khi nào xuất phát?”

    Tạ Liên bèn nhanh chóng thu dọn bọc đồ, đi tới trước cửa, nói: “Bây giờ luôn đi.”

    Y đặt tay lên cửa, nói: “Quan trời ban phúc, không kỵ gì hết!” Dứt lời đẩy nhẹ một cái.

    Đẩy cửa ra, ngoài cửa đã không còn thấy một mảnh sườn núi và thôn trang, thay vào đó là một con đường trống không.

    Con đường này tuy rộng thênh thang nhưng vắng vẻ không người, hồi lâu sau mới nhìn thấy một hai người đi đường. Không phải vì bây giờ sắc trời đã tối mà là vì dân cư ở vùng Tây Bắc thưa thớt ít ỏi, xưa giờ đã thế, hơn nữa đến gần sa mạc, cho dù là ban ngày, ước chừng người đi đường cũng chẳng có bao nhiêu. Tạ Liên đi ra từ trong quán, trở tay đóng cửa, nhưng khi quay đầu nhìn lại, y đi ra từ Bồ Tề quán hồi nào chứ? Phía sau rõ ràng là một quán trọ nhỏ. Một bước này, chỉ sợ đã bước xa ngàn dặm, đây cũng chính là điểm thần kỳ của thuật Rút Đất.

    Vài người đi đường lướt ngang qua, lầm bầm nhìn ngó bọn họ, đề phòng cao độ. Lúc này, chỉ nghe Tam Lang ở sau lưng y nói: “Theo sách cổ ghi lại, lúc mặt trăng lặn, đi thẳng về hướng sao Bắc Cực sẽ trông thấy nước Bán Nguyệt. Ca ca, huynh nhìn này.” Hắn chỉ lên trời, nói: “Sao Bắc Đẩu.”

    Tạ Liên ngửa đầu nhìn, cười nói: “Sao Bắc Đẩu, sáng quá.”

    Tam Lang đi tới bên cạnh sóng vai với Tạ Liên, đưa mắt nhìn y rồi cũng ngẩng đầu lên, cười nói: “Đúng thế. Trời đêm vùng Tây Bắc, không hiểu vì sao mà có vẻ sáng hơn Trung Nguyên nhiều.”

    Tạ Liên tỏ vẻ tán thành. Hai người đứng bên kia thảo luận trời đêm và trăng sao một cách nghiêm trang và trịnh trọng, hai tiểu thần quan đứng phía sau quả thật không thể tin nổi. Nam Phong hỏi: “Sao hắn cũng ở đây?!”

    Tam Lang nói bằng giọng vô tội: “À, ta thấy kỳ môn độn giáp này thần kỳ quá nên tiện thể đi theo tham quan chút đó mà.”

    *Kỳ môn độn giáp: Là một loại thuật số, cho ta biết được thời điểm nào, phương vị nào sẽ có lợi cho ta và phương vị nào sẽ bất lợi cho ta, rồi ta có thể dựa vào đó cải thiện vận mệnh của ta cho từng thời điểm. (Theo dharmasite)

    Nam Phong giận dữ nói: “Tham quan? Ngươi tưởng bọn này đi du lịch hả?!”

    Tạ Liên xoa xoa ấn đường, nói: “Thôi được rồi, đi theo thì đi theo, cậu ấy cũng đâu có ăn lương khô của các ngươi, cái ta mang theo chắc đủ rồi. Tam Lang, theo sát ta, đừng đi lạc đó.”

    Tam Lang ngoan ngoãn đáp: “Ừm.”

    “Đây là vấn đề ai ăn lương khô của ai sao?!”

    “Ầy, Nam Phong, đêm hôm khuya khoắt, mọi người ngủ hết rồi. Làm chính sự thì lo làm chính sự, đừng để ý nhiều thế. Đi thôi đi thôi.”

