Thiên quan tứ phúc – Chương 21-30

    Thuộc truyện: Thiên quan tứ phúc

    Chương 21: Rút ngàn dặm đất, lạc giữa bão cát (2)

    Quả nhiên, bóng người màu đỏ dưới đất thoắt cái đã gần y hơn nhiều, chẳng mấy chốc đã bay đến nơi y đưa tay là chạm được.

    Tam Lang thế mà cũng bị cuốn vào gió lốc!

    Tạ Liên la to với Tam Lang: “Đừng sợ!” Vừa há miệng lại ăn một mớ cát, nhưng chuyện đến nước này, ăn một hồi rồi cũng quen. Mặc dù y la lên bảo Tam Lang đừng sợ, nhưng trên thực tế, y cảm thấy Tam Lang căn bản sẽ không sợ. Quả nhiên, sau khi thiếu niên nọ bị cuốn lên không trung, Nhược Da nhanh chóng rút về, kéo gần khoảng cách giữa hai người. Tạ Liên nhìn thấy rõ ràng, trên mặt đối phương không hề có nửa phần hoảng loạn, nếu đưa cho hắn quyển sách, chắc hắn có thể bình thản đọc ngay giữa cát bụi ấy chứ, Tạ Liên thậm chí có chút hoài nghi phải chăng hắn cố tình bị cuốn lên. Nhược Da quấn vài vòng quanh hông hai người, siết bọn họ chung một chỗ, Tạ Liên nói: “Làm lại! Lần này đừng túm người nữa!”

    Thế là Nhược Da bay ra lần hai. Lần này, nó túm… Nam Phong và Phù Dao!

    Tạ Liên mệt cả thể xác lẫn tinh thần, nói với Nhược Da: “Ta bảo mi đừng túm người, “người” này không phải là người theo nghĩa hẹp… Thôi được rồi.” Y cất cao giọng gọi với xuống dưới: “Nam Phong Phù Dao! Ráng chống! Phải ráng chống nha!”

    Nam Phong và Phù Dao dưới đất dĩ nhiên phải ráng chống, hai người mạnh ai nấy đứng vững tại chỗ, nhưng trận bão cát này thật sự quá điên cuồng và dữ dội, không lâu sau, chẳng ngoài ý muốn chút nào, lại có hai bóng đen bị gió lốc cuốn vào.

    Lần này, bốn người cùng bay vèo vèo xoay tròn trên không trung. Giữa đất trời vàng tối, cơn lốc kia trông hệt như cột cát chọc trời cong vẹo, một dải lụa trắng kéo theo bốn bóng người xoay vòng liên tục trong cột cát, càng xoay càng nhanh, càng lên càng cao. Tạ Liên vừa ăn cát vừa nói: “Sao các ngươi cũng lên luôn vậy!”

    Thứ nhìn thấy ngoại trừ cát vẫn là cát, thứ nghe được ngoại trừ gió vẫn là gió, bốn người không thể không dùng âm lượng lớn nhất hét qua hét lại. Phù Dao vừa ăn cát vừa phun vừa nói: “Vậy phải hỏi dải lụa trắng ngu ngốc của huynh ấy!”

    Tạ Liên nắm “dải lụa trắng ngu ngốc”, nói bằng giọng bất đắc dĩ: “Nhược Da ơi Nhược Da, bây giờ bốn người bọn ta trông cậy vào mi hết đó, lần này mi làm ơn đừng túm nhầm nữa, đi đi!”

    Mang tâm trạng bi tráng, Tạ Liên lần nữa buông tay. Nam Phong quát: “Đừng trông chờ vào cái thứ đó! Nghĩ cách khác đi!” Bấy giờ, Tạ Liên cảm giác được dải lụa trên tay bỗng siết lại, tinh thần phấn chấn lên ngay, nói: “Chờ chút, cho nó một cơ hội nữa đi! Lại túm được rồi này!”

    Phù Dao cũng quát: “Đừng có quấn người qua đường nữa đấy! Tha cho người ta đi!”

    Khỏi cần phải nói, trong lòng Tạ Liên cũng vô cùng lo lắng điều này. Y kéo kéo Nhược Da, đầu kia không hề nhúc nhích, lúc này mới thấy nhẹ nhõm, nói: “Không phải đâu! Đầu kia nặng lắm, vững lắm!” Sau đó nói tiếp: “Rút!”

    Chống lại cơn gió lốc cuồng loạn kia, Nhược Da cấp tốc rút ngắn, bốn bóng người nhanh chóng rời xa cột gió. Giữa cát vàng đầy trời, Tạ Liên từ từ nhìn thấy một đường viền màu đen hình nửa vòng tròn bên dưới. Đường viền này cực lớn, ước chừng lớn bằng một ngôi miếu nhỏ. Thứ mà đầu khác của Nhược Da quấn lấy, chính là thứ này đây. Mà chờ khi bọn họ tới gần mặt đất, cuối cùng cũng thấy rõ được, đó là một khối đá núi khổng lồ.

    Giữa cơn bão cát mạnh đến mức vậy, khối đá ráp ấy hệt như một tòa pháo đài vững chãi mà tĩnh lặng, quả thật là nơi tránh gió cực tốt.

    Khi nãy trên đường tới đây, rõ ràng bọn họ không nhìn thấy khối đá núi to như thế, thật sự không biết trận gió lốc quái gở này đã đưa họ đi xa cỡ nào. Vừa đáp xuống đất, bốn người lập tức đi vòng ra mặt cản gió của khối đá. Vừa đi vòng qua, Tạ Liên thoáng cái hứng lên, nói: “Đây quả là quan trời ban phúc.”

    Thì ra sau mặt cản gió của khối đá núi có một hang động. Hang động này rộng chừng hai cánh cửa, chiều cao thấp hơn một cánh cửa tí xíu, nhưng người trưởng thành khẽ khom lưng cúi đầu cũng vào được. Cửa động không ngay ngắn mà xiêu xiêu vẹo vẹo, song cũng không giống hình thành tự nhiên, có lẽ là do sức người đào khoét lung tung. Tạ Liên đi vào, phát hiện khối đá núi này gần như bị đào rỗng ruột, không gian trong động có vẻ không nhỏ, nhưng bên trong khá tối, y cũng không thăm dò mọi ngóc ngách trong động, trước tiên chỉ ngồi ở nơi ánh sáng chiếu đến, phủi cát vàng trên Nhược Da, quấn lại vào cổ tay.

    Nam Phong và Phù Dao đều đang nôn cát, miệng mũi tai mắt đều có cát bay vào, nếp uốn quần áo thì khỏi nói, cởi ra giũ một cái, toàn là cát đá nhỏ vụn. Trong số bốn người, thoạt nhìn bình yên vô sự nhất vẫn là Tam Lang. Sau khi khom lưng đi vào, hắn chỉ phủi chút cát bụi trên áo đỏ cho có lệ rồi thôi. Ngoại trừ tóc đen hơi rối, buộc tóc bị lệch, điệu bộ thoải mái của hắn không hề bị ảnh hưởng gì, vốn dĩ tóc đen của hắn đã bị Tạ Liên buộc lệch, giờ lệch thêm chút nữa cũng không sao.

    Nam Phong lau mặt mấy cái, há miệng là mắng một tiếng. Tạ Liên trút hết cát trong mũ, nói: “Ầy, thật sự không ngờ các ngươi cũng bị thổi lên trời. Sao các ngươi không dùng Thiên cân trụy?”

    *Thiên cân trụy (Trĩu ngàn cân): một công phu của Thiếu Lâm giúp trụ tấn vững vàng.

    Lúc này Nam Phong mới ngừng mắng, nói: “Dùng rồi! Vô dụng.”

    Phù Dao vừa tức tối giũ áo ngoài, vừa hung tợn nói: “Huynh cho rằng đây là đâu, đây là chốn hoang mạc ở cực Tây Bắc, không phải địa bàn của tướng quân nhà ta.”

    Nam Phong nói: “Phía Bắc là địa bàn của Bùi gia nhị tướng (hai vị tướng nhà họ Bùi), phía Tây là địa bàn của Quyền Nhất Chân. Mấy trăm dặm quanh đây, căn bản không tìm được gian Nam Dương miếu nào.”

    Phải biết nhân gian còn có một câu tục ngữ — Con rồng mạnh cỡ nào cũng khó mà trấn áp con rắn đang ở trong địa bàn của nó. Vì thế thân là thần quan phó tướng của Võ Thần vùng Đông Nam và Võ Thần vùng Tây Nam, hai người họ làm phép ở nơi không thuộc địa bàn của mình, pháp lực phát huy khó tránh bị hạn chế. Nhìn dáng vẻ hết sức uất nghẹn và bực bội của Nam Phong và Phù Dao, xem ra đây hẳn là lần đầu tiên hai người họ bị một trận gió to thổi lên trời xoay vòng vòng không xuống được, Tạ Liên nói: “Cực thân các ngươi rồi.”

    Có lẽ Nam Phong cảm thấy nơi này xuất hiện một khối đá núi như vậy rất đáng nghi, song Tạ Liên cũng không lấy làm lạ, nói: “Đá núi bị đào hang thế này không phải ít. Để trốn bão cát khi ra ngoài chăn thả không kịp về nhà hoặc tạm thời qua đêm, thỉnh thoảng người dân Bán Nguyệt quốc năm xưa sẽ đào một hang động trên đá núi. Có hang động không phải đào mà là cho nổ.”

    Nam Phong nghi ngờ nói: “Trong hoang mạc làm sao chăn thả được.”

    Tạ Liên nở nụ cười, nói: “Hai trăm năm trước, nơi này không phải là hoang mạc hết, cũng có một vùng ốc đảo mà.”

    Lúc này, Tam Lang nói: “Ca ca.”

    Tạ Liên quay đầu hỏi: “Sao vậy?”

    Tam Lang chỉ chỉ, nói: “Trên tảng đá mà huynh ngồi, hình như có viết chữ.”

    “Cái gì?” Đầu tiên Tạ Liên cúi đầu, sau đó đứng dậy, bấy giờ mới phát hiện chỗ mình ngồi đích thực là một phiến đá. Y lau sạch bụi bặm, trên phiến đá nọ đúng là có chữ, chẳng qua khắc hơi nông, nét chữ cũng không rõ ràng lắm. Một nửa phiến đá bị chôn trong cát, nét chữ kéo dài lên trên, ẩn núp trong bóng đêm.

    Đã có chữ, tức là phải đọc. Tạ Liên nói: “Pháp lực của ta không còn bao nhiêu, các ngươi ai nâng cái chưởng tâm diệm (ngọn lửa trong lòng bàn tay) rọi sáng giúp ta đi, cảm ơn nhiều.”

    Nam Phong bèn búng tay một cái, lòng bàn tay thoáng chốc dấy lên một ngọn lửa. Tạ Liên tình cờ nhìn sang Tam Lang, đối phương không hề tỏ ra kinh ngạc, suy cho cùng ngay cả rút ngàn dặm đất cũng thấy rồi, y có cảm giác bất luận sau này đôi bên thể hiện cái gì với nhau cũng chẳng ai lấy làm kinh ngạc nữa. Nam Phong dời bàn tay qua chỗ Tạ Liên chỉ, ngọn lửa chiếu sáng chữ viết khắc trên phiến đá. Chữ viết nọ trông kỳ lạ vô cùng, nguệch ngoạc như trẻ nhỏ tiện tay viết vẽ linh tinh vậy, Nam Phong nhỏi: “Cái này viết gì thế?”

    Tam Lang nói: “Tất nhiên là chữ viết của nước Bán Nguyệt.”

    Tạ Liên nói: “E rằng Nam Phong muốn hỏi là viết cái gì đó. Để ta xem thử.”

    Y dọn sạch cát đá trên phiến đá, mãi đến hàng chữ nằm trên cùng, mấy ký tự này lớn hơn hẳn, hình như là đầu đề, mà mấy ký hiệu này cũng xuất hiện nhiều lần trên phiến đá. Phù Dao cũng nâng một ngọn lửa trong lòng bàn tay, hỏi: “Huynh biết đọc chữ Bán Nguyệt?”

    Tạ Liên nói: “Thật không dám giấu diếm, ta từng lượm đồng nát ở nước Bán Nguyệt.”

    “……”

    Cảm nhận được một trận im lặng, Tạ Liên ngẩng đầu hỏi: “Gì vậy?”

    “Không gì cả.” Phù Dao hầm hừ: “Chỉ tò mò là huynh còn từng lượm đồng nát ở bao nhiêu nơi nữa.”

    Tạ Liên cười cười, cúi đầu tiếp tục xem. Lát sau, y thình lình nói hai chữ:

    “Tướng quân.”

    Nam Phong và Phù Dao đồng loạt lên tiếng: “Cái gì?”

    Tạ Liên ngẩng đầu, nói: “Ý ta là, mấy chữ viết trên cùng phiến đá này là “Tướng quân”.” Ngừng một lát, y nói tiếp: “Có điều đằng sau “Tướng quân” còn một ký tự nữa, nhưng rốt cuộc ký tự này có nghĩa gì, ta không dám chắc lắm.”

    Nam Phong có vẻ thở phào nhẹ nhõm, nói: “Vậy huynh nhìn tiếp đi.”

    Tạ Liên gật đầu, Nam Phong nâng ngọn lửa, khẽ nhích tay về phía trước một chút. Tay Nam Phong vừa nhích, Tạ Liên bỗng phát hiện có chỗ nào không ổn. Ven mép đường nhìn, hình như xuất hiện thêm thứ gì đó.

    Hai tay đè trên phiến đá khắc đầy chữ, Tạ Liên chậm rãi ngẩng đầu lên.

    Chỉ thấy phía trên phiến đá, ánh lửa le lói rọi sáng một mặt người bắp thịt cứng đờ trong bóng tối. Gương mặt này, hai tròng mắt ngó xuống, đang nhìn y chòng chọc.

    “Á á á á á á á á á á á á á!!!!!”

    Hét toáng lên không phải bọn họ, mà là mặt người bắp thịt cứng đờ kia.

    Nam Phong nâng chưởng tâm diệm ở lòng bàn tay còn lại, ngọn lửa trên hai tay thình lình bốc lên cao, cuối cùng rọi sáng toàn bộ hang động.

    Khi nãy thứ mà ngọn lửa chiếu sáng, chính là một người vẫn luôn núp trong bóng đêm, lúc này người nọ hoảng sợ lùi sang một bên, rúc đến rìa chỗ sâu trong hang động, bên rìa đó thế mà đã có bảy tám người co rụt ôm thành một khối, run lẩy ba lẩy bẩy.

    Nam Phong quát: “Các ngươi là ai?!”

    Tiếng quát này khiến cho cả hang động vang ông ông, Tạ Liên vốn đã bị tiếng thét chói tai vừa rồi chấn đến độ hai lỗ tai đau âm ỉ, bây giờ đành phải bất đắc dĩ bịt tai lại. Bão cát quá lớn, tạp âm đầy tai, bọn họ nói chuyện nhỏ một chút là hết nghe rõ đôi bên nói gì, mà sau khi vào hang động, trước tiên bọn họ bắt đầu thảo luận về quốc sư Bán Nguyệt, sau lại tập trung tinh thần đọc hiểu phiến đá này, từ đầu chí cuối thế mà không hề phát hiện trong động còn những người khác lặng lẽ ẩn núp. Bảy tám người kia run bần bật, hồi lâu sau, một ông lão chừng năm mươi tuổi lên tiếng: “Chúng ta là đội buôn qua đường, thương nhân bình thường thôi, ta họ Trịnh. Bão cát lớn quá, đi không được nên tránh gió ở đây.”

    Ông lão là người bình tĩnh nhất trong cả nhóm, coi bộ hẳn là người đứng đầu. Nam Phong hỏi tiếp: “Đã là thương nhân qua đường bình thường, cớ gì lại thậm thà thậm thụt trốn ở đây?”

    Ông lão họ Trịnh vừa định mở miệng, một thiếu niên mười bảy mười tám tuổi bên cạnh ông ta gắt giọng: “Lẽ ra chúng ta cũng không thậm thà thậm thụt, tại các ngươi bất chợt xông vào, ai biết các ngươi tốt hay xấu? Sau đó loáng thoáng nghe các ngươi nói cái gì mà quốc sư Bán Nguyệt, cái gì mà Quỷ giới, tay còn vô cớ nổi lửa, chúng ta tưởng các ngươi là đám binh sĩ Bán Nguyệt đi ra tuần tra bắt người ăn thịt, làm sao dám lên tiếng?”

    Dường như sợ thiếu niên kia nói năng đụng chạm chọc giận đối phương, ông lão nói: “Thiên Sinh, đừng nói lung tung.”

    Thiếu niên kia mày rậm mắt to, ngày thường mạnh mẽ hồn hậu, bị trưởng bối nói vậy thì tức khắc im miệng. Cuối cùng lỗ tai cũng hết đau, Tạ Liên lỗ tai thả tay xuống, hoà nhã nói: “Hiểu lầm thôi mà, hiểu lầm thôi mà. Mọi người đừng căng thẳng, thả lỏng chút nào.”

    Ngừng một chút, y mới nói tiếp: “Tất nhiên chúng ta không phải binh sĩ Bán Nguyệt gì hết. Tại hạ là quán chủ của một gian đạo quán, mấy vị này đều là… người trong quán của ta, toàn học thuật kỳ môn độn giáp. Các ngươi là thương nhân bình thường, chúng ta cũng chỉ là đạo nhân bình thường, không có ác ý gì hết, đều là người tìm chỗ tránh gió như nhau cả, lại đúng lúc vào cùng một hang động mà thôi.”

    Giọng điệu y ôn hòa, nói khoan thai như vậy cũng phần nào trấn an được cảm xúc của mọi người. Sau nhiều lần giải thích và đảm bảo, bấy giờ sắc mặt cả đám thương nhân mới dịu xuống.
    Ai ngờ, Tam Lang bỗng nhiên cười nói: “Đâu nào, ta thấy mấy vị thương nhân này đâu có bình thường, khiêm tốn rồi.”

    Mọi người không hiểu mô tê gì, đưa mắt nhìn hắn. Tam Lang nói: “Cửa ải Bán Nguyệt chẳng phải “Mỗi lần qua cửa ải, mất tích hơn phân nửa” sao. Thừa biết có lời đồn này mà còn dám băng qua đây, can đảm quá còn gì. Làm sao bình thường cho được?”

    Nghe vậy, Trịnh lão bá nói: “Anh bạn trẻ, điều này thì chưa chắc. Thật ra cũng có một vài đội buôn băng qua đây bình an vô sự đấy.”

    Tam Lang nói: “Ồ?”

    Trịnh lão bá nói: “Chỉ cần tìm đúng người dẫn đường, đừng vào nhầm lãnh địa trước đây của nước Bán Nguyệt là được. Cho nên lần này qua cửa ải, chúng ta đã đặc biệt tìm một người địa phương dẫn đường.”

    Thiếu niên Thiên Sinh kia nói: “Đúng thế! Còn phải xem người dẫn đường nữa. Dọc đường này may nhờ có A Chiêu ca, huynh ấy dẫn chúng ta tránh được rất nhiều cát lún, khi nãy vừa thấy gió bắt đầu thổi, huynh ấy đã vội vàng dẫn chúng ta tìm chỗ trốn, nếu không bây giờ biết đâu chúng ta đã bị cát chôn sống rồi.”

    Tạ Liên nhìn thoáng qua, vị A Chiêu dẫn đường cho đội buôn vô cùng trẻ tuổi, ước chừng mới hai mươi, trời sinh mặt mày tuấn tú chất phác, được mọi người khen cũng không có biểu hiện gì, chỉ cúi đầu nói: “Có gì đâu, chức trách cả thôi. Hy vọng qua trận gió này, lạc đà và hàng hóa của mọi người cũng không có việc gì.”

    “Nhất định không có việc gì!”

    Thái độ của nhóm thương nhân hết sức lạc quan, Tạ Liên lại cảm thấy, sự tình không đơn giản như bọn họ đã tưởng.

    Nếu không vào nhầm di địa của nước Bán Nguyệt thì sẽ không gặp chuyện, vậy lẽ nào những đội buôn “mất tích hơn phân nửa” ngày xưa toàn là tự mình không tin chuyện tà môn ngoại đạo khăng khăng đi tìm chết? Một đội hai đội khăng khăng tìm chết thì thôi đi, nhưng có tiền lệ thê thảm vậy rồi, vì đâu mà sau đó người ta cứ liên tục mạo hiểm?

    Suy nghĩ một lát, y nói nhỏ với Nam Phong và Phù Dao: “Chuyện xảy ra đột xuất, chờ trận bão cát này qua đi, trước tiên chúng ta đảm bảo cho những người này an toàn rời khỏi đây, sau đó đến cố địa của nước Bán Nguyệt tìm hiểu nguyên nhân.”

    Nam Phong và Phù Dao tất nhiên sẽ không phản đối, Tạ Liên bèn tiếp tục cúi đầu nhìn chữ trên phiến đá. Vừa rồi y chỉ nhận ra hai ký tự “Tướng quân”, nhưng đó là vì từ này cũng xem như được sử dụng nhiều, còn y đến nước Bán Nguyệt đã là chuyện của hai trăm năm trước, cho dù lúc đó học sành sõi, qua hai trăm năm cũng quên sạch rồi, bây giờ đột nhiên phải nhớ lại, đúng là cần chút thời gian và kiên nhẫn. Lúc này, Tam Lang bên cạnh nói: “Mộ tướng quân.”

    *Chữ “mộ” nằm sau chữ “tướng quân”, nguyên văn là Tướng quân mộ, mà tui để Mộ tướng quân nha.

    Tam Lang vừa nói, Tạ Liên chợt nhớ ra. Ký tự cuối cùng này, chẳng phải mang ý “trủng, mộ, huyệt” sao?

    *Trủng = mồ mả đắp cao. Chữ “mộ” trong mộ tướng quân bên trên là “trủng” đó.

    Y quay đầu lại hỏi: “Tam Lang, đệ cũng hiểu ngôn ngữ Bán Nguyệt sao?”

    Tam Lang cười nói: “Không nhiều lắm. Hứng thú nên học thôi, chỉ biết vài chữ.”

    Tạ Liên đã quen với việc đối phương nói như vậy. Chữ “mộ” này đâu phải từ thường dùng, nếu thật sự chỉ “biết vài chữ”, làm sao lại vừa khéo biết được chữ này chứ? Hắn mà nói “không nhiều lắm”, vậy ý nghĩa sẽ tương tự “cứ hỏi thoải mái”, Tạ Liên mỉm cười: “Tốt lắm. Nói không chừng mấy chữ mà đệ biết vừa khéo là mấy chữ ta không nhận ra. Đệ qua đây, chúng ta cùng xem.”

    Ta Liên nhẹ nhàng ngoắc tay, Tam Lang đi qua ngay. Nam Phong và Phù Dao đứng bên cạnh nâng lửa, chiếu sáng cho hai người họ. Tạ Liên chậm rãi lướt nhẹ ngón tay qua hàng chữ trên bia đá, cùng Tam Lang thấp giọng thảo luận, khẽ cất giọng đọc, đọc một hồi, ánh mắt càng lúc càng khác thường, cuối cùng dần dần lắng xuống. Thiếu niên tên Thiên Sinh trong đội buôn dù sgì cũng còn trẻ, người trẻ tuổi bản tính tò mò, khi nãy hai bên tùy ý tán gẫu vài câu, cậu ta xem như đã thân quen, hỏi: “Mấy ca ca ơi, rốt cuộc trên phiến đá này viết gì thế?”

    Tạ Liên phục hồi tinh thần lại, trả lời: “Phiến đá này là một tấm bia, trên tấm bia viết về cuộc đời của một vị tướng quân.”

    Thiên Sinh nói: “Tướng quân của nước Bán Nguyệt hả?”

    Tam Lang nói: “Không, là một vị tướng quân của Trung Nguyên.”

    Nam Phong ngờ vực hỏi: “Tướng quân của Trung Nguyên? Thế tại sao người dân Bán Nguyệt quốc lại lập mộ cho hắn? Chẳng phải hai nước xảy ra chiến sự lớn nhỏ liên tục sao?”

    Tam Lang nói: “Vị tướng quân này rất kỳ lạ. Tuy rằng toàn văn trên phiến đá xưng đều hắn là tướng quân, nhưng thật ra hắn chỉ là hiệu úy. Với lại ban đầu hắn thống lĩnh một trăm người, sau đó hắn thống lĩnh bảy mươi người, sau đó nữa, hắn thống lĩnh năm mươi người.”

    *Hiệu úy: chức quan xếp dưới Tướng quân, có quân đội do tự mình thống lĩnh.

    “……”

    “Nói tóm lại, bị giáng chức một mạch.”

    Loại trải nghiệm giáng chức rồi lại giáng chức, giáng đến mức không thể giáng được nữa, phải nói là quá đỗi quen thuộc. Cảm giác được có hai tầm mắt đang dừng trên người mình, Tạ Liên làm bộ không để ý, tiếp tục đọc chữ trên phiến đá. Bấy giờ, chợt nghe Thiên Sinh hỏi bằng giọng khó hiểu: “Làm quan kiểu gì mà càng làm càng thấp như thế chứ? Chỉ cần không mắc sai lầm gì lớn, cho dù không thăng cũng sẽ không rớt. Phải thất bại cỡ nào mới ra nông nỗi này?”

    “……”

    Tạ Liên siết tay phải thành nắm đấm, đặt trước miệng ho nhẹ một tiếng, nghiêm túc nói: “Anh bạn nhỏ à, chuyện làm quan càng làm càng thấp này, cũng thường có đó nha.”

    “Hả?”

    Tam Lang cười một tiếng: “Đúng thế, thường có.”

    Ngừng một lát, Tam Lang tiếp tục nói: “Sở dĩ vị hiệu úy này càng làm càng thấp không phải vì võ lực của hắn không tốt, không xứng với chức vụ, mà là vì quan hệ giữa hai nước căng thẳng, vậy mà trên chiến trường hắn chẳng những không đóng góp được gì, trái lại còn nhiều lần cản trở.”

    Nam Phong hỏi: “Cái gì gọi là cản trở?”

    Tam Lang nói: “Không những cản trở đối phương sát hại dân chúng bên mình mà còn cản trở bên mình sát hại dân chúng bên đối phương. Cản trở một lần rớt một cấp.”

    Tam Lang thong thả nói, bảy tám thương nhân kia cũng từ từ ngồi sát lại, giống như nghe hắn kể chuyện xưa, nghe cũng tập trung lắm, vừa nghe vừa phát biểu ý kiến. Thiên Sinh nói: “Ta thấy vị hiệu úy này đâu có làm gì sai? Binh sĩ đánh trận thì thôi, không cho tùy tiện giết hại dân chúng nào có vấn đề gì?”

    “Mặc dù thân là binh sĩ của một quốc gia, làm vậy hơi bị tốt bụng không đúng chỗ, không phù hợp cho lắm, nhưng tổng thể cũng đâu có gì sai.”

    “Đúng rồi, dù sao cũng là cứu người, đâu phải hại người.”

    Nghe vậy, Tạ Liên mỉm cười.

    Các thương nhân trước mặt không phải là dân chúng vùng biên giới, cũng không phải là người xưa của hai trăm năm trước. Bây giờ, nước Bán Nguyệt đã tan thành tro bụi, mọi người nhắc lại tất nhiên có thể hời hợt qua loa, thậm chí còn khen ngợi vài câu. Cho dù không tán đồng, có lẽ cũng thông hiểu được. Nhưng vào năm đó, đánh giá mà hành vi này nhận được, tuyệt đối không thể tóm gọn trong một câu nhẹ bẫng như “tốt bụng không đúng chỗ”.

    Trong cả đám người, chỉ có A Chiêu hẳn do là người địa phương nên hiểu rõ hơn chút, nói: “Hiện tại là hiện tại, hai trăm năm trước là hai trăm năm trước. Lúc đó hai nước hận thù sâu đậm cỡ nào, người thời nay hoàn toàn không thể tưởng tượng nổi. Vị hiệu úy này chỉ bị giáng chức đã là may mắn lắm rồi.”

    Phù Dao cười nhạo một tiếng: “Buồn cười hết chỗ nói.”

    Gần như có thể đoán được Phù Dao muốn nói gì, Tạ Liên xoa xoa ấn đường. Quả nhiên, ánh lửa rọi sáng gương mặt u ám của Phù Dao, chỉ nghe Phù Dao nói: “Tại kỳ vị mưu kỳ chức*, nếu đã làm binh sĩ, người này hẳn nên ghi nhớ mọi lúc rằng phải bảo vệ quốc gia của mình, anh dũng giết địch nơi tiền tuyến. Hai nước giao chiến, sát thương là điều khó tránh khỏi, mềm lòng kiểu đàn bà như thế chỉ tổ làm chiến hữu cùng phe căm ghét hắn, tướng sĩ phe địch cảm thấy hắn nực cười mà thôi, chẳng có người nào cảm ơn hắn đâu.”

    *Tại kỳ vị mưu kỳ chức: ý nói người ở chức vụ nào thì nên tập trung làm tốt công việc của mình.

    Lời này cũng rất chí lý, vì thế trong hang động im thin thít. Phù Dao tiếp tục thản nhiên nói: “Cuối cùng người như thế chỉ có một kết cục — Chết. Nếu không chết trên chiến trường thì cũng chết dưới tay người của mình.”

    Im lặng giây lát, Tạ Liên phá vỡ sự im lặng: “Ngươi đoán chính xác lắm. Cuối cùng hắn đúng là đã chết trên chiến trường.”

    Thiên Sinh hoảng sợ hỏi: “Hả! Chết như thế nào?”

    Cân nhắc chốc lát, Tạ Liên vẫn mở miệng nói: “Bên trên nói, có một lần hai bên giao chiến, đánh một hồi, dây giày buộc không chặt, giẫm trúng, ngã lộn nhào…”

    Bà con trong động cứ ngỡ vị tướng quân này chắc chắn đã chết một cách oanh liệt không gì sánh được, nghe vậy đồng loạt sửng sốt, nhủ thầm kiểu chết gì thế kia? Tiếng cười phụt ra: “Ha ha ha ha ha ha…”

    “… Nên bị đao kiếm loạn lạc của binh lính hai bên đang giết nhau đỏ mắt chém chết.”

    “Ha ha ha ha ha ha…”

    Tam Lang nhướn một bên lông mày, hỏi: “Buồn cười lắm à?”

    Tạ Liên cũng nói: “Khụ. Đúng rồi đó, thảm lắm nha. Mọi người nên đồng cảm một chút, đừng cười vậy chứ. Đang ở trong mộ của người ta, cho người ta chút mặt mũi đi.”

    Thiên Sinh vội nói: “Ta không có ác ý đâu! Nhưng mà, này cũng quá… hơi bị… há há…”

    Tạ Liên cũng hết cách, bởi vì lúc đọc đến đó, y cũng có phần muốn cười, chỉ đành không nhắc đến nữa, đọc tiếp xuống dưới rồi dịch ra, nói: “Tóm lại, tuy rằng danh tiếng của vị hiệu úy này trong quân đội không được tốt, nhưng có một số người dân Bán Nguyệt và người dân Trung Nguyên ở biên giới từng được hắn săn sóc, bèn gọi hắn là “Tướng quân”, xây dựng một mộ đá đơn sơ ở đây cho hắn, lập một phiến đá tưởng niệm hắn.”

    Tam Lang tiếp lời y: “Khi nào rảnh đến đây chăn dê, cắt một ít cỏ tươi cúng hắn.”

    Tạ Liên ù ù cạc cạc: “Hả? Tại sao lại cắt cỏ cúng hắn? Người ta có phải dê đâu.”

    Tam Lang cười hì hì: “Câu ở mặt sau là đệ nói bừa thôi.”

    Tạ Liên nhìn thử, đúng là thế thật, mặt sau phiến đá không có gì hết, y dở khóc dở cười, hỏi: “Sao đệ nghịch ngợm quá vậy?”

    Tam Lang le lưỡi một cái, hai người đang cười đùa, đột nhiên có ai hốt hoảng thét lên: “Đây là cái gì!!!”

    Tiếng thét này nghe hết sức chói tai, vang ông ông trong hang động, khiến người ta sởn hết gai ốc. Tạ Liên nhìn sang hướng phát ra tiếng thét, nói: “Chuyện gì thế!”

    Người lúc đầu ngồi ở đó hớt hơ hớt hải chạy ra, hoảng loạn cực độ nói: “Rắn!”

    Nam Phong và Phù Dao chuyển hướng cánh tay, hai ngọn lửa trong lòng bàn tay chiếu sáng chỗ đất kia từ xa. Phía trên đất cát, một con rắn dài màu sắc sặc sỡ bỗng dưng cuộn tròn nằm ở đó!

    Mọi người hoảng hết cả lên: “Sao lại có rắn được chứ?!”

    “Sao… sao con rắn này xuất hiện không phát ra tiếng động gì hết vậy, không biết nó bò vào đây từ bao giờ luôn!”

    Bị ánh lửa chiếu vào, con rắn nâng thân lên, trông có vẻ cực kỳ cảnh giác, chuẩn bị tấn công bất cứ lúc nào. Nam Phong đang định tung một ngọn lửa qua, lại thấy một người chậm rãi bước tới, tiện tay cầm một cái, bóp chặt bảy tấc của con rắn*, nhấc tay trái đưa nó lên trước mắt, vừa quan sát vừa nói: “Có rắn trong sa mạc không phải là chuyện bình thường sao?”

    Gan to như vậy, chẳng kiêng nể gì, tất nhiên là Tam Lang. Cái gọi là đánh rắn đánh bảy tấc, nếu con rắn này bị bóp nát bảy tấc, dẫu răng độc của nó có hung hãn cỡ nào cũng không lợi hại nổi. Đuôi rắn kia yếu ớt quấn vài vòng quanh cánh tay trái của Tam Lang, bây giờ ở cự ly gần, Tạ Liên chăm chú nhìn kỹ, dường như da con rắn là dạng nửa trong suốt, có thể thấy rõ màu tím đỏ rực rỡ bên trong, trong màu tím đỏ còn lẫn chi chít sợi mảnh màu đen, khiến người ta liên tưởng đến màu của nội tạng, gây cảm giác cực kỳ khó chịu, còn đuôi rắn thì lại mang màu da, hơn nữa còn chia thành từng đốt, thoạt nhìn cứ như mọc từng lớp vỏ cứng, không giống đuôi rắn, giống đuôi bò cạp hơn.

    *Bảy tấc là vị trí của tim rắn, một khi bị tổn thương thì tự nhiên sẽ chết (tuy nhiên cũng tùy chủng loại và kích cỡ của rắn chứ không phải luôn là bảy tấc).

    Thấy rõ cái đốt đó, sắc mặt Tạ Liên thay đổi, nói: “Coi chừng đuôi của nó!”

    Lời còn chưa dứt, cái đuôi vướng víu của con rắn thình lình buông lỏng cánh tay của Tam Lang, mũi đuôi như biến thành một đầu rắn khác, búng ra phía sau, bất ngờ đâm một cái!

    Lực đâm của đuôi rắn cực mạnh, Tam Lang lại thình lình đưa tay phải ra, tiện tay nắm một cái, dễ dàng tóm được cái đuôi của nó. Tam Lang cầm cái đuôi rắn như đang cầm thứ gì chơi vui lắm, còn đưa cho Tạ Liên xem, cười nói: “Cái đuôi này mọc thú vị thật.”

    Chỉ thấy phía cuối chiếc đuôi nhọn của con rắn, thế mà lại mọc một cái gai màu thịt đỏ. Tạ Liên thở phào nhẹ nhõm, nói: “Không đâm trúng là tốt rồi. Quả nhiên là rắn đuôi bò cạp.”

    Nam Phong và Phù Dao cũng qua đây xem con rắn, hỏi: “Rắn đuôi bò cạp? ”

    Tạ Liên nói: “Đúng vậy, là một loại độc vật (động vật có độc) đặc biệt của nước Bán Nguyệt, số lượng tương đối ít, ta chưa nhìn thấy bao giờ, nhưng cũng từng nghe nói về nó. Thân như rắn, đuôi như bò cạp, độc tính còn mạnh hơn cả hai con này cộng lại, bất luận bị răng độc của nó cắn trúng hay bị đuôi độc của nó đâm trúng, đều sẽ…”

    Nói đến đây, chỉ thấy Tam Lang cuộn con rắn kia trên tay lật qua lật lại mà hành hạ, lúc thì kéo dài, lúc thì ép ngắn, lúc thì xem như khăn lông mà vắt, thiếu điều thắt nơ bướm nữa thôi. Tạ Liên im lặng một hồi rồi dịu giọng khuyên nhủ: “Tam Lang, đừng đùa với nó, nguy hiểm lắm.”

    Tam Lang lại cười nói: “Không có gì đâu, ca ca đừng lo. Rắn đuôi bò cạp này là đồ đằng của quốc sư Bán Nguyệt, hiếm khi có cơ hội, dĩ nhiên phải quan sát tỉ mỉ rồi.”

    *Đồ đằng: hiểu nôm na là vật thể được xem như biểu tượng của bộ tộc hay dân tộc, ví dụ đồ đằng của Trung Quốc là rồng.

    Tạ Liên ngẩn ra, hỏi: “Đồ đằng của quốc sư Bán Nguyệt?”

    Tam Lang nói: “Đúng thế. Nghe đâu quốc sư Bán Nguyệt kia, chính vì có thể điều khiển loại rắn đuôi bò cạp này, người dân Bán Nguyệt mới cho rằng ả pháp lực vô biên, bái ả làm quốc sư.”

    Vừa nghe hai chữ “điều khiển”, Tạ Liên lập tức cảm thấy không ổn, nghĩ thầm hễ nói đến “điều khiển”, xưa giờ toàn là một nhóm lớn một mảng lớn, y vội nói: “Bây giờ mọi người mau ra ngoài trước, chỉ sợ rắn đuôi bò cạp này không phải chỉ có một con…”

    Tạ Liên còn chưa nói hết một câu, chợt nghe một tiếng hét thảm: “Á!!!”

    Vài người nhao nhao hoảng hốt kêu lên: “Rắn!” “Nhiều rắn quá!” “Chỗ này cũng có!”

    Trong bóng tối, bảy tám con rắn đuôi bò cạp màu tím đỏ im hơi lặng tiếng bò ra. Chúng nó xuất hiện quá đột ngột, hoàn toàn không biết bò ra từ chỗ nào trong động, chúng nó cũng chẳng công kích mà chỉ lẳng lặng nhìn chằm chằm đám người kia, như thể đang thẩm định đây là thứ gì. Rắn này cả bò lẫn tấn công đều im lìm, thậm chí tiếng thè lưỡi “xì xì” của rắn độc thông thường cũng không có, quả thật hết sức nguy hiểm. Nam Phong và Phù Dao tung hai ngọn lửa qua, một đốm lửa lớn nổ tung trong trong hang động, Tạ Liên nói: “Ra ngoài!”

    Mọi người nào dám nán lại trong hang động, ai cũng vắt giò lên cổ chạy ra ngoài. Cũng may sắc trời ngả về chiều, cơn gió lốc kia đã đi xa từ lâu, bão cát bên ngoài cũng nhỏ hơn nhiều, đám người vội rút về phía gò đất trống. Chạy một hồi, Tạ Liên đang suy nghĩ đúng là nói cái gì tới cái đó, Trịnh lão bá mà Thiên Sinh đang dìu bỗng dưng ngã xuống. Tạ Liên xông lên trước, hỏi: “Chuyện gì vậy?”