    Theo chỉ dẫn của sao Bắc Đẩu, bốn người đi thẳng về hướng Bắc. Đi một đêm, thành trấn và sắc xanh dọc đường từ từ thưa dần, còn cát đá trên mặt đường dần dần tăng nhanh, chờ khi dưới chân không còn giẫm bùn đất nữa, bấy giờ bọn họ mới tiến vào sa mạc. Sử dụng thuật Rút Đất, tuy rằng có thể một bước ngàn dặm, nhưng vượt qua khoảng cách càng xa, pháp lực tiêu hao càng nhiều, khoảng cách thời gian để lần sau dùng thuật cũng càng lâu. Lần này Nam Phong dùng, ít nhất có bốn canh giờ không thể dùng nữa. Chưa kể nếu Nam Phong đã tiêu hao một lượng pháp lực, xuất phát từ suy xét dự trù chiến lực, Tạ Liên cũng sẽ không để Phù Dao dùng thêm lần nữa, vì để phòng ngừa vạn nhất, suy cho cùng cũng phải có người nào dồi dào pháp lực.

    *Chòm sao Bắc Đẩu được dùng để xác định sao Bắc Cực.

    Tại chốn hoang mạc, chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm cực lớn, buổi tối tuy lạnh thấu xương nhưng cũng không đến nỗi, nhưng đến sáng lại là cảm giác khác hoàn toàn. Bầu trời nơi này trong veo, trời cao mây trắng, song ánh mặt trời cũng cực kỳ gay gắt. Bốn người bọn họ đi một hồi, càng đi càng như đang vào sâu trong một cái lồng hấp khổng lồ, tâm trái đất tỏa khí nóng hừng hực, như thể đi cả ngày sẽ có thể chưng chín người sống.

    Tạ Liên căn cứ vào chiều gió và một ít thảm thực vật núp dưới đá núi để tính toán phương hướng, lo rằng có người theo không kịp, đi một đoạn lại quay đầu nhìn. Nam Phong và Phù Dao không phải người phàm, tất nhiên không cần phải nói, Tam Lang thì lại khiến y nhìn mà bật cười.

    Mặt trời chói chan trên không chiếu rọi, thiếu niên nọ cởi áo ngoài màu đỏ, uể oải trùm hai bên thái dương, sắc mặt biếng nhác mang một chút chán ngán. Da dẻ thiếu niên trắng nõn, sợi tóc đen nhánh, áo đỏ trùm lên đầu như thế, mặt mũi trông càng thêm rạng ngời. Tạ Liên tháo mũ xuống, nâng tay úp lên đầu thiếu niên, nói: “Cho đệ mượn cái này nè.”

    Tam Lang sửng sốt, lát sau cười nói: “Không cần đâu.” Nói đoạn trả mũ lại cho y. Tạ Liên cũng không đùn tới đẩy lui với đối phương, nếu không cần thì cũng không miễn cưỡng, nói: “Khi nào cần cứ tìm ta mà lấy.” Dứt lời cầm mũ tiếp tục đi về phía trước.

    Đi thêm một lát, bốn người trông thấy giữa cát vàng đằng trước có một tòa nhà nhỏ màu xám, đến gần xem thử, hình như là một quán trọ bỏ hoang nhiều năm. Tạ Liên ngẩng đầu nhìn trời, nhẩm tính đã qua giờ Ngọ, sắp tới giờ Mùi, e rằng chính là canh giờ nóng nực khó chịu nhất trong ngày, chưa kể bọn họ đã đi cả đêm, cũng đến lúc phải nghỉ ngơi rồi. Tạ Liên dẫn ba người còn lại vào trong, thấy trong tòa nhà có một chiếc bàn vuông, cả bọn bèn ngồi xuống quanh đó. Tạ Liên lấy bình nước từ bọc hành lý gọn nhẹ sau lưng, đưa cho Tam Lang, nói: “Muốn không?”

    Tam Lang gật đầu, nhận lấy uống một hớp, bấy giờ Tạ Liên mới cầm về uống. Y ngửa đầu nuốt vài hớp nước trong, hầu kết trượt lên trượt xuống, từng đợt cảm giác mát lạnh tuôn trào nơi cổ họng, thoải mái tột cùng. Tam Lang ngồi bên cạnh, một tay chống má, nhìn mà như không nhìn, lát sau bỗng nhiên mở miệng: “Còn nữa không?”

    Tạ Liên lau chút nước dính bên khóe môi ướt át, gật đầu, đưa bình nước ra lần nữa. Tam Lang toan nhận lấy, đúng lúc này, một bàn tay đẩy cái tay cầm bình nước của Tạ Liên ra.