    Trịnh lão bá mặt mày đau đớn, run rẩy giơ tay lên. Tạ Liên nắm tay ông lão nhìn một cái, lòng tức thì chùng xuống, chỉ thấy hổ khẩu của ông lão hiện màu tím đỏ, sưng phù lên cao, có thể miễn cưỡng trông thấy một lỗ nhỏ bé xíu trên chỗ sưng, vết thương nhỏ như thế, e rằng bị đâm trúng cũng không phát hiện ngay được, y lập tức nói: “Mọi người mau kiểm tra trên người mình có vết thương nào không, nhỡ có thì mau dùng sợi dây buộc lại!”

    Dứt lời lật cổ tay ông lão lại để xem kinh mạch, chỉ thấy một màu tím đỏ mà mắt thường có thể nhìn thấy đang bò lên trên men theo kinh mạch của ông lão. Tạ Liên nghĩ thầm rắn độc này lợi hại thật, đang định tháo Nhược Da xuống thì thấy A Chiêu xé vải bố buộc giữa cánh tay ông lão kia, buộc chặt cứng ngắc, ngăn cản máu độc chảy ngược về tim. Động tác của A Chiêu nhanh như cắt, Tạ Liên âm thầm khen ngợi, vừa ngẩng đầu lên, không cần y nhiều lời, Nam Phong đã lấy ra một lọ thuốc, đổ ra một viên thuốc. Tạ Liên cho ông lão uống vào, Thiên Sinh hoảng đến độ kêu to: “Bá bá, bá bá không sao chứ?! A Chiêu ca, bá bá sẽ không chết đâu phải không?!”

    A Chiêu lắc đầu, nói: “Bị rắn đuôi bò cạp cắn trúng, trong vòng hai canh giờ, nhất định sẽ chết.”

    Thiên Sinh ngớ ra, hỏi: “Vậy… vậy làm sao bây giờ?”

    Trịnh lão bá là thủ lĩnh đội buôn, các thương nhân cũng sốt ruột hỏi: “Vị tiểu huynh đệ này cho ông ấy uống thuốc rồi cơ mà?”

    Nam Phong nói: “Cái mà ta cho ông ấy uống không phải thuốc giải, chỉ tạm thời kéo dài tính mạng thôi. Tối đa có thể giúp ông ấy kéo hai canh giờ thành mười hai canh giờ.”

    Các thương nhân loạn hết cả lên: “Chỉ có mười hai canh giờ?” “Nói vậy chẳng phải chỉ có thể chờ chết như thế sao?” “Độc này không cứu được sao?”

    Lúc này, Tam Lang từ từ đi tới, nói: “Cứu được.”

    Mọi người đua nhau nhìn về phía hắn. Thiên Sinh mừng rỡ, quay đầu nói: “Chiêu ca, nếu cứu được sao huynh không nói sớm, dọa ta sợ muốn chết!”

    A Chiêu không nói lời nào, lẳng lặng lắc đầu một cái. Tam Lang lên tiếng: “Dĩ nhiên hắn không tiện nói rồi. Nếu người trúng độc có thể cứu được, nhưng có lẽ người khác sẽ không cứu, vậy thì phải nói thế nào đây?”

    Tạ Liên hỏi: “Tam Lang, vậy phải nói thế nào?”

    Tam Lang nói: “Ca ca, huynh biết lai lịch của rắn đuôi bò cạp này chứ?”

    Thì ra tương truyền vào mấy trăm năm trước, nước Bán Nguyệt có một vị quốc vương vào núi sâu săn thú, tình cờ bắt được hai độc vật hóa thành yêu tinh, một con rắn độc tinh và một con bò cạp tinh.

    Hai độc vật này tu luyện trong núi sâu, không màng thế sự, chưa bao giờ hại người, nhưng quốc vương Bán Nguyệt dùng lý do chúng nó là độc vật, sớm muộn cũng sẽ hại người, muốn giết chết chúng nó. Hai yêu tinh khổ sở van xin quốc vương tha cho mình một con đường sống, song quốc vương trời sinh tàn bạo hoang dâm, gã ép buộc hai yêu tinh giao phối ngay trước mặt mình và đám đại thần, để bọn gã rượu chè tìm lạc thú trong buổi tiệc. Mà sau khi buổi tiệc chấm dứt, quốc vương vẫn giết chết hai độc vật kia.

    Chỉ có hoàng hậu không đành lòng, nhưng lại không dám chống đối quốc vương, người bèn ngắt một nhúm lá cỏ thơm ném qua, phủ lên thi thể của hai độc vật này.

    Rắn độc và bò cạp hóa thành tà vật, oán hận sâu nặng, nguyền rủa con cháu mà chúng nó sinh ra sau giao phối sẽ vĩnh viễn ở lại nơi đây, sát hại người dân nước Bán Nguyệt. Bởi vậy, rắn đuôi bò cạp chỉ qua lại ở khu vực nước Bán Nguyệt, mà một khi bị chúng nó cắn trúng hoặc đâm trúng, chất độc phát tán rất mạnh, tử trạng thê thảm (tử trạng = trạng thái khi chết). Nhưng nhờ chiếc lá nhân từ của hoàng hậu, lá cỏ thơm mà ban đầu hoàng hậu ném qua phủ lên thi thể của chúng nó có thể giải được loại độc này.

    Kể xong, Tam Lang nói: “Cỏ thơm này gọi là cỏ Thiện Nguyệt, chỉ sinh trưởng trong biên giới nước Bán Nguyệt.”

    Nghe vậy, các thương nhân nhao nhao nói: “Loại… loại truyền thuyết thần thoại này, có thể tin thật sao?”

    “Vị tiểu huynh đệ này, mạng người quan trọng, ngươi đừng nói đùa với bọn ta!”

    Tam Lang chỉ cười không nói, kể cho Tạ Liên nghe xong cũng không nhiều lời nữa. Thiên Sinh lại tìm A Chiêu để chứng thực: “Chiêu ca, ca ca áo đỏ này nói thật sao?”

    Trầm ngâm một lát, A Chiêu nói: “Truyền thuyết thần thoại, thật giả chưa biết. Nhưng mà trong biên giới nước Bán Nguyệt, đúng là có mọc cỏ Thiện Nguyệt, mà cỏ Thiện Nguyệt, đúng là có thể giải độc của rắn đuôi bò cạp.”

    Tạ Liên chậm rãi nói: “Nói cách khác, người bị rắn đuôi bò cạp cắn trúng chỉ có một con đường sống. Mà con đường sống đó, phải đến cố địa của nước Bán Nguyệt mới lấy được sao?”

    Thảo nào có rất nhiều đội buôn và lữ khách đi ngang qua đây, thừa biết “Mỗi lần qua cửa ải, mất tích hơn phân nửa” mà cũng ráng xông vào cố địa của nước Bán Nguyệt.

    Không phải vì bọn họ làm trò quyết phải đi vào chỗ chết, mà vì bọn họ có lý do bất đắc dĩ phải đi vào. Nếu vùng này có nhiều rắn đuôi bò cạp thường lui tới, đội buôn qua đường khó tránh bị cắn trúng. Mà sau khi bị cắn trúng, nhất định phải đến cố địa của nước Bán Nguyệt để lấy thuốc giải.

    Rắn đuôi bò cạp là đồ đằng của yêu đạo Bán Nguyệt, lại có thể bị ả điều khiển, vậy thì sự xuất hiện của rắn đuôi bò cạp tuyệt đối không phải là trùng hợp. Chỉ dựa vào vài người bọn họ, e rằng không thể bảo vệ nhiều người như thế. Cũng không biết có xuất hiện thêm nhiều rắn đuôi bò cạp nữa không, để phòng ngừa những người này lại gặp chuyện không may, Tạ Liên cũng giơ hai ngón tay, đặt trên huyệt thái dương, vận chuyển Thông Linh trận, muốn xem thử có thể nào mặt dày mượn thêm vài tiểu thần quan không. Ai ngờ vận chuyển không được, bặt vô âm tín.

    Y thả tay xuống, không khỏi cảm thấy kỳ lại, nghĩ thầm: “Pháp lực của mình chắc không dùng hết nhanh vậy chứ? Sáng sớm đã tính rồi, rõ ràng còn thừa một chút mà.” Y bèn quay sang Nam Phong và Phù Dao: “Các ngươi ai vào Thông Linh trận thử xem? Bên ta không vào được.”

    Một lát sau, sắc mặt hai người kia cũng sa sầm, Nam Phong nói: “Ta cũng không vào được.”

    Cũng không thể nào là vì bão cát lớn quá nên không vào được. Ở vài nơi tà khí ngất trời, pháp lực của một số thần quan sẽ bị ảnh hưởng, tạm thời suy yếu hoặc bị ngăn trở. E rằng bây giờ, bọn họ đang gặp phải tình huống như thế.

    Đi qua đi lại tại chỗ một hồi, Tạ Liên ngẩng đầu nói: “Có thể là vì, nơi này quá gần nước Bán Nguyệt…” Đúng vào lúc này, khóe mắt y bỗng liếc thấy một màu đỏ chói mắt lạ thường.

    Nam Phong và Phù Dao đứng bên cạnh thử vào Thông Linh trận, những thương nhân khác đang bận kiểm tra trên người mình có vết thương nhỏ nào không, chỉ có thiếu niên Thiên Sinh mãi sốt sắng lo ôm Trịnh lão bá, hoàn toàn không phát hiện có một con rắn đuôi bò cạp màu tím đỏ đang lặng lẽ bò lên sống lưng của mình.

    Nhưng nó cuộn tròn trên đầu vai của Thiên Sinh, răng nanh lại không nhắm vào cần cổ của thiếu niên này, mà lại nhắm vào cánh tay của Tam Lang hờ hững đứng bên cạnh.

    Thân rắn ưỡn ra sau, lao đến!

    Một khắc trước khi răng nanh sắp cắn trúng Tam Lang, Tạ Liên duỗi một tay ra, cực kỳ chuẩn xác bóp lấy bảy tấc của nó.

    Với lực tay của Tạ Liên, lẽ ra cái bóp này có thể bóp nát bảy tấc của con rắn, bóp cho gan não của nó bắn tung tóe, nhưng y không biết máu thịt của con rắn có mang độc tố không nên không dám làm bậy, tiếp theo đó, y bóp lấy đuôi rắn của nó. Nào ngờ thân rắn trơn trợt hết sức khó cầm, Tạ Liên vừa mới nắm, chỉ thấy một thứ tròn mềm lạnh ngắt trượt khỏi kẽ tay, giây tiếp theo, mu bàn tay lập tức truyền đến cảm giác đau nhói như bị kim đâm.

    Chương 22: Rút ngàn dặm đất, lạc giữa bão cát (3)

    Đuôi bò cạp!

    Tuy nhiên sau cú đâm này, Tạ Liên cũng bóp trúng đuôi của nó, chuẩn xác tóm gọn cả con rắn bò cạp, tay dùng sức một chút, bóp cho nó ngất xỉu. Y bị đâm trúng nhưng sắc mặt không hề thay đổi, chỉ ném con rắn đã bất tỉnh xuống đất, nói: “Mọi người nhớ cẩn thận, quanh đây có lẽ vẫn còn rắn…”

    Lời còn chưa dứt, cổ tay đã bị siết chặt, Tạ Liên ngẩng đầu lên nhìn, là Tam Lang nắm tay y. Tạ Liên sửng sốt, hỏi: “Tam Lang?”

    Sở dĩ y hỏi vậy là vì sắc mặt của thiếu niên này bây giờ thật sự không ổn lắm, hoàn toàn không biết nên diễn tả bằng lời như thế nào, gần như khiến người ta không rét mà run.

    Tam Lang nhìn chằm chằm vết thương nhỏ xíu trên mu bàn tay của Tạ Liên, trước đó vết thương này quả thật chẳng khác gì vết kim đâm, nhưng chất độc phát tán rất mạnh, mu bàn tay lập tức sưng to một cục màu đỏ tím, vết thương nhỏ xíu đó cũng căng lớn như vết dao rạch.

    Tam Lang mặt mũi sa sầm, chẳng nói chẳng rằng, túm lấy Nhược Da, buộc nó thành một nút chết quanh cổ tay Tạ Liên, khóa đường chảy ngược của máu độc. Từ khi hai người quen biết nhau đến nay, Tạ Liên chưa bao giờ nhìn thấy nét mặt này của đối phương, y đang định mở miệng, Tam Lang lại rút một con dao găm từ bên hông một thương nhân. Thấy thế, Nam Phong hiểu ngay hắn muốn làm gì, tay phải bùng lên một ngọn lửa. Tam Lang cũng chẳng buồn nhìn Nam Phong, chỉ đặt mũi dao trên ngọn lửa hơ một hồi, hơ xong quay đầu lại, dùng dao găm cắt một dấu hình chữ thập tại miệng vết thương trên mu bàn tay của Tạ Liên, động tác vừa nhẹ vừa nhanh, sau đó cúi đầu xuống. Tạ Liên vội nói: “Không cần đâu. Độc tố của rắn đuôi bò cạp ghê gớm lắm, có hút cũng vô dụng thôi, đệ coi chừng mình trúng độc…”

    Thiếu niên kia vẫn không nói tiếng nào, chỉ nắm chặt tay y, phủ môi lên. Chẳng hiểu tại sao, Tạ Liên cảm thấy cánh tay bị thiếu niên nắm khẽ run rẩy.

    Bên kia, Phù Dao nói: “Huynh vậy mà cũng bị đâm trúng, đúng là xúi quẩy. Chắc gì hắn sẽ bị cắn trúng, huynh bắt gì mà bắt? Đúng là thêm phiền.”

    Lời này nói đúng sự thật. Trên thực tế, giờ đây nhớ lại điệu bộ tùy thích của Tam Lang khi thắt rắn, Tạ Liên cũng cảm thấy chưa chắc Tam Lang sẽ bị cắn trúng, hoặc biết đâu Tam Lang vốn dĩ không để con rắn đuôi bò cạp này vào mắt. Nhưng không sợ nhất vạn, chỉ sợ vạn nhất, ngộ nhỡ Tam Lang thật sự không chú ý đến con rắn kia, bị cắn cho một cái, chẳng phải hối hận thế nào cũng vô dụng?

    Y xua xua bàn tay lành lặn còn lại, nói: “Dù gì không đau cũng chẳng chết được, đừng để ý.”

    Phù Dao hỏi: “Huynh không đau thật sao?”

    Tạ Liên nói thật: “Thật mà. Không còn cảm giác gì nữa rồi.”

    Lời này là thật. Bởi vì Tạ Liên số quá xui xẻo, đi trong núi sâu mười lần thì đạp trúng rắn độc hoặc đánh thức trùng độc này nọ hết tám lần, sớm đã bị đủ mọi độc vật cắn trăm ngàn lần, song có lẽ do đã làm thần quan, nên y vẫn cực kỳ ngoan cường không chết, nhiều lắm chỉ lên cơn sốt, sốt ba ngày ba đêm, sau khi tỉnh lại sẽ bình thường như trước. Hơn nữa cảm giác đau của y cũng không nhạy gì mấy, dù là cơn đau nào cũng đau mãi thành quen. Tạ Liên nói xong câu này, cuối cùng Tam Lang cũng ngẩng đầu lên. Chỗ sung đỏ trên mu bàn tay của Tạ Liên đã tiêu tan, mà bên môi thiếu niên là một vệt màu máu, ánh mắt hắn lạnh toát, tầm nhìn dời sang bên cạnh, dời đến con rắn đuôi bò cạp nằm dưới đất. Chỉ nghe một tiếng “phịch” thê thảm vang lên, con rắn tím đỏ kia tức khắc nổ thành một bãi thịt vụn màu tím đỏ.

    Thấy con rắn kia thế mà lại nổ tan xác, mọi người bị dọa cho giật thót, nhưng cũng không biết do ai làm, tuy rằng máu không bắn lên người mình, song họ vẫn sợ hết cả hồn. Chỉ có Thiên Sinh còn nhớ Tạ Liên cũng bị đâm, vội vàng kêu lên: “Ca ca ơi, huynh cũng bị đâm trúng ư? Vậy huynh tính sao đây?”

    Tạ Liên siết chặt băng vải quanh cổ tay, cười nói: “Bé ngoan, ta không sao. Vẫn sắp xếp như cũ, tiếp theo chúng ta phải vào thành tìm cỏ Thiện Nguyệt.”

    Một thương nhân vội nói: “Các ngươi đi hả? Vậy bọn ta thì sao? Có phải bọn ta cũng cần phái một người đi không?”

    Tạ Liên nói: “Các ngươi không cần đi, chỉ e cố địa của nước Bán Nguyệt nguy hiểm trùng trùng, thêm một người thêm một phần sơ suất. Sau khi tìm được cỏ Thiện Nguyệt, chúng ta sẽ mang nó về cho các ngươi trong mười hai canh giờ.”

    Vài thương nhân đua nhau nói: “Thật… thật sao?! Vậy cảm ơn các ngươi lắm…” “Thế này thật ngại quá…”

    Nhưng mà, Tạ Liên vừa mở miệng nói câu tiếp theo, sắc mặt bọn họ tức thì thay đổi. Tạ Liên nói: “Vì để nhanh chóng tìm được nước Bán Nguyệt, cảm phiền các ngươi tạm thời cho chúng ta mượn vị tiểu huynh đệ này dẫn đường.”

    Người y muốn mượn, dĩ nhiên là A Chiêu. Nếu vừa rồi trên mặt các thương nhân tràn đầy cảm kích và mừng rỡ, bây giờ phần lớn là lưỡng lự. Tạ Liên cũng tỏ tường, tất nhiên bọn họ đang lo người chỉ đường mà mình dẫn theo tìm được cỏ Thiện Nguyệt rồi chạy mất, cho dù A Chiêu vẫn còn lương tâm không bỏ trốn với y, chịu quay trở về đây, thì thời gian cũng đã bị trì hoãn rất nhiều. Tuy nhiên, bọn họ thật sự không muốn đến nơi quỷ quái “Mỗi lần qua cửa ải, mất tích hơn phân nửa”, thế nên xoắn xuýt vô cùng. Nói chung đây cũng là chuyện thường tình, hoàn toàn có thể hiểu được, vì vậy Tạ Liên lại bổ sung một câu: “Nhưng sợ rằng sẽ còn thứ khác đến tập kích mọi người, nên Phù Dao à, ngươi ở lại đây trông chừng bọn họ đi.”

    Để một người ở lại đây, xem như là lời đảm bảo bọn họ nhất định sẽ trở về. Cuối cùng các thương nhân đều gật đầu, nói: “Được rồi. Chỉ cần A Chiêu đồng ý đi với các ngươi.”

    Tạ Liên bèn quay sang A Chiêu, nói: “Tiểu huynh đệ, ngươi bằng lòng giúp một tay không? Không bằng lòng cũng không sao.”

    A Chiêu gật đầu, nói: “Cũng được, có điều thật ra thành cổ Bán Nguyệt cũng dễ tìm, đi tiếp theo hướng này là đến.”

    Sau khi tạm biệt các thương nhân, A Chiêu đi trước nhất dẫn đường, Tạ Liên, Tam Lang và Nam Phong theo sát phía sau. Đi một hồi, Tạ Liên mở miệng hỏi: “A Chiêu, vùng này thường có rắn đuôi bò cạp lui tới hả?”

    A Chiêu đáp: “Rắn đuôi bò cạp không thường lui tới đây. Ta cũng mới thấy lần đầu tiên.”

    Tạ Liên gật đầu, không đặt câu hỏi nữa. Trên thực tế, y từng sống lân cận nước Bán Nguyệt một thời gian ngắn, nhưng vừa rồi cũng là lần đầu tiên nhìn thấy rắn đuôi bò cạp, bởi vậy câu trả lời này cũng không có gì không ổn. Phát hiện ý đồ của Tạ Liên, Nam Phong hỏi khẽ: “Huynh nghi ngờ tên A Chiêu này à?”

    Tạ Liên cũng nói khẽ: “Dù gì cũng đã mang hắn ra, theo dõi cẩn thận là được.”

    Nếu là ngày xưa, người trước tiên nói chuyện với y tất nhiên là Tam Lang, nhưng không biết có phải do chuyện hồi nãy không, sắc mặt thiếu niên nọ bây giờ vẫn không được tốt lắm, im lìm chẳng nói chẳng rằng. Tạ Liên không biết xảy ra chuyện gì, cũng không biết mở lời với đối phương thế nào, đành phải tiếp tục đi.
    Bốn người đi giữa sa mạc mênh mông gần nửa canh giờ, gió bão đã đi xa, không có bão cát chặn đường nên tiến độ rất nhanh. Dần dà, có thể trông thấy một ít cỏ dại sinh tồn hết sức gian khổ dọc đường đi, mọc trong khe hở của đá núi và cát. Mãi khi mặt trời sắp xuống núi, cuối cùng Tạ Liên nhìn thấy một tòa thành cổ ở chân trời.

    Tòa thành cổ này rất khó phát hiện, bởi vì nó mang màu vàng đất, hòa làm một với cát vàng mịt mù, còn bức tường thành đã đổ sụp, vài phần chôn vùi dưới cát vàng. Đi đến gần, bọn họ mới phát hiện bức tường thành này cao chót vót, chỗ cao nhất ước chừng vài chục trượng, không khó để tưởng tượng hình dáng vĩ đại ngày xưa của nó.

    Băng qua ủng thành, bốn người chính thức đặt chân vào biên giới Bán Nguyệt cố quốc.

    Qua cổng là gặp một con đường lớn, vẫn vừa rộng vừa trống hoác như cũ, hai bên đường toàn là vách đổ tường xiêu, nhà cửa lụp xụp, đá tảng vỡ nát, mảnh gỗ gãy vụn. Hẳn do dặn đi dặn lại mãi thành quen, A Chiêu nói: “Chư vị cẩn thận, đừng đi lung tung.” Tất nhiên ba người không cần A Chiêu dặn dò những điều đó. Có lẽ vì tòa thành cổ này kém xa nước Bán Nguyệt trong lòng mình, Nam Phong ngờ vực nói: “Đây là nước Bán Nguyệt ư? Sao nhỏ xíu vậy, còn không bằng một tòa thành nữa.”

    Tạ Liên nói: “Quốc gia nhỏ giữa sa mạc, ốc đảo to chừng nào, quốc gia lớn chừng nấy. Vào thời kỳ hưng thịnh, nước Bán Nguyệt cũng chỉ có tầm mười ngàn người, nó thật sự chỉ lớn thế này thôi, nhưng lúc đông người cũng được lắm, rất náo nhiệt.”

    Nam Phong quan sát một phen, nói: “Đánh quốc gia này, ắt chỉ là chuyện trong vài ngày.”

    Tạ Liên lắc đầu, nói: “Chưa chắc đâu. Nam Phong, ngươi đừng coi thường người Bán Nguyệt. Tuy dân số của bọn họ chỉ tầm mười ngàn người, nhưng quân đội lại duy trì ở mức hơn bốn ngàn suốt quanh năm. Bọn họ nam nhiều nữ ít, loại trừ người già yếu, loại thêm nông dân canh tác, hầu như tất cả đàn ông trai tráng còn lại đều gia nhập quân đội. Chưa kể binh sĩ Bán Nguyệt quả thật hận không thể người nào cũng cao ba mét, tính cách dũng mãnh hiếu chiến, tay cầm gậy nanh sói, dù lồng ngực cắm đao cũng dám xông về phía trước, khó đánh cực kỳ.”

    Dường như hơi bất ngờ, A Chiêu đưa mắt nhìn Tạ Liên, nói: “Vị công tử này có vẻ biết không ít nhỉ.”

    Tạ Liên giữ nguyên nụ cười, đang định thuận miệng nói tào lao, lúc này Nam Phong lại hỏi: “Bức tường kia là gì thế?”

    Thứ mà Nam Phong chỉ, chính là một kiến trúc đất vàng khổng lồ ở đằng xa.

    *Kiến trúc đất vàng: một loại kiến trúc từ thời cổ đại được làm chủ yếu từ đất cát màu vàng (Đất sét, đất dính).

    Nói là kiến trúc có vẻ không đúng lắm, bởi vì nghiêm túc mà nói, chỉ có thể gọi nó là một thứ được bao vây bởi bốn mặt tường đất đồ sộ, không có cửa, cũng không có nóc. Chỉ có bốn mặt tường đất, mỗi mặt đều cao hơn mười trượng (33 mét), đỉnh tường cắm một cây cột, thứ rách rưới không biết là cờ hay gì khác đang phất phơ theo gió. Không hiểu tại sao, nhìn mà khiến lòng người hơi ớn lạnh.

    Tạ Liên quay đầu nhìn lướt qua, nói: “Đó là hố tội nhân.”

    Vừa nghe tên là biết chắc chắn không phải thứ gì tốt, Nam Phong nhíu mày: “Hố tội nhân?”

    Trầm ngâm giây lát, Tạ Liên nói: “Ngươi có thể xem nó như một nhà giam, là nơi chuyên giam giữ kẻ có tội.”

    Nam Phong hỏi: “Ngay cả cửa cũng không có thì làm sao giam giữ? Chẳng lẽ ném thẳng từ trên xuống dưới sao?”

    Tạ Liên đang suy nghĩ có nên nói hay không, Tam Lang chợt lên tiếng: “Ném xuống. Hơn nữa bên dưới toàn là rắn rết có độc và thú dữ đói khát.”

    Nghe Tam Lang cuối cùng cũng mở miệng, Tạ Liên nhẹ nhõm phần nào, y đưa mắt nhìn đối phương, nhưng Tam Lang chỉ nhìn y chốc lát rồi cũng dời mắt đi. Nam Phong mắng: “Mẹ nó đây mà là nhà giam khỉ gì! Đây rõ ràng là cực hình, thật quá sức độc ác. Nếu người Bán Nguyệt không phải đầu óc có bệnh thì là hung tàn thành tính.”

    Tạ Liên xoa xoa ấn đường, nói: “Cũng không hẳn vậy, trong số người Bán Nguyệt cũng có người rất đáng yêu…” Lúc này, y bỗng dưng nghẹn lời, nhíu mày nói: “Khoan đã.”

    Ba người còn lại dừng bước ngay, Tạ Liên giơ tay lên, hỏi: “Các ngươi nhìn cây cột trên cái hố kia xem, có phải đang treo một người không?”

    Mặt trời lặn về hướng Tây, màn đêm buông xuống, khoảng cách lại khá xa, rất khó nhìn rõ rốt cuộc thứ gì bị treo trên cây cột kia, nhưng nhích đến gần một chút, nhìn đường nét của vật bị treo, rõ ràng là một người áo đen nhỏ gầy, quần áo rách rưới, bị treo trên hố tội nhân, hệt như một con búp bê rách, để mặc gió thổi đung đưa qua lại.

    Tam Lang nói: “Đúng vậy, còn là một cô gái nữa.”

    Vừa thấy có người bị treo ở đó, sắc mặt A Chiêu trắng bệch. Cảnh tượng này thảm thương và quỷ dị cùng cực, rốt cuộc khiến cho người bình tĩnh như hắn cũng chịu không nổi. Đúng lúc này, Tam Lang khẽ nghiêng đầu, trầm giọng nói: “Có người.”

    Không chỉ riêng Tam Lang cảm giác được, Tạ Liên cũng nghe được tiếng bước chân cực nhẹ. Hai bên đường toàn là nhà cửa đổ nát, bốn người lập tức tản ra trốn vào đó. Tạ Liên và Tam Lang cùng núp trong một gian nhà xập xệ, Nam Phong và A Chiêu thì núp trong gian nhà đối diện. Không lâu sau, phía cuối con đường tan hoang, xuất hiện một nữ đạo sĩ áo trắng.

    Nàng ta mặc áo đạo sĩ trắng muốt lả lướt, cánh tay khoác phất trần, bước đi trên đường, nhìn ngang nhìn dọc, hai mắt sáng rực, dáng vẻ ấy hệt như nơi này không phải một tòa thành cổ bỏ hoang nhiều năm, mà là một vườn hoa nhỏ sau nhà mặc cho nàng ta thỏa thích dạo chơi. Mà cách đó không xa, một nữ đạo sĩ áo đen chắp tay mà đi, chậm rãi bước sau lưng nàng.

    Nữ đạo sĩ áo đen này mặt tuy đẹp nhưng lạnh buốt, ánh mắt tựa dao găm ra khỏi vỏ, mái tóc dài xõa tung, toàn thân như tỏa ra khí lạnh nhàn nhạt. Tuy rằng nàng ta đi sau nữ đạo sĩ áo trắng, song chẳng có ai xem nàng là thuộc hạ của người nào.

    Chính là hai người mà bọn họ nhìn thấy bên ngoài tòa nhà nhỏ bỏ hoang vào giờ Ngọ.

    Lúc đó thân hình hai người này chợt lóe lên, vóc dáng người áo đen lại cao gầy, Tạ Liên không thấy rõ rốt cuộc là nam hay nữ, bây giờ mới biết thì ra cả hai đều là nữ. Người mặc áo trắng chỉ có thể là quốc sư Bán Nguyệt, vậy người áo đen là ai đây?

    Quốc sư Bán Nguyệt kia thong thả vẫy phất trần, nói: “Mấy kẻ đó lại trốn đi đâu rồi? Mới vừa không để ý đã chẳng thấy tăm hơi, lẽ nào muốn ta tìm từng người một ra giết sao?”

    Tạ Liên nghĩ thầm, quả nhiên bọn họ vừa vào thành đã lập tức bị theo dõi.

    Nữ đạo sĩ áo đen đi tới, mặt lạnh tanh lướt qua người nàng, nói: “Ngươi có thể gọi đám bạn của ngươi đến giết hộ.”

    “Đám bạn” này, chỉ có thể ám chỉ đám binh sĩ Bán Nguyệt lực sát thương siêu mạnh kia. Quốc sư Bán Nguyệt cười nói: “Ta không thích gọi người khác, ta thích gọi ngươi đó. Vui chưa?”

    Nữ đạo sĩ áo đen không chừa cho người ta chút mặt mũi nào, lạnh lùng nói: “Bị ngươi gọi đến làm loại chuyện này có gì đáng vui chứ. Đi nhanh lên.”

    Quốc sư Bán Nguyệt nhướn lông mày, rồi cũng đi nhanh lên thật. Nghe đối thoại của các nàng, có vẻ giống người quen cũ quan hệ thân thiết. Chắc chắn hai vị này không phải người bình thường, nữ đạo sĩ áo đen tất nhiên không phải hạng vô danh. Nữ giới quen biết với quốc sư Bán Nguyệt, có ai đây? Đồng môn bí ẩn (đồng môn = bạn cùng học một thầy)? Hay thật ra nước Bán Nguyệt có một vị nữ vương hoặc nữ Tướng quân?

    Tạ Liên vừa gấp rút suy tư vừa nín thở, chẳng hề muốn bị phát hiện vào lúc này. Bây giờ xem ra, quốc sư Bán Nguyệt này tính tình vô cùng nhanh nhạy, lỡ như trông thấy bọn họ, hứng lên gọi đám binh sĩ Bán Nguyệt cao ba mét cầm gậy nanh sói trong truyền thuyết kia tới, thế lại phải tẩn nhau trong một khoảng thời gian. Mười hai canh giờ, ít một canh giờ nguy hiểm thêm một phần. Nào ngờ thể chất của y chính là càng không muốn cái gì tới, cái đó sẽ càng tới. Lúc đi ngang qua trước gian nhà này, nữ đạo sĩ áo đen thình lình dừng bước, ánh mắt sắc lẻm lướt qua đây.

    Quốc sư Bán Nguyệt kia đã đi lên trước vài bước, thấy đồng bạn dừng bước thì xoay người ra sau, hỏi: “Uầy, có đi không thế?”

    Nữ đạo sĩ áo đen nói: “Ngươi, lùi lại.”

    Quốc sư Bán Nguyệt “ồ” một tiếng rồi lùi lại thật. Nữ đạo sĩ áo đen có vẻ đang định nhấc tay, đột nhiên, con đường dài đối diện nổ ầm một tiếng!

    Đối diện, gian nhà mà bọn Nam Phong đang ẩn náu bất thình lình sụp xuống. Gian nhà này vừa sụp, trái phải đồng loạt sụp theo, trên đường thoáng chốc cát bụi cuồn cuộn, một bóng đen nhảy phắt ra giữa cát đất đá bay mù trời, tung một ngọn lửa cháy rực, đánh về phía quốc sư Bán Nguyệt. Nữ đạo sĩ áo đen xoay người lại, chắn trước người quốc sư Bán Nguyệt, tay trái vẫn chắp sau lưng, tay phải vớ đại một cái, nắm ngọn lửa đó trong lòng bàn tay, ném trả lại cho đối phương. Bóng đen kia cũng nhanh như chớp, lắc mình né tránh, sau vài lần thỏ vừa nhảy lên chim bay xuống bắt (hình dung động tác nhanh nhẹn), bóng đen kia cuốn theo một trận cát bụi đi mất. Quốc sư Bán Nguyệt đuổi theo, còn nữ đạo sĩ áo đen liếc mắt nhìn sang đây một cái, bấy giờ mới đuổi theo.

    Biến cố xảy ra chỉ trong khoảnh khắc, Tạ Liên nhủ thầm: “Nam Phong giỏi!” Lòng biết tất nhiên là Nam Phong trốn ở đường đối diện thấy bên này sắp bị phát hiện nên giương đông kích tây, giúp bọn họ dụ kẻ địch đi. Nam Phong chỉ nhảy ra một mình, vậy A Chiêu chắc chắn còn trong nhà. Sau khi xác định ba người kia đều đã đi xa, Tạ Liên kéo Tam Lang ra ngoài, nói: “A Chiêu, ngươi còn sống chứ, có bị thương không?”

    Lát sau, dưới gian nhà đổ sụp truyền đến một giọng bí xị: “… Không có gì.”

    Tạ Liên yên tâm, nói: “Không có gì là tốt rồi.”

    Mặc dù y tin rằng lúc đánh sập gian nhà, tất nhiên Nam Phong đã kiểm soát cẩn thận, chừa lại không gian cho người sống khác, nhưng chung quy vẫn phải xác nhận mới yên tâm được. Tạ Liên dùng một tay nhấc một cây cột nhà mục nát lên, không lâu sau, A Chiêu vất vả bò ra từ dưới gian nhà, mặt và đầu cổ toàn là bụi, hắn tiện tay phủi mấy cái, sắc mặt lại hờ hững như thường.

    Tạ Liên hỏi: “Bây giờ chúng ta chỉ còn lại ba người. Nam Phong bị truy đuổi chạy mất rồi, chúng ta phải tăng tốc mới được. A Chiêu, ngươi biết cỏ Thiện Nguyệt sinh trưởng tại chỗ nào trong thành chứ?”

    A Chiêu lại lắc đầu, nói: “Xin lỗi. Ta chỉ biết vị trí của thành cổ chứ chưa đến bao giờ, cũng không rõ cỏ Thiện Nguyệt mọc ở đâu.”

    Bên cạnh, Tam Lang nói: “Nghe đâu cỏ Thiện Nguyệt thích âm, kích cỡ thấp bé, gốc rễ cực mảnh, phiến lá lại khá lớn, hình dạng tương tự một quả đào miệng nhọn, chi bằng huynh đi tìm xung quanh kiến trúc đồ sộ kia đi.”

    Cân nhắc một lát, Tạ Liên hỏi: “Kiến trúc đồ sộ?”

    Nói đến kiến trúc đồ sộ, trong một quốc gia, còn kiến trúc nào đồ sộ hơn hoàng cung? Hơn nữa trong truyền thuyết thần thoại kia, hoàng hậu ngắt một nhúm cỏ Thiện Nguyệt sau buổi tiệc rượu, từ đó cũng có thể giải thích, cỏ Thiện Nguyệt có khả năng mọc trong hoàng cung.

    Ba người nhìn ra xa một phen, quả nhiên trông thấy một tòa cung điện dựng nên bằng gỗ và gạch đá trong thành.

    Nhìn từ xa, cung điện đó còn có chút khí thế, nhưng khi nhìn gần, mức độ xập xệ cũng chỉ đỡ hơn những gian nhà trên đường một chút. Băng qua cổng cung điện, chính là một vườn hoa rộng lớn. Có lẽ trước đây nơi này không phải là vườn hoa mà là một quảng trường gì đó, nhưng hiện tại bỏ hoang nhiều năm, chỉ còn thừa lại một mảnh đất mọc đầy các loại thực vật màu xanh.

    Đúng thế, chân không giẫm cát đất mà là bùn đất, có thể là vết tích còn sót lại của ốc đảo. Cỏ Thiện Nguyệt, có khả năng đang ẩn núp trong hằng hà sa số thực vật này. Tạ Liên nói: “Tranh thủ thời gian tìm đi. Chúng ta chỉ có mười hai canh giờ, có điều vẫn phải cẩn thận rắn đuôi bò cạp nhé.”

    A Chiêu đáp lời, Tam Lang cũng “ừ” một tiếng, ba người đều cúi đầu tìm kiếm. Tạ Liên chợt nhớ ra, nếu quốc sư Bán Nguyệt có thể điều khiển rắn đuôi bò cạp, vậy sau khi đến địa bàn của ả, ắt sẽ xuất hiện nhiều rắn đuôi bò cạp hơn. Nhưng sau khi ba người tiến vào thành cổ Bán Nguyệt, một con rắn đuôi bò cạp cũng không thấy.

    Y đứng thẳng lên, đang định mở miệng, lúc này tay bỗng mò trúng một vật hình trụ.

    Cúi đầu nhìn thử, là một cái chân người.

    Chương 23: Rút ngàn dặm đất, lạc giữa bão cát (4)

    “Úi á á á á!!!!”

    Tạ Liên rút tay về, im lặng hồi lâu.

    Y phát hiện, mỗi lần mình nhìn thấy hoặc mò trúng thứ gì trong bóng đêm, đối mặt với tình cảnh đáng sợ như thế, thông thường toàn là y chưa hé răng tiếng nào, đối phương đã la làng trước.

    Lùm cây bụi cỏ trong vườn hoa này vốn đã vừa cao vừa rậm rạp, khi nãy có một người lén lút trốn trong bụi cỏ, bị Tạ Liên mò trúng cẳng chân. Cái chân đó nhanh chóng rút về, trước bụi cỏ lay động xào xạc, một người kêu lên: “Đừng đánh đừng đánh, là ta nè ca ca ơi!”

    Tạ Liên chăm chú nhìn kỹ, quả thật không tài nào ngờ nổi, người kêu la “đừng đánh đừng đánh”, ấy thế mà lại là thiếu niên Thiên Sinh mày rậm mắt to kia. Thấy Tạ Liên nhận ra mình, Thiên Sinh thở phào nhẹ nhõm, nhưng sau khi thấy rõ là cậu ta, Tạ Liên không hề thở phào nhẹ nhõm, trái lại càng đề cao cảnh giác, y giơ một cánh tay chắn trước người, nói: “Chẳng phải ngươi ở lại chỗ cũ săn sóc người bị thương với những người khác sao? Tại sao lại ở đây? Ngươi là Thiên Sinh thật ư?” Xuất hiện trong tình huống thế này, càng giống thứ gì khác biến ra giả mạo hơn.