    Phù Dao nói: “Chờ đã.”

    Mọi người nhìn sang, chỉ thấy Phù Dao chậm rãi lấy ra một bình nước khác từ tay áo, đặt lên bàn, đẩy qua nói: “Chỗ ta cũng có. Mời.”

    Tạ Liên vừa nhìn là hiểu chuyện gì ngay.

    Với tính cách của Phù Dao, đời nào lại chịu chia sẻ chung một bình nước với người khác? Nhớ tối qua hai người kia nói phải thăm dò một phen, tất nhiên thứ đựng trong bình nước không phải loại nước đàng hoàng gì, chắc chắn là nước hiện hình.
    Loại nước thuốc bí truyền này, nếu người thường uống sẽ bình an vô sự; còn nếu không phải người, uống vào sẽ hiện nguyên hình dưới tác dụng của nước thuốc. Nếu Nam Phong và Phù Dao đã muốn thăm dò Tam Lang có phải là “Tuyệt” hay không, tất nhiên uy lực của bình nước hiện hình này sẽ không phải dạng vừa.

    Chỉ nghe Tam Lang cười nói: “Ta uống chung bình nước với ca ca là được rồi.”

    Nam Phong và Phù Dao liếc nhìn Tạ Liên ngồi bên cạnh, Tạ Liên nhủ thầm các ngươi nhìn ta làm gì?

    Phù Dao lạnh lùng nói: “Nước của huynh ấy sắp uống cạn rồi, ngươi đừng khách sáo.”

    Tam Lang nói: “Vậy sao? Vậy mời hai vị trước.”

    “……”

    Hai người kia đều im thin thít. Hồi lâu sau, Phù Dao mới lên tiếng: “Ngươi là khách, mời ngươi trước.”

    Tuy Phù Dao nói chuyện vẫn với vẻ nhã nhặn thanh tú như mọi khi, song Tạ Liên cảm thấy câu này của cậu ta rõ là nặn ra từ kẽ răng nghiến chặt. Tam Lang lại làm động tác “mời”, nói: “Các ngươi là đầy tớ, mời các ngươi trước, không thì ngại lắm.”

    Nghe bọn họ làm bộ làm tịch, làm kiểu làm dáng, cuối cùng bắt đầu động tay, ba người cách một chiếc bàn cùng ngấm ngầm phát lực đẩy tới đẩy lui một bình nước đáng thương, Tạ Liên lắc đầu, cảm thấy chiếc bàn run bần bật dưới tay mình e rằng sắp nhắm mắt xuôi tay rồi. Bên kia âm thầm đấu đá qua lại vài lần, rốt cuộc Phù Dao nhịn không nổi nữa, cười khẩy nói: “Nếu ngươi đã không chịu uống nước này, phải chăng là chột dạ?”

    Tam Lang cười đáp: “Các ngươi thiếu thân thiện như thế, lại còn không chịu uống trước, chẳng phải càng giống chột dạ hơn sao? Lẽ nào đã hạ độc trong nước?”

    Phù Dao nói: “Ngươi có thể hỏi vị ngồi bên cạnh ngươi xem nước này có độc không.”

    Tam Lang bèn hỏi Tạ Liên: “Ca ca, nước này có độc không?”

    Phù Dao nói câu này thật sự rất gian xảo. Nước hiện hình hiển nhiên không phải độc dược, người thường uống nó chẳng khác gì uống nước lã. Tạ Liên chỉ có thể trả lời: “Không có độc, chỉ là…”

    Lời còn chưa dứt, Nam Phong và Phù Dao đồng loạt lườm y. Tam Lang lại thẳng thừng buông tay, nói: “Được thôi.”

    Hắn cầm bình nước kia, lắc lắc nó rồi nói: “Nếu huynh nói không có độc, ta sẽ uống.”

    Nói xong, hắn mỉm cười, uống một hơi cạn sạch.