    Thiên Sinh vội nói: “Là ta! Là ta thật mà, không riêng gì ta, còn có ba thúc thúc đi chung với ta nữa! Bọn họ đang ở trong đó, không tin huynh nhìn đi!” Thiên Sinh chỉ một ngón tay vào cung điện, quả nhiên không lâu sau, có ba người chạy ra từ đại điện tan hoang, chính là vài người trong nhóm thương nhân khi nãy. Thấy Tạ Liên, cả bọn đều ngơ ngẩn, sau đó tỏ vẻ xấu hổ. Tạ Liên đứng dậy, phủi phủi vạt áo trắng, hỏi: “Các ngươi sao thế?”

    Y vừa hỏi, mấy gã thương nhân đều ngượng ngùng không đáp. Hồi lâu sau, Thiên Sinh lúng ta lúng túng nói: “… Các ca ca đi chưa được bao lâu, độc của Trịnh bá bá lại phát tác. Ông ấy phát độc dữ quá, chúng ta… cũng không biết khi nào các huynh mới về, sợ các huynh tìm không được hoặc về muộn. A Chiêu ca nói đi theo con đường kia sẽ tìm được Bán Nguyệt quốc, bởi vậy chúng ta nghĩ, thêm vài người sẽ tìm nhanh hơn nên mới theo tới đây…”

    Nói đi nói lại, vẫn là hối hận, sợ bọn Tạ Liên tìm được cỏ Thiện Nguyệt rồi dẫn A Chiêu chuồn mất, chung quy vẫn không yên tâm nên cũng đuổi tới đây, mà Tạ Liên hoàn toàn có thể tưởng tượng được, nếu không thể khuyên nhủ bọn họ, có lẽ Phù Dao cũng dứt khoát lười ngăn cản, từ chuyện lần trước ở núi Dữ Quân, có thể thấy đối với những kẻ khăng khăng cố chấp không nghe khuyên bảo chạy vào chỗ chết, Phù Dao vốn chẳng buồn cứu vãn. Mặc dù có thể thông hiểu cho bọn họ, song Tạ Liên cũng vô cùng bất đắc dĩ, y xoa xoa ấn đường, nói: “Lá gan của các ngươi cũng to thật. Đâu phải các ngươi không biết trong tòa thành này có thể có cái gì, có thể sẽ xảy ra chuyện gì, vậy mà cũng dám tới?”

    Xem ra cũng biết hành động này chứng tỏ mình không tin tưởng bọn họ, Thiên Sinh có vẻ hơi áy náy, khi nãy cậu ta nằm sấp trong bụi cỏ không dám lên tiếng ắt hẳn cũng vì thấy xấu hổ. Thiên Sinh nói: “Xin lỗi, mạng người quan trọng, sốt ruột quá nên…”

    Cũng không còn cách nào, chuyện liên quan đến mạng người, cẩn thận hơn chút cũng bình thường thôi. Hơn nữa chịu mạo hiểm đi lấy dược thảo cho người khác, xem như cũng có tình có nghĩa. Tạ Liên không tiện nhiều lời, thở dài: “Trên đường đi vào tòa thành cổ này, các ngươi không đụng phải thứ gì quả thật may mắn lắm đấy. Nói trở lại, sao các ngươi biết phải đến hoàng cung tìm cỏ Thiện Nguyệt?”

    Thiên Sinh gãi gãi đầu, nói: “Chúng ta cũng không biết phải đến đâu tìm, nhưng câu chuyện mà ca ca áo đỏ kể chẳng nói hoàng hậu ngắt cỏ Thiện Nguyện còn gì? Hoàng hậu không thể tùy tiện rời khỏi hoàng cung được, vậy nên ta mới nghĩ, liệu mình có thể đến hoàng cung thử vận may không.”

    Tạ Liên cười cười, nhủ thầm lý do này nghĩ giống mình đấy chứ. Đúng vào lúc này, Tam Lang ở bên cạnh nói: “Tìm được rồi.”

    Tạ Liên ngoảnh đầu nhìn, chỉ thấy Tam Lang sải đôi chân thon dài bước tới. Thứ hắn cầm trong tay, là một phiến lá màu xanh ngọc còn dính chút gốc rễ.

    Phiến lá này lớn chừng lòng bàn tay trẻ con, gốc rễ cực mảnh, mang hình quả đào, đuôi lá nhọn hoắt. Không hiểu tại sao, Tạ Liên có cảm giác mình hoàn toàn không cần tìm A Chiêu xác nhận, đây chắc chắn là cỏ Thiện Nguyệt trong truyền thuyết. Chẳng đợi Tạ Liên lên tiếng, Tam Lang đã cầm bàn tay bị thương của y lên.

    Bàn tay đó bị đâm một nhát, lẽ ra sưng đến dọa người, sau khi Tam Lang hút độc ra cho y, tuy rằng độc tố chưa hết nhưng vết sưng đã giảm đi nhiều. Bấy giờ, Tam Lang dùng một tay nâng bàn tay bị thương của y, tay còn lại cầm cỏ Thiện Nguyệt, khép năm ngón vào nhau, chẳng thấy hắn dùng sức thế nào mà đến khi mở ra lần nữa, phiến lá đó đã vỡ thành một đống vụn màu xanh.

    Tam Lang cẩn thận bôi đống vụn xanh đó lên mu bàn tay của Tạ Liên. Cảm nhận được từng đợt xúc cảm man mát dịu nhẹ chậm rãi lan ra từ miệng vết thương, Tạ Liên nói: “Tam Lang, cảm ơn đệ nhiều.”

    Tam Lang lại không trả lời, bôi thảo dược xong là thả tay y xuống ngay. Thái độ này của hắn, cộng thêm bầu không khí giữa hai người họ, Tạ Liên cứ cảm thấy có chỗ nào kỳ quặc, nhưng lại không biết nên mở lời hỏi làm sao, hỏi kiểu nào cũng thấy không ổn lắm. Người ngoài lại hoàn toàn không để tâm đến những điều này, cũng không hiểu được điểm tế nhị, Thiên Sinh sốt sắng nói: “Ca ca, thảo dược hiệu quả không? Cỏ này tìm đúng chứ?”

    Tạ Liên phục hồi tinh thần lại, đáp: “Đỡ hơn nhiều rồi, hẳn là đúng đấy.”

    Nghe vậy, những người khác vô cùng phấn khởi, nhao nhao nói: “Mau lên, tìm tiếp đi.” Không lâu sau, A Chiêu cũng giơ một nắm lá xanh lên, nói: “Bên ta cũng tìm được này.”

    Lá của cỏ Thiện Nguyệt trên tay A Chiêu trông to dày hơn phiến lá nhỏ đáng thương mà khi nãy Tam Lang vừa tìm thấy. Mọi người nhìn thử, đặc điểm hình dạng không khác gì nhau, cả bọn vội vàng nhào qua, mừng rỡ nói: “Chỗ này có một mảng lớn luôn nè!” “Nhiều quá!” “Mau ngắt nhiều chút.” “Ngắt dư đem về bán được không?”
    Bọn họ bận rộn ngắt thảo dược, Tạ Liên quay đầu nhìn mu bàn tay của mình, cân nhắc giây lát rồi nói với Tam Lang: “Nơi mà bọn họ đang tìm, hình như khi nãy đệ đã tìm rồi, lúc đó đệ không phát hiện sao?”

    Tạ Liên hỏi vậy chỉ đơn thuần vì tìm đề tài thôi. Sau khi mở miệng, bản thân y cũng cảm thấy câu này quá tẻ nhạt. Tam Lang lại lắc đầu, nói: “Huynh không cần dùng cỏ chỗ đó.”

    Tạ Liên ngạc nhiên hỏi: “Tại sao?”

    Nào ngờ Tam Lang còn chưa lên tiếng nói nguyên nhân, chợt nghe một tiếng hét thảm: “Tránh ra!”

    Mọi người bỗng chốc sửng sốt, động tác khựng lai, đua nhau nói: “Là ai kêu thế?” “Ta không có!” “Cũng không phải ta…”

    Bấy giờ, lại nghe giọng nói thê lương kia cất lên: “Tránh ra, ngươi đạp lên ta nè…”

    Lần này mọi người mới chú ý — Giọng nói đó, thế mà lại truyền đến từ bên chân bọn họ!

    Trong chớp mắt, những người tụ tập bên kia ngắt cỏ Thiện Nguyệt lũ lượt tản ra. Tạ Liên sớm đã quen với việc đi lên cáng đáng vào những lúc như thế này. Người khác lùi, y thì lên. Thế cho nên, Tạ Liên đi tới chỗ phát ra tiếng kêu thảm thiết, chìa tay chậm rãi gạt bụi cỏ rậm rạp ra. Vừa mới gạt, những người đứng tại chỗ đều ngừng thở.

    Chỉ thấy dưới bụi cỏ, trong đất bùn, ngờ đâu lại chôn một gương mặt đàn ông…

    Trong mảnh đất này, thế mà lại có cả một người sống bị chôn dưới bùn đất, chỉ để lộ gương mặt!

    Hình ảnh đó quả thật quỷ dị không lời nào tả xiết, các thương nhân tức thì sợ đến mức ôm nhau hét toáng lên. Tạ Liên an ủi một cách thành thạo: “Đừng sợ, mọi người bình tĩnh nào, chỉ là gương mặt thôi. Đâu có gì ghê gớm lắm, ai mà không có mặt đúng không?”

    Gương mặt kia cười ha ha: “Dọa các ngươi rồi hả? Hầy… ta cũng thường xuyên tự dọa chính mình.”

    Tạm trấn an những người khác xong, Tạ Liên khuỵ gối xuống, cẩn thận quan sát gương mặt chôn dưới đất.

    Đây là gương mặt của một người đàn ông, lúc không cười trông dẹp lép, lúc cười lại có hàng đống nếp nhăn, không rõ là già hay trẻ, cũng không thể rõ là xấu hay đẹp. Nhìn hồi lâu cũng nhìn không ra đây là thứ gì, Tạ Liên đành mở miệng hỏi thẳng: “Lão là ai?”

    Gương mặt chôn dưới đất nói: “Các ngươi là ai?”

    Tạ Liên nói: “Đội buôn qua đường.”

    Gương mặt chôn dưới đất thở dài một hơi: “Ầy, đội buôn qua đường. Ta cũng từng là đội buôn qua đường, có điều đó đã là chuyện của năm sáu mươi năm trước rồi.”

    Lão vừa nói thế, hình ảnh này càng quỷ dị bội phần.

    Lão ta bị chôn dưới mảnh đất của toà thành cổ bỏ hoang này năm sáu chục năm, thế còn là người sao?

    Một thương nhân thấp thỏm hỏi: “Vậy… vậy lão đây… tại sao lại đến nơi này… thế?”

    Gương mặt chôn dưới đất ho khan vài tiếng, nhăn mặt nói: “Ta… ta bị binh sĩ Bán Nguyệt bắt tới. Ta sơ ý vào thành, bị bọn chúng tóm được, bọn chúng chôn ta dưới đất, biến ta thành phân bón của mớ cỏ Thiện Nguyệt này…”

    Thì ra mớ cỏ Thiện Nguyệt này đều nuôi bằng phân bón làm từ người sống, thảo nào to dày như thế!

    Các thương nhân vội vàng ném nắm cỏ Thiện Nguyệt đầy ắp trong tay xuống đất, cảm thấy khi nãy mình chẳng khác nào cầm thi thể. Tạ Liên cũng nhịn không được cúi đầu nhìn mu bàn tay của mình, chỉ nghe Tam Lang nói: “Bên kia không sao hết.”

    Tạ Liên vừa nghĩ cũng hiểu ngay. Hèn gì khi nãy Tam Lang rõ ràng đã tìm ở mảnh đất này, nhưng lại đến mảnh đất khác tìm rồi mới ngắt một phiến lá cỏ Thiện Nguyệt nhỏ mỏng về. Chỉ sợ khi nãy Tam Lang đã nhìn thấy gương mặt chôn dưới đất, nhưng lại thẳng thừng bỏ qua nó, ngoảnh đầu sang nơi khác tìm, mãi khi tìm được một phiến lá thuốc sạch sẽ ở nơi khuất nẻo không dùng người sống làm phân bón, bấy giờ mới bôi cho y.

    Tạ Liên nói: “Cảm ơn đệ nhiều lắm nha.”

    Tam Lang lắc đầu, sắc mặt vẫn sa sầm như cũ.

    Kể từ lúc y bị rắn đuôi bò cạp đâm trúng trước khi vào thành cổ Bán Nguyệt, Tam Lang vẫn giữ thái độ như thế. Mấy ngày trước ở cạnh nhau, Tam Lang vẫn luôn miệng gọi ca ca ơi, ca ca à, nhưng bây giờ chẳng gọi một tiếng nào. Hơn nữa tuy ngày đầu tiên quen biết, thiếu niên này tỏ vẻ vô cùng kháng cự tiếp xúc với y, nhưng mấy ngày chung sống sau đó lại dường như không còn chuyện này nữa. Vậy mà bây giờ, ngoại trừ vừa rồi hút độc và bôi thuốc cho y, Tam Lang có vẻ đang cố hết sức tránh tiếp xúc cơ thể với y. Điều này thật sự khiến Tạ Liên cảm thấy kỳ quặc đến lạ, và cũng thấy không quen cho lắm.

    Lúc này, gương mặt chôn dưới đất lại mở miệng: “Ta đã nhiều năm không nhìn thấy người sống, các ngươi… các ngươi qua đây đứng, cho ta nhìn rõ vào, được không?”

    Mọi người đưa mắt nhìn nhau, đồng loạt cảm thấy không làm theo lời gã nói thì tốt hơn. Hồi lâu sau, thấy chẳng ai hưởng ứng, gương mặt chôn dưới đất lẩm bẩm: “Sao vậy, các ngươi không muốn à? Ôi… đáng tiếc…”

    Tạ Liên quay đầu, hỏi: “Đáng tiếc cái gì?”

    Gương mặt chôn dưới đất nói: “Từ lúc các ngươi vào đây, có một việc mà ta đặc biệt chú ý, rất muốn dùng hai mắt của mình xác nhận một chút, cho nên mới muốn các ngươi đứng qua đây cho ta nhìn. Bởi vì ta muốn nhìn kỹ từng người một các ngươi.”

    Tạ Liên hỏi: “Việc gì?”

    Gương mặt chôn dưới đất nói: “Trong số các ngươi, có một người… ta đã gặp vào năm sáu mươi năm trước.”

    Lời vừa thốt ra, ai nấy cũng bất chợt lạnh cả sống lưng.

    Tất cả người thường ở đây đều không thể nào trên năm mươi tuổi. Nếu nói trong nhóm bọn họ có một người mà gương mặt chôn dưới đất này từng gặp vào năm sáu mươi năm trước, vậy người này chắc chắn không phải là người.

    Ánh mắt của Tạ Liên lướt qua gương mặt từng người một, bắt đầu từ A Chiêu, kết thúc ở Thiên Sinh, người thì hơi sợ, người thì hãi hùng, người thì kinh ngạc hoài nghi, người thì trố mắt cứng họng, phản ứng của mọi người vô cùng hợp lẽ thường. Nếu nhất định phải nói có phản ứng của ai không hợp lẽ thường, vậy chỉ có Tam Lang hoàn toàn không có phản ứng gì. Nhưng mà đối với thiếu niên này, ắt hẳn không có phản ứng mới là phản ứng bình thường.

    Nhìn Tam Lang không hề tỏ thái độ gì, Tạ Liên quay đầu hỏi: “Người mà lão nói, là ai?”

    Gương mặt chôn dưới đất đáp: “Ngươi… ngươi tới gần một chút, ta sẽ nói cho ngươi biết.”

    Nếu nói lúc lão thốt câu đầu tiên, Tạ Liên tin lão tám phần mười, vậy thì sau câu này, niềm tin của Tạ Liên dành cho lời lão nói chỉ còn lại năm phần. Làm sao biết con quái vật đó không phải muốn lừa người tới gần rồi bất ngờ nổi loạn?

    Tất nhiên Tạ Liên sẽ không nghe lời lão, y đứng dậy lùi ra sau. Gương mặt chôn dưới đất lại nói: “Ngươi thật sự không muốn biết người kia là ai sao? Hắn sẽ hại chết tất cả các ngươi đấy.”

    Chương 24: Hoa Liên ái muội, đêm rớt hố tội nhân

    Lão càng dẫn dụ như thế, Tạ Liên càng cảm thấy nguy hiểm: “Mọi người lùi lại, đừng đến gần nó, cũng đừng để ý lời nó nói.”

    Mọi người vội vã nghe lời y, hoảng loạn tản ra. Gương mặt chôn dưới đất kia vừa cười ha ha vừa nói: “Ôi, các ngươi cần gì phải thế, ta cũng là người, ta sẽ không hại các ngươi đâu.”

    Nào ngờ đúng vào lúc này, biến đổi dị thường bất thình lình xảy ra. Hẳn do nghĩ rằng bất luận thế nào cũng phải lấy chút thảo dược về cứu người, một thương nhân lén lút bước lên trước vài bước, khom lưng muốn nhặt một nắm cỏ Thiện Nguyệt khi nãy bị dọa lỡ tay ném rớt. Con ngươi của gương mặt chôn dưới đất xoay qua nhanh như chớp, trong mắt lóe lên một tia sáng.

    Tạ Liên nghĩ thầm không ổn rồi, bước lên nói: “Đừng nhặt! Quay lại đi!” Nhưng tất cả đã muộn, gương mặt chôn dưới đất đột nhiên há miệng, một thứ đỏ tươi ‘víu’ một tiếng trượt ra khỏi miệng lão.

    Một chiếc lưỡi dài ngoằng!

    Tạ Liên xốc cổ áo sau của thương nhân kia lên, liên tục thụt lùi, nhưng thứ bay ra từ miệng của gương mặt chôn dưới đất lại dài một cách đáng kinh ngạc, phụt một tiếng chui tọt vào một bên tai của thương nhân kia!

    Tạ Liên cảm giác được cơ thể dưới tay run giật dữ dội, tứ chi của thương nhân kia liên tục co rụt, gã phát ra một tiếng kêu thảm ngắn ngủi, hai đầu gối quỳ xuống đất. Chiếc lưỡi dài nọ nhanh chóng móc ra một cục máu me be bét từ lỗ tai của gã thương nhân, rút về trong miệng của gương mặt chôn dưới đất. Gương mặt chôn dưới đất vừa nhai vừa cười, nhai đến miệng đầy máu tươi, cười mà gần như muốn lật tung cái nóc của hoàng cung xập xệ này, thét lớn: “Ha ha ha ha ha ha ha ha ha ha ha! Ngon quá ngon quá ngon quá, ngon quá ngon quá ngon quá! Ngon quá ngon quá!! Đói chết ta, đói chết ta!”

    Tiếng cười này the thé mà bén nhọn, hai tròng mắt chi chít tơ máu, buồn nôn cùng cực, quả thật buồn nôn cùng cực!

    Lão ta bị chôn ở đây hơn năm mươi năm, sớm đã bị quốc gia quỷ quái này đồng hóa, triệt để biến thành một thứ khác. Tạ Liên buông tay phải xốc cổ áo sau của thương nhân kia, cả cánh tay run bần bật, đang định tung một chưởng chém thứ ghê tởm này, chợt nghe gương mặt chôn dưới đất hét to: “Tướng quân! Tướng quân! Bọn chúng ở đây nè! Bọn chúng ở đây nè!”

    Chỉ nghe một tiếng gào rống còn hung mãnh hơn thú hoang, một bóng đen từ trên trời giáng xuống, rơi phịch xuống trước mặt Tạ Liên.