    Không ngờ Tam Lang lại dứt khoát như thế, Tạ Liên có chút giật mình. Nam Phong và Phù Dao cũng sững sờ, sau đó vội vàng đề cao cảnh giác. Nào ngờ uống xong nước hiện hình, Tam Lang lắc lắc bình nước, nói: “Mùi vị không ngon lắm.” Nói đoạn tiện tay ném bình nước đi. “Loảng xoảng” một tiếng, bình nước vỡ tan tành dưới mặt đất.

    Thấy Tam Lang uống nước hiện hình mà vẫn không xuất hiện tình trạng dị thường nào, trên mặt Phù Dao thoáng hiện vẻ kinh ngạc nghi ngờ. Lát sau, Phù Dao thản nhiên nói: “Nước lã thôi, mùi vị đều giống nhau, có gì để phân biệt chứ.”

    Tam Lang lấy bình nước đặt cạnh khuỷu tay của Tạ Liên, nói: “Dĩ nhiên không giống rồi. Cái này uống ngon hơn nhiều.”

    Thấy vậy, Tạ Liên không khỏi bật cười, y thật sự cho rằng kết quả thế nào cũng không sao, cũng chẳng để ý cái gọi là mục đích thân phận, thế nên trong mắt y, cuộc đấu đá loạn xạ này ngoại trừ thú vị thì không hề có ý nghĩa gì hết. Tạ Liên cứ ngỡ đến đây chắc xong rồi, ai ngờ “cạch” một tiếng, Nam Phong đặt một thanh kiếm lên bàn.

    Nhìn khí thế của Nam Phong, mới đầu còn tưởng muốn giết người diệt khẩu tại chỗ chứ. Im lặng giây lát, Tạ Liên hỏi: “Ngươi làm gì vậy?”

    Nam Phong trầm giọng đáp: “Nơi phải đi rất nguy hiểm, đưa vị tiểu huynh đệ này một thanh lợi kiếm để phòng thân.” (lợi kiếm = kiếm sắc bén)

    Tạ Liên cúi đầu xem thử, vỏ của thanh kiếm mang phong cách cổ xưa, dường như đã được mài giũa qua nhiều năm tháng, không phải vật tầm thường. Trong lòng chấn động, y đưa tay đỡ trán, xoay người sang chỗ khác, nhủ thầm: “Vậy mà lại là Hồng Kính.” (Kính Đỏ)

    Tên của thanh kiếm này, chính là “Hồng Kính”. Đây thật sự là một thanh bảo kiếm. Tuy nó không thể diệt ma trừ yêu, nhưng bất luận yêu ma quỷ quái nào cũng chạy không thoát pháp kính của nó. Chỉ cần thứ không phải người rút nó ra, lưỡi kiếm của nó sẽ từ từ biến thành màu đỏ, như thể bị sắc máu bao phủ, ngoài ra trên lưỡi kiếm đỏ như máu còn có thể phản chiếu nguyên hình của kẻ rút kiếm. Cho dù là Hung hay là Tuyệt, không ai may mắn thoát khỏi!

    *Pháp kính: Kính phật, có thể chiếu thấu vạn vật, từa tựa như kính chiếu yêu ấy.

    Đối với bảo kiếm hay ngựa quý, người trẻ tuổi chung quy cũng xem trọng một cách đặc biệt. Tam Lang “ồ?” một tiếng, dường như rất có hứng thú: “Để ta xem thử nào.”

    Hắn dùng một tay nắm thân kiếm, tay còn lại nắm chuôi kiếm, chậm rãi rút ra ngoài. Nam Phong và Phù Dao bốn mắt chăm chú nhìn động tác của hắn, kiếm kia ra khỏi vỏ ba tấc, thân kiếm sáng như tuyết. Hồi lâu sau, Tam Lang cười khẽ một tiếng, nói: “Ca ca, hai đầy tớ của huynh đang giỡn chơi với ta hả?”

    Tạ Liên ho nhẹ một tiếng, xoay người lại, nói: “Tam Lang à, ta nói rồi mà, không phải đầy tớ.” Nói xong câu này, y lại xoay người đi. Nam Phong lạnh nhạt nói: “Ai giỡn chơi với ngươi?”

    Tam Lang cười hỏi: “Một thanh kiếm gãy, làm sao phòng thân được đây?”

    Dứt lời, hắn lại cắm thanh kiếm vào vỏ, ném lên bàn. Nam Phong nghe vậy, thình lình cầm chuôi kiếm rút ra, chỉ nghe “keng” một tiếng, trên tay Nam Phong có thêm một thanh kiếm sắc bén rét lạnh… gãy nát.

    Thân kiếm của Hồng Kính, thế mà lại gãy từ ba tấc trở xuống!

    Nam Phong biến sắc, lộn ngược vỏ kiếm lại, chỉ nghe một loạt tiếng “leng keng” loạn xạ, phần thân kiếm còn lại trong vỏ, tất cả đều gãy thành những mảnh vỡ sắc bén sáng loáng.

    Hồng Kính có thể nhận diện toàn bộ yêu ma quỷ quái, đây là sự thật, chưa từng nghe nói có thứ gì có thể thoát khỏi pháp nhãn của nó, cũng chưa từng nghe nói có thứ gì có thể chặt nó thành mấy khúc cách lớp vỏ!

    Nam Phong và Phù Dao đều chỉ vào Tam Lang, nói: “Ngươi…”

    Tam Lang cười ha ha, ngả người ra sau, gác giày đen lên mặt bàn, cầm mảnh vụn của Hồng Kính ném chơi trong tay, nói: “Chắc các ngươi chưa quá đáng đến mức cố tình lấy một thanh kiếm gãy cho ta phòng thân đâu. Liệu có phải sơ ý làm gãy dọc đường không? Đừng lo, ta không cần kiếm cũng phòng thân được. Kiếm gì gì đó, các ngươi tự giữ lại dùng đi.”

    Tạ Liên thì hoàn toàn không thể nào nhìn thẳng thanh kiếm kia. Nói đến thanh kỳ kiếm “Hồng Kính” này (kỳ = đặc biệt, không tầm thường), vốn dĩ nó là một vật sưu tầm của Quân Ngô. Lần đầu tiên Tạ Liên phi thăng, có lần ghé điện Thần Võ chơi nhìn thấy nó, cảm thấy kiếm này tuy không có giá trị sử dụng thực tế nào nhưng cũng khá thú vị, Quân Ngô bèn tặng Hồng Kính cho y. Sau này bị giáng chức, có quãng thời gian sống khó khăn quá, lăn lộn không nổi nữa, y mới bảo Phong Tín đem thanh kỳ kiếm này đi cầm đồ.

    Chính xác, cầm đồ!

    Cầm đồ xong tiền đổi được đủ để chủ tớ hai người ăn vài bữa ngon, sau đó không còn sau đó nữa. Lúc ấy Tạ Liên đem cầm rất nhiều thứ, nên y dứt khoát quên hết luôn, mắc công thi thoảng nhớ đến con tim lại rỉ máu. Xem ra có lẽ sau này Phong Tín phi thăng, nhớ lại chuyện năm xưa, thật sự không chịu nổi việc Hồng Kính một đời kỳ kiếm lưu lạc nhân gian nên mới hạ phàm tìm nó về, mài giũa, đánh bóng, đặt ở điện Nam Dương, rồi bị Nam Phong lấy xuống. Nói tóm lại, Tạ Liên thấy thanh kiếm này là đầu đau âm ỉ, chỉ còn cách dời mắt đi. Thấy ba người kia lại cự nự, y lắc lắc đầu, tập trung quan sát khí trời bên ngoài, nghĩ bụng: “Xem tình hình này, lát nữa chỉ sợ sẽ nổi bão cát. Nếu hôm nay đi tiếp, không biết dọc đường có tìm được chỗ nào tránh gió không?”

    Lúc này, trên bãi cát vàng óng bên ngoài, có hai bóng người chợt lóe lên.

    Tạ Liên thoắt cái bật dậy.

    Hai bóng người đó, một đen một trắng, cách đi chẳng hề vội vã, thậm chí có thể nói là thong dong, nhưng dưới chân như giẫm gió mây, đi cực kỳ nhanh. Người mặc áo đen thân hình mảnh mai, người mặc áo trắng là một nữ đạo sĩ, lưng đeo trường kiếm, cánh tay khoác phất trần. Người mặc áo đen không hề quay đầu lại, còn nữ đạo sĩ áo trắng lại ngoái đầu mỉm cười lúc đi ngang qua tòa nhà này. Nụ cười đó hệt như bóng dáng của bọn họ, chợt lóe rồi biến mất, nhưng lại vô cớ dấy lên một luồng cảm giác kỳ dị quỷ quyệt.