    Giây phút bóng đen nọ đáp xuống, gần như toàn bộ mặt đất đều bị giẫm cho chấn động. Mà đợi khi gã chậm rãi đứng dậy, tất cả mọi người đều bị bao phủ dưới bóng mờ to tướng mà gã chiếu xuống.

    “Người” này, thật sự quá đỗi cao lớn.

    Mặt gã ngăm đen như sắt, ngũ quan hung hãn tục tằng, trông như khuôn mặt của một loài thú. Ngực và bả vai khoác áo giáp bảo hộ, cao hơn ba mét, thay vì nói là người, nói là con sói khổng lồ đứng thẳng đi lại thì đúng hơn. Mà sau lưng gã, liên tục có một, hai, ba… hơn mười “người” nhảy xuống từ trên nóc hoàng cung.

    Những “người” này, ai nấy cũng cao to vạm vỡ, vóc người tương đương nhau, bả vai vác một cây gậy nanh sói mọc đầy răng nhọn, tạo cho người ta ảo giác như bầy sói hóa thành người. Sau khi đáp xuống, bọn gã vây kín những người trong vườn hoa, hệt như một vòng tháp sắt đồ sộ.

    Binh sĩ Bán Nguyệt!

    Quanh thân đám binh sĩ này tỏa ra từng luồng khí đen, hiển nhiên từ lâu đã không còn là người sống. Tạ Liên căng cứng toàn thân, Nhược Da vận sức chờ phát động.

    Thế nhưng sau khi nhìn thấy bọn họ, đám binh sĩ Bán Nguyệt không lập tức nhào lên chém giết, thay vào đó, bọn chúng phát ra tiếng cười điên cuồng chấn động cả trời, dùng ngôn ngữ dị tộc lớn tiếng quát lẫn nhau. Chất giọng đó nghe cực kỳ quái dị, phát âm luyến láy, uốn líu cả lưỡi, chính là tiếng của nước Bán Nguyệt.

    Tuy rằng đã nói hai trăm năm, song Tạ Liên đã quên hết bảy tám phần tiếng Bán Nguyệt, nhưng vừa rồi ở mộ tướng quân xem như đã cùng ôn tập với Tam Lang, cộng thêm giọng nói của đám binh sĩ này vang như chuông đồng, từ ngữ đơn giản, phun lời thô lỗ, thật ra không khó để nghe hiểu. Tạ Liên nghe được tất cả binh sĩ Bán Nguyệt gọi gã đầu tiên nhảy xuống là “Tướng quân”, trong lúc nói chuyện lần lượt xen vào những từ như “Giải đi”, “Tạm thời không giết”. Y hít sâu một hơi, thấp giọng nói: “Mọi người đừng hoảng, mấy gã Bán Nguyệt này tạm thời sẽ không giết người, hình như muốn đưa chúng ta đến nơi khác. Tuyệt đối đừng manh động, ta không thể đảm bảo sẽ đánh thắng được bọn chúng, tùy cơ ứng biến thôi.”

    Đám binh sĩ này nhìn là thấy khó đối phó rồi, gã nào gã nấy da dày thịt béo, mặc dù y có Nhược Da trong tay, song thắt cổ chết một gã e rằng cũng tốn không ít sức lực, huống chi lên một lúc mười mấy gã? Hiện giờ còn có vài người bình thường ở đây, nếu đám binh sĩ Bán Nguyệt nói “Tạm thời không giết”, Tạ Liên lại không chắc mình có thể chế ngự kẻ địch một lượt, đồng thời còn phải bảo vệ người khác chu toàn, vì thế chỉ đành tạm thời yên lặng theo dõi tiến triển.

    Tam Lang không nói tiếng nào, còn những người khác vốn dĩ cũng không có chủ trương gì, cho dù muốn manh động cũng chẳng biết phải manh động ra sao, cả bọn rưng rưng nước mắt gật đầu, chỉ có gương mặt chôn dưới đất kia vẫn còn hét om sòm: “Tướng quân! Tướng quân! Ngài thả ta đi mà! Ta đã giúp ngài giữ chân kẻ địch, ngài thả ta về nhà đi! Ta muốn về nhà!”

    Gặp đám binh sĩ Bán Nguyệt này, sắc mặt lão kích động tột độ, vừa la hét vừa nức nở, trong tiếng hét còn lẫn một ít từ ngữ Bán Nguyệt nửa nạc nửa mỡ, hẳn là lão học bừa trong năm sáu chục năm làm phân bón ở đây. Thấy có thứ gì đó liên tục giãy dụa la hét dưới lớp đất bên này, gã Bán Nguyệt cao ba mét được gọi là “Tướng quân” có vẻ cũng thấy rất buồn nôn, gã nện gậy nanh sói xuống dưới, vài mũi nhọn sắc bén đâm xuyên qua đầu của gương mặt chôn dưới đất. Gã lại nhấc gậy lên, mũi nhọn cứ thế ghim mặt của gương mặt chôn dưới đất, nhổ tận gốc lão ta ra khỏi đất, thực hiện nguyện vọng “thả ta ra ngoài” của lão.

    Nhưng mà, cùng chui ra khỏi đất với lão ta, tuyệt nhiên không phải cơ thể người, mà là một bộ xương trắng hếu!

    Chứng kiến cảnh tượng khủng khiếp đó, vài thương nhân sợ đến độ kêu to. Tróc ra từ răng nhọn trên gậy nanh sói, đầu của gương mặt chôn dưới đất bê bết máu, thấy cơ thể của chính mình, dường như cũng bị dọa sợ, hỏi: “Đây là cái gì? Đây là cái gì?”

    Thấy lão có vẻ thật sự không thể lý giải được đây là hình dáng gì, Tạ Liên nhắc nhở: “Đây là cơ thể của lão.”

    Ngẫm lại cũng hiểu, lão ta chôn vùi dưới đất sa mạc năm sáu chục năm, máu thịt của cơ thể đã sớm hóa thành chất dinh dưỡng của cỏ Thiện Nguyệt, bị ăn đến chỉ còn thừa lại mỗi bộ xương.

    Gương mặt chôn dưới đất nói: “Điều này sao có thể?? Cơ thể của ta không phải như vậy, đây không phải là cơ thể của ta!!!”

    Giọng lão nghe thảm thiết khôn xiết, nhưng Tạ Liên chỉ cảm thấy hình ảnh này vừa đáng thương vừa đáng sợ, y lắc đầu, dời tầm mắt sang nơi khác. Tam Lang lại cười nhạo một tiếng: “Bây giờ ngươi mới không quen nhìn cơ thể này của mình sao? Vậy thứ vừa rồi duỗi ra từ miệng ngươi là cái gì, ngươi cảm thấy không thành vấn đề à?”

    Gương mặt chôn dưới đất lập tức phản bác: “Có vấn đề gì chứ! Chẳng qua… chẳng qua lưỡi dài hơn người bình thường một chút thôi!”

    Khóe mắt lẫn đuôi lông mày đều lộ vẻ chế giễu, Tam Lang ra chiều khinh thường việc nhiều lời với lão, nói: “Ờ, đúng rồi, hơi dài một chút thôi, ha ha.”

    Gương mặt chôn dưới đất nói: “Đúng thế! Chỉ hơi dài chút xíu thôi, thì cũng vì nhiều năm qua để ăn côn trùng có cánh và bò sát, từ từ càng duỗi càng dài, cuối cùng mới biến thành như vậy!”

    Lúc vừa bị chôn dưới đất, có lẽ lão vẫn còn sống, biết đâu chừng vì để sống tiếp, lão mới nỗ lực lè lưỡi ra ăn côn trùng có cánh và bò sát, dần dà dần dà, lão không còn là người nữa, chiếc lưỡi kia cũng càng ngày càng dài, thức ăn cũng từ bò sát và côn trùng có cánh đổi thành những thứ đáng sợ hơn.

    Nhưng do lão vẫn bị chôn dưới đất suốt, nhiều năm không nhìn thấy hình dạng cơ thể của mình, bởi vậy lão hoàn toàn không thể chấp nhận được, cũng không chịu tin mình đã không còn là người, lão cố gắng giải thích: “Cũng có người lưỡi khá dài đấy!”

    Tam Lang nở nụ cười. Nhìn điệu cười của hắn, không hiểu sao Tạ Liên thấy lòng mình phát lạnh.

    Không thể không nói, đôi khi điệu cười của thiếu niên này thật sự khiến người ta có cảm giác ớn lạnh như thể bị người lột da mặt.

    Tam Lang nói: “Ngươi cảm thấy ngươi còn là người sao?”

    Sau khi bị hỏi như thế, gương mặt chôn dưới đất kia như phát hiện nguy cơ, bỗng dưng nổi cáu, gắt giọng: “Ta dĩ nhiên là người. Ta là người mà!”

    Lão vừa la lối vừa cố gắng cử động tay chân đã hóa thành xương trắng của mình, muốn bò trên mặt đất. Hẳn do rốt cuộc cũng thoát khỏi lớp đất, lão cảm thấy sung sướng từ tận đáy lòng, cười như điên dại: “Ta phải về, ta có thể về rồi! Ha ha ha ha ha ha…”
    Rắc!

    Tiếng cười của lão quá chói tai, cuối cùng quấy rầy tướng quân Bán Nguyệt kia. Gã đạp chân xuống dưới, xương sọ của gương mặt chôn dưới đất tức khắc vỡ vụn, mà tiếng rít “Ta là người” của lão cũng không cất lên được nữa.

    Sau khi đạp nát gương mặt chôn dưới đất phiền phức kia, gã “Tướng quân” hô lớn một câu với đám binh sĩ, cả đám binh sĩ Bán Nguyệt lập tức vung gậy nanh sói, rống to vài tiếng với nhóm người Tạ Liên, bắt đầu lùa bọn họ đi ra ngoài hoàng cung.

    Tạ Liên đi trước nhất, Tam Lang đi theo sau y như mọi khi. Mặc dù đang trên đường bị một đám binh sĩ Bán Nguyệt hung thần ác sát áp giải, bước chân của thiếu niên vẫn không nhanh không chậm như trước, cứ như đang đi tản bộ. Bắt đầu từ lúc nãy, Tạ Liên vẫn muốn tìm cơ hội nói chuyện với đối phương, đi một hồi, thấy đám binh sĩ Bán Nguyệt lại tán phét với nhau, không chú ý đến bọn họ, y bèn nói nhỏ: “Bọn chúng gọi gã thủ lĩnh này là ‘Tướng quân’. Không biết là tướng quân gì.”

    Quả nhiên, y vừa hỏi, Tam Lang vẫn trả lời: “Lúc nước Bán Nguyệt diệt vong, chỉ có một vị Tướng quân. Tên của gã, phiên dịch sang tiếng Hán, là Khắc Ma.”

    Tạ Liên nói: “Khắc Ma?”

    Tên này nghe thật kỳ lạ. Tam Lang nói: “Đúng thế. Nghe đâu bởi vì hồi nhỏ gã gầy còm ốm yếu, thường xuyên bị người ta ức hiếp, gã bèn lập lời thề phải trở nên mạnh mẽ, dùng tạc đá xay cối (thạch khắc ma bàn) để rèn luyện sức lực, vì vậy mới có tên như thế.”

    Tạ Liên xoa xoa ấn đường, nhịn không được nghĩ thầm: “Vậy gọi là Đại Lực cũng được mà…”

    Tam Lang nói tiếp: “Nghe đồn Khắc Ma là đại tướng dũng mãnh nhất trong lịch sử nước Bán Nguyệt, chiều cao ba mét, sức mạnh vô song, chính là người ủng hộ trung thành của quốc sư Bán Nguyệt.”

    Tạ Liên nói: “Cho dù quốc sư Bán Nguyệt mở cửa dẫn quân vào đồ thành (tàn sát dân trong thành), gã vẫn là người ủng hộ trung thành của quốc sư sao?”

    Tam Lang nói: “Vậy thì khó nói.”

    Nếu như Khắc Ma sau khi chết vẫn nghe lệnh của quốc sư Bán Nguyệt như cũ, vậy bây giờ ắt hẳn gã muốn đưa bọn họ đến chỗ của quốc sư, ngộ nhỡ binh sĩ Bán Nguyệt ở chỗ đó còn đông hơn thì phải thoát thân thế nào đây? Không biết Nam Phong dụ hai người kia đi ra sao rồi? Cỏ Thiện Nguyệt đã nắm trong tay, nhưng phải làm thế nào để đưa đến tay người trúng độc trong mười hai canh giờ đây?

    Xét tình hình trước mắt, chỉ có thể đi bước nào tính bước nấy. Suốt chặng đường, Tạ Liên cứ một mực suy nghĩ, phát hiện gã Khắc Ma tướng quân dẫn bọn họ càng đi càng đến nơi hoang vu, cuối cùng đưa bọn họ đến một nơi sát rìa biên giới của nước Bán Nguyệt, bấy giờ mới dừng lại. Tạ Liên ngừng bước, ngẩng đầu lên nhìn, một bức tường đất vàng đồ sộ khôn tả đứng thẳng trước mặt y, trông hệt như một người khổng lồ.

    Đích đến của bọn chúng, thế mà lại là hố tội nhân.

    Tuy rằng từng sống lân cận nước Bán Nguyệt một thời gian ngắn, nhưng thật ra Tạ Liên không thường xuyên vào thành Bán Nguyệt, đương nhiên cũng chưa từng đến gần hố tội nhân này. Nhìn hố tội nhân ở cự ly gần, không hiểu sao y lại thấy tim đập loạn nhịp.

    Một bên mặt của bức tường vàng đất có đặt cầu thang, vào lúc chậm rãi leo lên chiếc cầu thang thô sơ nọ, Tạ Liên nhìn xuống bên dưới, liên tục dùng mắt thường quan sát, cuối cùng đã hiểu vì đâu mà tim đập loạn nhịp.

    Không phải vì liên tưởng đến việc nơi này dùng để thi hành cực hình nên cảm thấy không rét mà run, cũng không phải vì lo sợ liệu cả bọn có bị đẩy xuống đáy hố không, mà là một kiểu tim đập loạn nhịp thuần túy vì cảm ứng được trận pháp tồn tại.

    Địa thế và bố cục xung quanh hố tội nhân này bị người ta cố ý thiết lập một trận pháp cực kỳ lợi hại.

    Mà trận pháp này, tác dụng chỉ có một —— khiến cho người rớt xuống, vĩnh viễn không thể trèo lên!

    Cái gọi là “không thể trèo lên”, ý chỉ cho dù có người thả dây thừng xuống dưới hoặc dựng cầu thang, người bên dưới túm được một đường sống mà trèo lên trên, nhưng trèo được phân nửa, trận pháp sẽ khởi động, mà người nọ cũng sẽ bị đánh xuống lần nữa. Tạ Liên lẳng lặng dùng tay vịn tường, qua một đoạn đường đi, y đã thăm dò sơ được chất liệu của bức tường, phát hiện bức tường này nhìn từ xa trông như đất, thật ra lại là đá cứng không gì sánh nổi, hơn nữa có khả năng đã được yểm thêm chú pháp, chắc chắn rất khó phá vỡ.

    Mà chờ khi bọn họ leo hết cầu thang, lên đến đỉnh hố tội nhân, đứng trên mái che của bức tường đất vàng, cảnh tượng đầu tiên nhìn thấy, chỉ có thể dùng hai chữ “chấn động” để hình dung.

    Toàn bộ hố tội nhân chính là bốn bức tường cao vây quanh mà thành. Mỗi bức tường dài hơn ba mươi trượng (100m), cao hơn hai mươi trượng (67m), độ dày ước chừng bốn xích (1,33m), đứng sừng sững tại đó. Giữa bốn bức tường là một không gian cực lớn, trên đó không có bất cứ xà ngang hoặc bệ nào trụ vững được. Sắc trời đã tối, tối mịt nên nhìn không đến đáy, chỉ có từng đợt khí lạnh và mùi máu tanh thi thoảng lan tỏa từ bóng đêm sâu không thấy đáy.

    Mọi người giẫm trên mái che không có bất cứ hàng rào bảo hộ nào, đi trên khoảng không cách mặt đất vài chục trượng thế này, chẳng mấy ai dám ngó xuống. Đi một lát chợt đụng phải một cây cột dài dựng thẳng đứng, trên cột treo một thi thể, chính là thi thể mà trước đó bọn họ ở bên dưới nhìn thấy. Thi thể ấy nhỏ xíu, là một thiếu nữ áo đen, quần áo rách rưới, đầu cúi thấp.

    Tạ Liên biết, cây cột này chuyên dùng để treo những tội nhân mà chúng muốn làm nhục một cách ác ý, thông thường đám cai ngục sẽ lột sạch quần áo của tội nhân đó, treo lên trần truồng như thế, mặc cho tội nhân chết đói hoặc mất nước mà chết, sau khi chết thi thể đung đưa theo gió, phơi nắng, dầm mưa, hong gió, tứ chi sẽ vừa hư thối vừa rụng xuống dưới, tử trạng khó coi tột cùng. Thi thể của thiếu nữ này vẫn chưa thối rữa, tất nhiên chết chưa được bao lâu, có lẽ là dân cư vùng phụ cận. Không ngờ đám binh sĩ Bán Nguyệt này lại treo thi thể của một cô gái ở nơi như thế, quả thật độc ác tàn nhẫn quá đỗi. Nhìn thấy tình cảnh này, A Chiêu và nhóm người Thiên Sinh đều tái mặt, dừng bước không dám đi về phía trước, may là Khắc Ma cũng không xua bọn họ đi tiếp nữa, gã xoay người qua, rống một tiếng thật dài xuống đáy hố tội nhân.

    Tạ Liên không khỏi cảm thấy kỳ lạ: “Tại sao phải rống một tiếng như thế?” Giây tiếp theo, thắc mắc của y đã được giải đáp.

    Như thể đáp lại tiếng rống của Khắc Ma, đáy hố đen kịt truyền đến từng trận tiếng gầm gừ như hổ sói, như quái thú, như sóng gào, hàng trăm hàng ngàn, đinh tai nhức óc. Những người đứng trên mái che tường bị tiếng gầm nọ chấn cho gần như đứng không vững, thậm chí Tạ Liên còn nghe được tiếng cát bụi đá vụn rơi rào rào xuống dưới, rõ ràng đến cực độ. Y nghĩ thầm: “Chỉ có phạm nhân mới bị đưa vào hố tội nhân, chẳng lẽ đáp lại Khắc Ma chính là vong hồn của tội nhân dưới đáy hố?”

    Bấy giờ, Khắc Ma lại rống thêm một câu xuống dưới. Tạ Liên dỏng tai nghe kỹ, lần này gã không còn gầm rú vô nghĩa nữa, cũng không phải lời chửi bới gì, trái lại hẳn là cổ vũ. Tạ Liên vô cùng chắc chắn mình đã nghe được một từ —— “Các anh em”.

    Rống xong, Khắc Ma quát một câu với đám binh sĩ Bán Nguyệt áp giải nhóm người Tạ Liên. Câu này Tạ Liên nghe được rất rõ, lời gã nói chính là: “Ném hai đứa xuống thôi, còn lại đưa đi canh chừng.”

    Tuy những người khác không hiểu gã nói cái gì, nhưng đại khái có thể đoán được thế này là định làm gì, sắc mặt tái xanh hết cả. Thấy bọn họ sợ đến mức sắp đứng không vững, Tạ Liên bước lên trước một bước, nói nhỏ: “Đừng căng thẳng, lát nữa có chuyện gì ta sẽ lên trước.”