    Do vẫn nhìn ra ngoài suốt, Tạ Liên vừa khéo bắt được cảnh tượng đó, ba người còn lại đại khái chỉ thấy được bóng lưng bọn họ, cái khác tạm thời không có sức quan tâm, Nam Phong bỗng đứng dậy hỏi: “Đó là người gì thế?”

    Tạ Liên cũng đứng lên, nói: “Không biết, nhưng chắc chắn không phải người thường.” Trầm ngâm giây lát, y nói: “Các ngươi thôi đừng giỡn nữa. Ta thấy gió này sắp nổi lớn, mau tranh thủ lên đường trước, đi được đến đâu hay đến đó.”

    Cũng may cả nhóm tuy rằng thường xuyên gà bay chó sủa một phen, nhưng lúc cần làm việc cũng làm việc sốt sắng lắm, lập tức ngừng phân cao thấp, dọn dẹp mảnh vỡ của Hồng Kính rồi ra khỏi tòa nhà. Bốn người ngược gió đi một hồi, đi khoảng chừng hai canh giờ, nhưng chặng đường có thể đi lại kém xa hai canh giờ trước đi được. Bão cát này lớn hơn lúc trước nhiều, gió mạnh cuốn theo hạt cát hung hãn nện vào thân người, nện cho mặt mũi và cánh tay lộ ra ngoài đau rát. Càng đi càng cảm thấy gian nan, bên tai nghe tiếng gió vù vù, cát vàng ùn ùn kéo đến, đường nhìn nhòe đi, Tạ Liên đè mũ, nói: “Bão cát này xuất hiện thật quái lạ!”

    Hồi lâu, không người nào trả lời, Tạ Liên nghĩ thầm chắc không phải tụt lại phía sau hết rồi chứ, y quay đầu lại nhìn, rõ ràng ba người vẫn còn theo sát, chỉ là dường như không phát hiện y vừa nói chuyện. Thì ra do bão cát quá lớn, vừa mở miệng ngay cả tiếng nói cũng bị cuốn đi. Nam Phong và Phù Dao hiển nhiên không cần y quan tâm, cả hai ngược gió cát mịt mù chân bước vừa vững vừa đằng đằng sát khí, mà Tam Lang vẫn theo sau y năm bước, đi không nhanh không chậm.

    Giữa cát vàng khắp bầu trời, sắc mặt thiếu niên không hề gợn sóng, hắn chắp tay mà đi, một thân áo đỏ và tóc đen bay tứ tung, chẳng hề suy suyển, mắt cũng không chớp một cái, như thể hoàn toàn không cảm nhận được sự xâm nhập của bão cát. Tạ Liên đã bị hạt cát nện cho rát mặt, thấy Tam Lang khinh khi như vậy mà không khỏi sầu lo, nói: “Cẩn thận cát bay vào mắt và quần áo.” Nhưng nghĩ lại, Tam Lang cũng nghe không rõ mình đang nói gì, Tạ Liên bèn dứt khoát đi tới, giúp đối phương khép cổ áo lại, buộc cho thật chặt, không để gió và hạt cát trút vào. Tam Lang ngây ngẩn cả người. Lúc này, hai người kia cũng đuổi kịp, khoảng cách của bốn người khá gần, cuối cùng cũng có thể miễn cưỡng nghe rõ giọng của nhau. Tạ Liên nói: “Mọi người nhớ phải cẩn thận, bão cát này đến rất đột ngột, không bình thường chút nào, sợ rằng là gió ma yêu tà.”

    Phù Dao nói: “Chỉ là gió và cát hơi lớn thôi, ngoại trừ thế này còn có thể thế nào nữa?”

    Tạ Liên lắc đầu, nói: “Bão cát cũng còn đỡ, chỉ sợ trong cát có lẫn thứ khác.”

    Đúng lúc này, một trận gió lớn thình lình nổi lên, thổi bay mũ trên đầu Tạ Liên. Một khi bay, chiếc mũ này sẽ biến mất triệt để trong cát vàng mịt mù, Tam Lang lại phản ứng cực nhạy, thân thủ cực nhanh, nhấc tay một cái, tức thì chặn đứng chiếc mũ sắp bay lên trời, đưa trả lại cho y. Tạ Liên nói cảm ơn, vừa thắt dây mũ vừa nói: “Tốt nhất chúng ta nên tìm chỗ nào tránh một chút.”

    Phù Dao lại không đồng ý: “Nếu bão cát này thật sự có mờ ám, mục đích là để ngăn cản chúng ta đi tiếp. Càng như thế, chúng ta càng phải đi về phía trước.”

    Nghe vậy, Tạ Liên còn chưa trả lời, Tam Lang đã bật cười ha ha. Phù Dao ngẩng phắt đầu, lạnh lùng nói: “Ngươi cười cái gì?”

    Tam Lang khoanh tay, cười hì hì: “Cố tình đối nghịch với người khác, có phải cho ngươi cảm giác thỏa mãn rằng mình đặc biệt* lắm không?”

    *Nguyên văn 特立独行: ý chỉ đặc biệt, không giống người thường, chí hướng cao cả, khác với tục lệ hủ lậu.

    Trước đó Tạ Liên đã cảm thấy, thiếu niên này tuy miệng luôn mỉm cười, nhưng thường xuyên khiến người ta phân không rõ rốt cuộc hắn thật lòng thật dạ hay đang giả vờ tâng bốc để châm chọc đối phương. Nhưng lần này, mặc cho ai cũng nhìn ra được, nụ cười của hắn không mang nửa phần ý tốt. Ánh mắt Phù Dao lạnh toát, Tạ Liên nâng tay nói: “Các ngươi tạm ngừng trước đã. Có lời gì lát nữa nói sau, gió mà lớn thật cũng kinh khủng lắm.”

    Phù Dao nói: “Thổi người bay lên trời luôn phải không?”

    Tạ Liên nói: “Ừ, điều ngươi nói vô cùng có khả năng…”

    Lời còn chưa dứt, ba người trước mặt y đột nhiên biến mất.

    Trên thực tế, người biến mất không phải là bọn họ, mà là y — Bão cát này thế mà lại cuốn y bay lên trời thật.

    Gió lốc!

    Tạ Liên chao đảo giữa không trung, phất tay lên, nói: “Nhược Da! Túm thứ gì kiên cố đáng tin cậy đi!!!”

    Nhược Da bay vù ra, giây tiếp theo, Tạ Liên cảm giác được đầu kia của dải lụa trắng chùng xuống, hình như đã quấn được thứ gì, níu lấy nó. Khó khăn lắm mới đứng vững được giữa không trung, y cúi đầu nhìn thử, mình thế mà lại bị gió lốc mang đến chỗ cách mặt đất ít nhất mười trượng, nếu không phải Nhược Da túm được thứ gì đó dưới đất, chỉ sợ mình sẽ bay cao nữa. Bây giờ y tựa như một con diều, chỉ được buộc bởi một sợi dây dưới mặt đất. Giữa cát vàng tạt vào mặt, Tạ Liên vừa nắm Nhược Da, vừa cố gắng nhìn xem rốt cuộc Nhược Da túm được thứ gì. Nhìn một hồi, cuối cùng y nhận ra được một bóng dáng màu đỏ. Đầu còn lại của Nhược Da, hình như đang quấn lấy cổ tay của một thiếu niên áo đỏ.

    Y bảo Nhược Da túm thứ gì kiên cố đáng tin cậy, Nhược Da thế mà lại túm Tam Lang!

    Tạ Liên dở khóc dở cười, đang định bảo Nhược Da mau túm lại thứ khác, chợt cảm thấy dải lụa trắng quanh cổ tay nới lỏng. Y nhủ thầm tiêu rồi, cảm giác đột ngột xuất hiện này, không phải là đầu kia của Nhược Da bị lỏng ra, mà là chuyện đáng sợ hơn đã xảy ra.

    Thuộc truyện: Thiên quan tứ phúc