    Điều mà trong lòng y nghĩ là, ngộ nhỡ lát nữa buộc phải xuống dưới, vậy mình ráng bất chấp xuống trước xem một chút là được, dù sao cũng chẳng có gì ngoài rắn độc thú dữ hay lệ quỷ hung thần cũ rích. Nếu mình ngã không chết được, đánh không chết được, cắn không chết được, cũng hạ độc không chết được, vậy chỉ cần bên dưới không phải là đá nóng chảy lửa rừng rực nước độc hóa thi (nước độc làm tan chảy thi thể), mình nhảy xuống hẳn sẽ không đến nỗi quá khó coi. Hơn nữa, mình còn có Nhược Da, mặc dù vì trận pháp mà không thể dùng nó trèo lên, nhưng ngộ nhỡ đám binh sĩ Bán Nguyệt này lại ném người xuống, mình vẫn đỡ người được. Khắc Ma kia nói “còn lại đưa đi canh chừng”, thế tức là tạm thời những người khác sẽ tương đối an toàn. Suy cho cùng, chẳng dễ gì bắt được người sống trong sa mạc, không thể ăn sạch trong một lần được, có lẽ bọn chúng muốn tích trữ ăn dần từng lần một. Tạ Liên đang cân nhắc kỹ lưỡng, nào ngờ bên cạnh y lại có người mất bình tĩnh.

    Từ lúc leo lên đỉnh hố tội nhân này, ngoại trừ Tạ Liên và Tam Lang bình tĩnh như thường, tất cả mọi người đều run như cầy sấy, đặc biệt là A Chiêu, hắn run còn dữ dội hơn, có lẽ do cảm thấy mình nhất định sẽ chết, chi bằng liều mạng đánh một phen. A Chiêu siết chặt nắm đấm, đột nhiên nổi loạn, vùi đầu xông về hướng Khắc Ma.

    Lần này A Chiêu xông tới, dường như mang quyết tâm phải ôm nhau chết chùm, cho nên muốn tông ngã Khắc Ma xuống dưới với mình. Khắc Ma dù cao to vạm vỡ, thân hình như tháp sắt, mà cũng bị cú tông mang quyết tâm liều chết của A Chiêu đụng cho thụt lùi ba bước, suýt nữa trượt chân, gã tức khắc nổi cơn tam bành, rống lớn một tiếng, trở tay hất A Chiêu xuống dưới. Mắt thấy thanh niên kia rớt xuống hố sâu tối om, mọi người cùng kêu thảm thiết, Tạ Liên cũng kêu lên: “A Chiêu!”

    Lúc này, dưới đáy hố đen không thấy đáy truyền lên một trận tiếng reo hò, cùng với tiếng cắn xé hết sức tàn bạo, tựa như ác quỷ tranh nhau thức ăn thừa. Chỉ nghe thôi là biết, thanh niên tên A Chiêu này, tuyệt đối không còn khả năng sống sót.

    Hoàn toàn không ngờ tình hình sẽ tiến triển như vậy, Tạ Liên cũng rất đỗi kinh ngạc. Ban đầu y vô cùng hoài nghi A Chiêu chính là thuộc hạ của quốc sư Bán Nguyệt, chuyên lừa người qua cửa ải đi vào nước Bán Nguyệt, còn nghi ngờ người mà gương mặt chôn dưới đất nói rằng “đã gặp vào năm sáu mươi năm trước” cũng chính là hắn, nhưng không ngờ thanh niên này lại là người đầu tiên bị sát hại.

    Màn này liệu có phải giả chết? Cũng không phải không có khả năng, nhưng hiện tại cả nhóm bọn họ đã là tù nhân của đám binh sĩ Bán Nguyệt, nếu A Chiêu thật sự là thuộc hạ của quốc sư Bán Nguyệt, lúc này đã chiếm thế thượng phong, hoàn toàn có thể giật phăng lớp ngụy trang, đổi sang diện mạo đích thực mà nghênh ngang tự đắc, cần gì phải làm chuyện thừa thãi như giả chết trước mặt bọn họ? Việc này căn bản chẳng có chút ý nghĩa nào. Nhưng tại sao A Chiêu lại xông về phía Khắc Ma? Đây há chẳng phải là tự tìm đường chết một cách vô nghĩa?

    Trong đầu Tạ Liên còn đang nghĩ miên man, đám binh sĩ Bán Nguyệt bên kia lại bắt đầu tìm người sống tiếp theo để đẩy xuống. Trầm ngâm giây lát, Khắc Ma nâng tay chỉ về phía Thiên Sinh. Một gã binh sĩ Bán Nguyệt duỗi tay to ra, tiến lên bắt người, Thiên Sinh sợ đến mức suýt quỳ xuống đất, nói: “Cứu mạng!”

    Tạ Liên không còn thời gian nghĩ tiếp nữa, đứng dậy nói bằng tiếng Bán Nguyệt: “Tướng quân, chờ đã.”

    Nghe y mở miệng, trên gương mặt ngăm đen của Khắc Ma lộ vẻ giật mình. Gã vung tay lên, ngăn bọn binh sĩ, nói: “Ngươi biết nói tiếng của chúng ta? Ngươi là người phương nào?”

    Tạ Liên nói: “Người Trung Nguyên.”

    Không phải y ngại nói dối mình là người của nước Bán Nguyệt, nhưng hành động này không khả thi chút nào. Y không biết rốt cuộc tiếng Bán Nguyệt của mình đã góp nhặt được mấy phần, nói chuyện lâu với Khắc Ma, chung quy cũng sẽ lộ tẩy. Hơn nữa tướng mạo của y rõ ràng có thể nhìn ra là người Trung Nguyên, Khắc Ma hỏi y, có lẽ chỉ là chưa chắc mà thôi. Người Bán Nguyệt cực ghét hành vi nói dối lừa lọc, nếu bị vạch trần, hậu quả sẽ càng tệ hơn.

    Có điều ăn ngay nói thẳng cũng có chỗ hại. Nước Bán Nguyệt là bị quân đội đến từ lãnh thổ Trung Nguyên tiêu diệt, vừa nghe Tạ Liên là người Trung Nguyên, gương mặt ngăm đen của Khắc Ma lập tức lóe vẻ cuồng nộ, đám binh sĩ Bán Nguyệt cũng gầm rú ầm ĩ, phun toàn những từ chửi rủa nhục mạ. Tạ Liên lắng nghe, chẳng có gì ngoài “Người Trung Nguyên hèn hạ” “Ném nó xuống dưới”, không đau cũng chẳng ngứa. Ngờ đâu y bỗng nhiên loáng thoáng nghe được vài câu “Kỹ nữ”, nhất thời sửng sốt. Đám binh sĩ kia mắng quá nhanh không nghe rõ cụ thể mắng cái gì, nhưng Tạ Liên cũng không khỏi thấy buồn bực, nhủ thầm: “Mấy từ mắng đằng trước thì ta còn hiểu được, từ cuối cùng ở đâu ra vậy? Các ngươi xác định không mắng lầm người chứ?”

    Với tư cách là tướng quân, Khắc Ma không dễ kích động như đám binh sĩ, gã nói: “Quốc gia của chúng ta biến mất ở sa mạc hơn hai trăm năm, ngươi không phải là người dân nước chúng ta mà lại biết tiếng của chúng ta, rốt cuộc ngươi là ai?”

    Nếu muốn lá mặt lá trái với đám binh sĩ Bán Nguyệt, chỉ còn cách nói bừa chém bậy thôi. Tạ Liên nhịn không được liếc nhìn thiếu niên bình chân như vại đứng bên cạnh, nghĩ thầm hy vọng lát nữa ngộ nhỡ xử lý không chu toàn, cùng lắm thì bất chấp kêu Tam Lang cứu ta với. Nghĩ đến đây, y ho nhẹ một tiếng, đang định bắt đầu nói bậy, đúng lúc này, đáy hố đen kịt lại vang lên một đợt tiếng gào rống như sóng gầm biển gào.

    Dường như thứ dưới đó đã xé xác thi thể A Chiêu ăn xong rồi, song chúng nó vẫn đói bụng như trước, bèn đua nhau dùng tiếng động này bày tỏ khao khát với máu thịt tươi sống của mình. Khắc Ma phất tay, có vẻ lại muốn túm Thiên Sinh, Tạ Liên chợt lên tiếng: “Tướng quân, ta lên trước cho.”

    Dám chắc Khắc Ma chưa từng nghe người nào yêu cầu được lên trước ở nơi như thế này, hai mắt gã trừng lớn như chuông đồng, kinh ngạc nói: “Ngươi lên trước? Ngươi vì cái gì??”

    Dĩ nhiên Tạ Liên không thể trả lời thành thật rằng bởi vì ta không sợ, suy tư chốc lát, y chọn một câu trả lời tẻ nhạt mà hết sức hợp quy củ, nói: “Tướng quân, những người này chỉ là thương nhân qua đường vô tội mà thôi, trong số họ còn có trẻ con nữa.”

    Nghe xong, Khắc Ma cười khẩy: “Lúc quân đội của các ngươi máu rửa quốc gia của chúng ta có từng nghĩ rằng nơi này cũng có rất nhiều thương nhân và trẻ con vô tội chưa!”

    Nước Bán Nguyệt diệt vong đã là chuyện của hai trăm năm trước, bây giờ Trung Nguyên đã sớm thay triều đổi đại, nhưng thù hận sẽ không theo đó mà phai nhạt. Khắc Ma nói tiếp: “Ngươi rất khả nghi, ta phải hỏi chuyện ngươi. Ngươi không thể xuống dưới. Ném đứa khác!”

    Vậy cũng hết cách. Tạ Liên đang định đã làm thì làm cho trót, nhảy trước tính sau, chỉ thấy Tam Lang đứng bên cạnh bước lên trước một bước.

    Tạ Liên giật mình, quay đầu lại.

    Thiếu niên nọ khoanh tay, dùng một loại ánh mắt hờ hững nghiền ngẫm nhìn chằm chằm hố tội nhân sâu không thấy đáy kia. Trong lòng bỗng dưng nảy sinh một luồng dự cảm không lành, Tạ Liên nói: “Tam Lang?”

    Nghe y cất tiếng gọi, Tam Lang quay đầu sang, mỉm cười nói: “Không sao đâu.”

    Tam Lang lại bước lên trước một bước, cả người đã đứng tại một nơi nguy hiểm tột độ. Trái tim lẫn mí mắt của Tạ Liên đều nảy thình thịch, y nói: “Chờ đã, Tam Lang, đệ khoan hãy nhúc nhích.”

    Bên bờ không trung, vạt áo đỏ của thiếu niên nọ bay phần phật trong gió đêm. Tam Lang đưa mắt nhìn Tạ Liên, cười một tiếng, nói: “Đừng sợ.”

    Tạ Liên nói: “Đệ lùi về trước đi, đệ lùi về rồi ta sẽ không sợ nữa.”

    Tam Lang nói: “Không cần lo lắng. Ta đi trước một lát.”

    Tạ Liên nói: “Đệ đừng…”

    Lời còn chưa dứt, thiếu niên nọ đã giữ nguyên tư thế khoanh tay, lại bước lên trước một bước, nhẹ nhàng bật nhảy, lập tức biến mất trong bóng đêm sâu không thể lường.

    Khoảnh khắc Tam Lang nhảy xuống, Nhược Da bay vụt ra từ trên cổ tay của Tạ Liên, hóa thành một dải cầu vồng trắng, muốn quấn lấy bóng hình của thiếu niên nọ. Tiếc rằng tốc độ rơi quá nhanh, dải lụa trắng thậm chí không túm được một mảnh góc áo đã ủ rũ rút trở về. Tạ Liên thoắt cái quỳ gối trên tường cao, gọi với xuống dưới: “Tam Lang!!!”

    Không có tiếng động gì hết, sau khi thiếu niên kia nhảy xuống, không có tiếng động gì hết!

    Bên cạnh Tạ Liên, trên tường cao, đông đảo binh sĩ Bán Nguyệt kêu gào với nhau, cả lũ kinh sợ không thôi, hôm nay sao thế nhỉ, ngày xưa phải bắt mới ném xuống được, hôm nay lại thay phiên giành nhau nhảy xuống, không cho nhảy còn tự mình nhảy? Khắc Ma tướng quân kia rống lớn để đám binh sĩ bình tĩnh lại, còn Tạ Liên thấy Nhược Da không tóm được Tam Lang, không kịp nghĩ nhiều, rút nó về rồi tung người nhảy xuống hố tội nhân. Nào ngờ cơ thể của y đã nhảy lên giữa không trung, sau cổ áo bỗng nhiên bị kéo căng, cứ thế lơ lửng trên bầu trời.

    Thì ra thấy Tạ Liên cũng nhảy xuống, Khắc Ma tướng quân thế mà lại duỗi cánh tay dài ra, túm lấy y, không cho y rớt xuống. Tạ Liên nghĩ thầm: “Ngươi muốn theo cũng được, xuống chung càng tốt hơn.” Tâm niệm thúc đẩy, Nhược Da hệt như một con rắn trắng chợt trườn lên quấn quanh cánh tay của Khắc Ma, cuốn trọn cả người gã chỉ trong nháy mắt. Thấy dải lụa trắng này quỷ dị khó lường, hệt như thành tinh, sắc mặt Khắc Ma đột ngột thay đổi, gân đen in hằn trên trán, bắp thịt to chắc trên người cũng tức khắc căng lớn gấp bội, như thể muốn xé rách Nhược Da đang trói buộc mình. Tạ Liên đang giằng co với gã, ánh mắt đột nhiên lia đến một hiện tượng cực kỳ quái dị.

    Thi thể bị treo trên cột dài bỗng nhiên động đậy, khẽ ngẩng đầu lên.

    Đám binh sĩ Bán Nguyệt cũng chú ý đến việc thi thể này nhúc nhích, bọn chúng nhao nhao la hét, vung gậy nanh sói đánh về phía thi thể đó. Sau khi nhúc nhích một cái, không biết thiếu nữ áo đen tự cởi dây thừng treo mình thế nào, nàng thình lình nhảy xuống từ trên cột, tức tốc lao sang bên này.

    Nàng tựa như một làn gió đen thổi qua mái che tường cao, vừa nhanh vừa tà quái, đám binh sĩ Bán Nguyệt lập tức bị trận gió tà quái này thổi cho ngã trái ngã phải, hét thảm ngã khỏi tường cao. Thấy binh sĩ của mình bị quét xuống dưới, ngã vào trong hố tội nhân, Khắc Ma giận dữ mắng ầm lên. Gã mắng hết sức thô tục, có lẽ do gã dùng khá nhiều tiếng lóng địa phương, Tạ Liên nghe không hiểu lắm. Có điều y vẫn nghe hiểu câu đầu tiên, Khắc Ma mắng rằng: “Lại là tiện nhân này!”

    Giây tiếp theo, gã mắng hết nổi, bởi vì Tạ Liên đột nhiên dùng sức kéo gã cùng rớt xuống hố tội nhân.

    Rớt xuống hố tội nhân không thể trèo lên!

    Trong lúc rơi xuống, tiếng rống giận phát ra từ miệng Khắc Ma gần như xuyên thủng màng tai của Tạ Liên. Y đành phải rút Nhược Da vào, tiện thể đá Khắc Ma một cú cho gã cách mình xa một chút để bảo vệ lỗ tai. Ngay sau đó, y điều khiển Nhược Da phóng lên trên, hy vọng có thể túm được thứ gì giúp giảm xóc một chút, chí ít lúc đáp xuống đất đừng ngã quá thê thảm. Nhưng hố tội nhân này được rất chắc chắn, trận pháp kia cũng lợi hại vô cùng, Nhược Da chẳng những không thể mò lên cao hơn, giữa bốn vách tường cũng không có chỗ nào để bấu víu. Đang lúc Tạ Liên cho rằng mình sẽ lại ngã thành một người bánh dẹp lép ghim dưới đất đào mấy ngày cũng không lên như vô số lần trước, bỗng nhiên trong bóng đêm, ánh bạc chợt lóe lên.

    Giây tiếp theo, có một đôi tay nhẹ nhàng đỡ được y.

    Người nọ chuẩn xác đỡ đúng ngay chóc, quả thật cứ như đặc biệt đứng canh dưới đó chờ đỡ y vậy, một tay vòng qua lưng ôm vai y, một tay nâng đầu gối cong gập của y, dễ dàng hóa giải xu thế hung mãnh rơi từ trên cao xuống của y. Tạ Liên mới vừa rơi từ chỗ cao xuống, do thình lình ngừng lại nên đầu óc còn hơi choáng váng, y vô thức nhấc tay lên, ôm chặt bả vai của đối phương, nói: “Tam Lang?”

    Bốn phía tối đen như mực, không thấy rõ gì cả, đương nhiên cũng không thấy rõ người nọ là ai, nhưng y vẫn buột miệng thốt ra hai chữ này. Đối phương không trả lời, Tạ Liên sờ soạng ngực và đầu vai của đối phương mấy cái, hỏi để xác nhận: “Tam Lang, là đệ sao?”

    Không biết có phải do xuống đến đáy hố không, mùi máu tanh nơi đây nồng đến mức làm người ta ngộp xỉu. Tạ Liên cũng không biết đây là tình huống gì, cứ mò mẫm loạn xạ một mạch lên trên, lúc mò trúng hầu kết cứng ngắc của người nọ thì đột nhiên bừng tỉnh, nhủ thầm tội lỗi quá tội lỗi quá, mình đang làm gì thế này. Y vội vàng rút tay về, nói: “Là Tam Lang phải không? Đệ không sao chứ? Có bị thương không?”

    Hồi lâu sau, y mới nghe được giọng nói trầm đục của thiếu niên nọ truyền đến từ nơi gần sát mình: “Không có gì.”

    Chẳng hiểu vì sao, Tạ Liên cảm thấy, giọng hắn nói câu này, dường như có điểm khác biệt tinh tế so với ngày thường.

    Chương 25: Hoa Liên ái muội, đêm rớt hố tội nhân (2)

    Tạ Liên nói: “Tam Lang, đệ không sao thật chứ? Thả ta xuống đi.”

    Tam Lang lại nói: “Đừng xuống.”

    Tạ Liên sửng sốt, nghĩ thầm: “Chuyện gì vậy? Chẳng lẽ dưới đất có thứ gì đó?”

    Đôi tay kia vẫn ôm chặt lấy y, không hề có xu hướng buông lỏng. Tạ Liên vốn định nâng tay đẩy nhẹ lồng ngực của Tam Lang ra một chút, nhưng tay vừa nhấc lên, y sực nhớ khi nãy ngã xuống được đối phương đỡ lấy, mình còn mò mẫm lung tung, mò trúng khối cứng gồ lên nơi cổ họng của thiếu niên, thế là lại len lén rụt tay về. Cũng không biết xảy ra chuyện gì, Tạ Liên đã mấy trăm năm rồi không biết hai chữ “xấu hổ” viết như thế nào, nhưng giờ đây trong lòng có một giọng nói liên tục cảnh cáo y, tốt nhất đừng động tay động chân lung tung, ngoan ngoãn chút đi.

    Lúc này, chỉ nghe một tiếng gào rống chứa đầy phẫn nộ và bi thương truyền đến từ bên kia đáy hố: “Các ngươi làm sao vậy!?”

    Tiếng rống này là tiếng Bán Nguyệt, nghe giọng đích thị là Khắc Ma tướng quân bị Tạ Liên kéo xuống theo. Gã vốn dĩ đã chết, nên dĩ nhiên sẽ không ngã chết, chỉ là lần này ngã mạnh quá, đoán chừng cũng nện ra một cái hố hình người, bị ghim dưới đó. Chờ sau khi bò dậy, gã bắt đầu kêu la: “Xảy ra chuyện gì vậy? Các anh em, các ngươi làm sao vậy?!”

    Lúc nãy gã đứng trên tường cao gọi với xuống, rõ ràng bên dưới có hàng trăm hàng ngàn giọng nói đáp lại gã, hệt như sâu tận đáy hố ních đầy ác linh gào khóc đòi ăn. Nhưng giờ này khắc này, tai Tạ Liên chỉ nghe được tiếng rống thảm thiết cuồng nộ của Khắc Ma, ngoài ra chỉ còn một mảnh tĩnh mịch, thậm chí y không nghe được tiếng hít thở và tiếng tim đập của Tam Lang gần trong gang tấc.

    Đúng vậy, rõ ràng y đang tựa sát vào Tam Lang, thế nhưng hoàn toàn không nghe được tiếng hít thở và tiếng tim đập của thiếu niên này!

    Khắc Ma hét lớn: “Ai giết các ngươi, là ai giết các ngươi!!!”

    Lúc A Chiêu rớt xuống còn nghe được bên dưới truyền đến tiếng động khủng khiếp như tằm ăn người sống, mà sau khi Tam Lang nhảy xuống, phía dưới không có bất cứ tiếng động nào, vậy còn là ai được nữa?

    Khắc Ma cũng lập tức kịp phản ứng, nói: “Người Trung Nguyên, đáng chết, ta muốn các ngươi chết!”

    Tuy rằng không nhìn thấy gì, Tạ Liên vẫn cảm ứng được nguy hiểm đang lao về phía này, y khẽ nhúc nhích, nói: “Tam Lang cẩn thận!”

    Tam Lang lại nói: “Mặc kệ gã.” Nói đoạn vẫn bế Tạ Liên, chân nhích một bước, như thể xoay người vậy.

    Trong bóng đêm, Tạ Liên nghe được một tiếng vang “leng keng” cực nhỏ, lanh lảnh êm tai mà mạnh mẽ, thoáng qua rồi biến mất. Đang định tìm hiểu thì gã Khắc Ma khi nãy nhào đến vồ hụt lại tập kích lần nữa, Tam Lang khéo léo xoay người một cái, lắc mình né tránh, cánh tay của Tạ Liên bất giác choàng lên lại, ôm chầm lấy Tam Lang, vô thức níu chặt áo ở đầu vai đối phương.

    Nhưng mà, đôi tay này bế y vững vô cùng, tránh đông né tây mà vẫn nâng chắc tay như thường. Chỉ là, Tạ Liên thường xuyên cảm nhận được trên đôi tay này có vật gì đó lạnh buốt cấn lên người mình, khiến y không khỏi ngẩn ngơ. Giữa bóng tối vô bờ vô tận, một luồng ánh bạc chớp lóe, bốn phương tám hướng vang lên tiếng cắt chém của lưỡi đao sắc bén và tiếng mắng giận dữ không ngớt của Khắc Ma. Gã tướng quân Bán Nguyệt kia có vẻ bị thương không nhẹ, nhưng vẫn cực kỳ dũng mãnh, chưa chịu lùi bước mà cuốn theo một trận gió dữ xông đến lần nữa. Tạ Liên cảm thấy mình không thể ngồi như thế mãi, nói: “Nhược Da!”

    Dải lụa trắng nghe tiếng bay ra, “đùng” một tiếng, dường như quất Khắc Ma bay lên trời rồi ngã lộn nhào xuống đất. Cú ngã này khiến Khắc Ma rống lên: “Các ngươi! Hai người! Hai chọi một! Đê tiện!”

    Tạ Liên nghĩ thầm: “Ngươi đã muốn giết bọn ta thì hơi đâu mà lo hai chọi một hai chọi mấy, đê tiện hay không đê tiện, bảo toàn tính mạng quan trọng hơn, đánh chết trước rồi tính sau.” Tam Lang lại cười khẽ một tiếng không hề mang ý cười, nói: “Một chọi một ngươi cũng không có phần thắng. Huynh đừng ra tay.” Câu sau đúng là nói với Tạ Liên, giọng điệu trầm thấp hơn, ý châm chọc trong câu trước cũng biến mất. Tạ Liên nói: “Ừ.” Nói xong vẫn nhắc nhở một chút: “Tam Lang, chi bằng đệ thả ta xuống trước đi, chứ như này ta cản trở đệ lắm.”

    Tam Lang lại nói: “Không cản trở. Huynh đừng xuống.”

    Tạ Liên không nhịn được nói: “Rốt cuộc tại sao không thể xuống?” Chắc không đến nỗi là thiếu niên này thích bế người đánh nhau chứ?

    Câu trả lời của Tam Lang chỉ có một chữ: “Bẩn.”

    “……”

    Tạ Liên hoàn toàn không nghĩ rằng hắn lại thốt ra lý do như vậy, lại còn nói nghiêm túc hẳn hoi thế nữa, y không khỏi buồn cười, rồi lại có chút cảm giác lạ lẫm khó diễn tả, chỉ cảm thấy lồng ngực không hiểu sao hơi nóng lên, nói: “Đệ cũng không thể bế ta như vậy mãi được.”

    Tam Lang nói: “Chưa hẳn không thể.”
    Câu đó của Tạ Liên chỉ là nói đùa thôi, nhưng câu này của Tam Lang lại hoàn toàn không có ý đùa cợt, y nhất thời không biết câu tiếp theo nên đáp thế nào mới tốt. Trong lúc hai người nói vài câu, Khắc Ma lại ngoan cường bất khuất phát động tấn công trong bóng đêm. Rõ ràng Tam Lang dùng cả hai tay để bế y, nhưng không biết dùng cách nào mà đánh cho Khắc Ma liên tục bại lui, vừa lui vừa rống: “Tiện nhân kia để các ngươi…”

    Câu này còn chưa rống xong, chỉ nghe một tiếng “ầm” thật lớn, một thân thể đồ sộ ngã rầm xuống đất, thế mà lại bị đánh cho ngã sóng soài không dậy nổi. Nghe tiếng động, Tạ Liên vội nói: “Tam Lang, đệ khoan hãy giết gã. Nếu chúng ta muốn rời khỏi nơi này, sợ rằng còn phải moi lời từ miệng gã.”

    Quả nhiên Tam Lang không ra tay nữa, đứng yên không nhúc nhích, nói: “Vốn dĩ cũng không định giết gã, nếu không gã chẳng sống được đến giờ đâu.”

    Dưới đáy hố tội nhân lại chìm vào một mảnh tĩnh mịch lần nữa.

    Im lặng giây lát, Tạ Liên nói: “Tam Lang, những thứ bên dưới, là đệ làm đấy ư?”

    Mặc dù đang ở trong tối không thấy rõ gì hết, nhưng mùi máu tươi và sát khí che trời rợp đất này, cộng thêm trạng thái điên cuồng như bi thương phẫn nộ khi nãy của Khắc Ma, đã phác họa rõ ràng bên dưới xảy ra chuyện gì. Sau một hồi lặng im, rốt cuộc Tạ Liên mới nghe được câu trả lời của Tam Lang.

    Hắn nói: “Phải.”

    Câu trả lời nằm trong dự liệu. Lát sau, Tạ Liên thở dài: “Nói thế nào đây…”

    Y cân nhắc một phen, cuối cùng thành khẩn nói: “Tam Lang à, lần sau thấy cái hố nào giống vậy, đệ tuyệt đối đừng nhảy bừa xuống nữa nha. Muốn ngăn đệ cũng ngăn không được, thật không biết nên làm sao mới tốt.”

    Dường như không ngờ Tạ Liên lại thốt ra câu như vậy, Tam Lang có vẻ hơi nghẹn lời. Lúc mở miệng lần nữa, giọng điệu có phần quái dị, nói: “Huynh không hỏi nhiều hơn sao?”

    Tạ Liên nói: “Đệ còn muốn ta hỏi gì nữa?”

    Tam Lang nói: “Chẳng hạn như, ta có phải là người không.”

    Tạ Liên xoa xoa ấn đường, nói: “Cái này hả, ta cảm thấy không có gì cần phải hỏi.”

    Tam Lang nói: “Hửm? Không cần sao?”

    Tạ Liên nói: “Ừ. Bộ cần hả? Có phải là người không, chẳng liên quan gì cả.”

    Tam Lang nói: “Ồ?”

    Nằm trong khuỷu tay của đối phương, Tạ Liên khoanh tay nói: “Kết bạn với người ta, phải xem có hợp ý nhau không, độ tương thích thế nào, chứ không phải xem thân phận. Nếu ta thích đệ, cho dù đệ là ăn mày ta cũng thích. Nếu ta ghét đệ, đệ có là hoàng đế ta cũng ghét. Chẳng phải nên như thế sao? Đây là đạo lý không thể nào đơn giản hơn, vì vậy không cần phải hỏi đâu.”

    Tam Lang cười ha ha: “Ừ, huynh nói thật sự vô cùng chí lý.”

    Tạ Liên nói: “Đúng ha?” rồi cũng cười theo mấy tiếng. Cười một hồi chợt thấy là lạ chỗ nào, trong lúc bất chợt, cuối cùng cũng kịp phản ứng.

    Mình thế mà cứ bị Tam Lang bế như vậy suốt, hơn nữa đáng sợ nhất là, bất tri bất giác mình đã quen với tư thế đó!

    Đúng là muốn mạng già của người ta mà. Tạ Liên ho nhẹ một tiếng, nói: “À mà, Tam Lang nè, chuyện nhỏ nhặt này mai mốt chúng ta hẵng nói. Đệ thả ta xuống trước nha?”

    Tam Lang nghe như cười một tiếng, nói: “Chờ chút.”

    Hắn bế Tạ Liên, có vẻ đi xuống một đoạn đường, lúc này mới nhẹ nhàng thả y xuống. Tạ Liên chạm đất, chân giẫm lên một mảnh đất vững chắc, nói: “Cảm ơn đệ nhiều.”

    Tam Lang không tỏ vẻ gì, Tạ Liên cảm ơn xong bèn ngẩng đầu nhìn lên.

    Một vầng trăng sáng vắt vẻo trên bầu trời xanh đậm, đẹp đẽ khôn tả, chẳng qua bị đóng khung trong khoảng trời của bốn bức tường, khiến người ta liên tưởng đến con ếch ngồi đáy giếng nhìn trời.

    Tạ Liên thử điều khiển Nhược Da phóng lên trên lần nữa, nhưng không ngoài dự đoán, Nhược Da phóng đến giữa không trung thì bị thứ gì vô hình cản lại, bắn ngược trở về, không thể lên được. Tam Lang nói: “Bốn phía quanh hố tội nhân này đều thiết lập trận pháp.”

    Tạ Liên nói: “Ta biết, chỉ thử xem sao thôi, chưa thử bao giờ cũng không từ bỏ ý định mà. Không biết những người khác trên kia sao rồi, thiếu nữ áo đen đó có quét bọn họ xuống luôn không.”

    Y kể lại chuyện thiếu nữ treo trên cột đột nhiên làm loạn, quét cả đội binh sĩ xuống hố cho Tam Lang nghe, kể vài câu lại muốn đi về phía trước vài bước, nhưng chợt giẫm trúng một thứ, hình như là một cánh tay, Tạ Liên suýt thì vấp ngã, nhưng rồi nhanh chóng đứng vững lại, song Tam Lang vẫn đỡ lấy y, nói: “Cẩn thận.”

    Hắn hời hợt bổ sung một câu: “Ta nói rồi, dưới đất bẩn lắm.”

    Tạ Liên cũng hiểu từ “bẩn” ám chỉ cái gì, nói: “Không sao. Ta muốn nâng cái chưởng tâm diệm, nhìn xem rốt cuộc dưới này xảy ra chuyện gì để tính toán tiếp.”

    Tam Lang không đáp. Bấy giờ ở đằng xa, giọng nói lạnh lẽo của Khắc Ma lại vang lên: “Các ngươi làm việc cho tiện nhân kia, ngàn vạn oan hồn của quốc gia chúng ta sẽ nguyền rủa các ngươi, nguyền rủa các ngươi!”

    Tạ Liên quay đầu lại, nói bằng tiếng Bán Nguyệt: “Khắc Ma tướng quân, cái người mà ngươi nói… Rốt cuộc là ai?”

    Khắc Ma căm hận nói: “Cần gì giả bộ hỏi? Yêu đạo kia đấy!”

    Tạ Liên hỏi: “Là nữ đạo sĩ đi dạo trong thành à?”

    Khắc Ma hung tợn hừ một tiếng, xem ra đúng rồi. Tạ Liên nói: “Chẳng phải ngươi tận trung với quốc sư Bán Nguyệt sao?”

    Bị cách nói này chọc giận, Khắc Ma mắng to: “Ta, Khắc Ma, vĩnh viễn sẽ không tận trung với ả nữa! Ta không tha cho tiện nhân đó đâu!!!”

    Tiếp theo đó là một chuỗi dài tiếng chửi rủa liến thoắng, Khắc Ma tâm tình kích động, tốc độ nói cực nhanh, nhanh đến mức càng về sau Tạ Liên ngớ cả ra, nghe không hiểu mô tê, đành phải lén lút nói: “Tam Lang, Tam Lang.”

    Tam Lang nó: “Gã đang mắng người. Nói ả đàn bà kia bán đứng quốc gia của bọn gã, mở cửa thành thả quân đội Trung Nguyên vào đồ thành, tự tay sát hại người dân nước Bán Nguyệt, đẩy đám anh em của gã xuống cái hố quái quỷ này. Gã muốn treo cổ ả thêm một ngàn lần, một vạn lần.”

    Nghe đến đây, Tạ Liên đột nhiên phát hiện, hình như có chỗ nào sai sai.

    “Nữ đạo sĩ đi dạo trong thành” mà y vừa nói, vốn dĩ ám chỉ cô gái áo trắng kia. Nhưng bây giờ, Khắc Ma luôn mồm gọi quốc sư Bán Nguyệt kia là “tiện nhân”, còn nói quốc sư đó đẩy đám anh em của gã xuống cái hố quỷ quái này, mà khi nãy lúc thiếu nữ áo đen quét bọn binh sĩ xuống tường cao cũng nghe Khắc Ma mắng một câu “lại là tiện nhân này”, cộng thêm câu cuối cùng “treo cổ ả thêm một ngàn lần” — Tạ Liên chợt phát hiện, thứ mà bọn họ đang bàn luận, hình như căn bản không phải cùng một thứ.

    Tạ Liên cắt ngang lời chửi rủa của Khắc Ma, nói: “Tướng quân, quốc sư Bán Nguyệt mà ngươi nói là thiếu nữ áo đen treo trên cột hố tội nhân sao?”

    Khắc Ma nói: “Không phải ả thì còn ai?!”

    “……”

    Vậy thiếu nữ áo đen nhỏ gầy trông như thi thể treo trên cột dài kia, thế mà mới là quốc sư Bán Nguyệt đích thực!

    Nhưng nếu là thế, vậy nữ đạo sĩ áo trắng thong dong đi dạo trong thành Bán Nguyệt, còn nói muốn giết sạch bọn họ, và nữ đạo sĩ áo đen đồng hành với nàng ta là ai?

    Thiếu nữ áo đen kia thân pháp quỷ dị khó lường, có thể quét mười mấy gã binh sĩ Bán Nguyệt hung hãn dung mãnh xuống khỏi tường cao trong nháy mắt, vì cớ gì lại bị treo trên hố tội nhân?

    Chương 26: Hoa Liên ái muội, đêm rớt hố tội nhân (3)

    Càng nghĩ càng cảm thấy việc này rối loạn phức tạp, Tạ Liên hỏi: “Tướng quân, vậy tại sao quốc sư Bán Nguyệt lại muốn mở cổng dẫn quân vào đồ thành?”

    Nào ngờ Khắc Ma lại nói: “Các ngươi giết chết anh em của ta, ta không trả lời các ngươi, ta muốn đánh với các ngươi!”

    Tam Lang nói: “Là ta giết, huynh ấy không hề động tay. Ngươi có thể trả lời huynh ấy, sau đó đánh với ta.”

    “……”

    Tạ Liên nghĩ bụng, này đúng là chí lý đến mức không tài nào phản bác được. Khắc Ma giận dữ nói: “Các ngươi đều là trợ thủ mà tiện nhân kia tìm đến, như nhau cả thôi!”

    Tạ Liên vội nói: “Khắc Ma tướng quân, có phải ngươi hiểu lầm gì đó rồi không. Vốn dĩ chúng ta đến sa mạc này là vì diệt trừ quốc sư Bán Nguyệt, sao lại là trợ thủ mà ả mời tới được??”

    Vừa nghe Tạ Liên nói đến vì diệt trừ quốc sư Bán Nguyệt, Khắc Ma im thin thít, qua một hồi lại nói: “Nếu các ngươi không phải do ả phái tới, sao các ngươi lại giết chết những anh em này của ta?! Chỉ có ả mới muốn làm như thế!”

    Các bạn đang đọc truyện đam mỹ huyền huyễn tại đam mỹ dammydmh.com

    Tạ Liên giảng đạo lý cho gã: “Thì cũng vì ngươi ném chúng ta xuống, chúng ta mới buộc phải tự vệ thôi?”

    Khắc Ma tức tối nói: “Nói bậy! Ta vốn không hề muốn ném các ngươi! Lúc nãy rõ ràng ta đã túm ngươi lại, rõ ràng chính các ngươi quyết phải nhảy xuống cho bằng được!”

    “……”

    Lời này thật sự đỡ không nổi. Tạ Liên suýt nữa bị gã cho vào tròng, chỉ đành nói: “Việc đó, khụ, cho dù chúng ta không bị ném xuống, cũng sẽ có người khác bị ném xuống, đâu thể nào trơ mắt nhìn chuyện như thế xảy ra được. Các ngươi làm vậy rõ là đang ăn thịt người.”

    Dường như nhớ tới lại hận, Khắc Ma gắt giọng: “Ăn thịt người cũng là bị tiện nhân kia hại thôi!”

    Xem ra, gã thật sự hận quốc sư Bán Nguyệt kia tận xương tủy. Tạ Liên nói: “Tướng quân, hiện tại chúng ta đều bị kẹt dưới đáy hố, ngươi khoan hãy chửi mắng, mau nghĩ cách làm sao ra ngoài đi. Rốt cuộc quốc sư Bán Nguyệt kia là chuyện gì?”

    Khắc Ma lạnh lùng đáp: “Hai người các ngươi gian xảo hèn hạ như thế, đánh hội đồng ta, tuy ta đánh không lại, nhưng ta cũng sẽ không trả lời thêm bất cứ câu hỏi nào của các ngươi nữa.”

    Tạ Liên cảm thấy hơi sầu não, y xoa xoa ấn đường, nói: “Ta chỉ quất ngươi một cái. Thật sự chỉ có một cái.”

    Không phải y để tâm việc bị người ta mắng là gian xảo hèn hạ này nọ kia, nếu tình hình nguy cấp, đừng nói hai đánh một, bảo y dẫn một trăm hội đồng một y cũng không thấy có gì mất mặt, hơi đâu mà một chọi một. Thế nhưng vừa rồi, rõ ràng Tam Lang bế một người cũng chiếm thế thượng phong, còn bảo Tạ Liên đừng ra tay, vậy mà Khắc Ma lại cảm thấy đơn đả độc đấu có thể thắng được Tam Lang, Tạ Liên quả thật sầu giùm gã. Tam Lang lại không hề sầu não, hớn hở nói: “Ừ, là ta đánh đấy. Ngươi có ý kiến gì?”

    Khắc Ma vẫn cố chấp không nghe, nói: “Lúc nãy hai người các ngươi hùa nhau đánh một mình ta, bây giờ lại hùa nhau nói một mình ta. Quá hèn hạ. Ta sẽ không trả lời các ngươi.”

    Gã cực kỳ thiếu hợp tác, song Tạ Liên cũng không nóng nảy, xét tính cách của gã Khắc Ma này, nói vậy cũng xem như biết điều rồi, cứ từ từ mà tiến, không sao hết. Tuy nhiên, Tam Lang chẳng hề có chút nhẫn nại, hắn đứng bên cạnh thong thả nói: “Vì anh em của ngươi, tốt hơn ngươi nên trả lời huynh ấy.”

    Khắc Ma nói: “Bọn họ đã bị ngươi giết chết, ngươi đừng hòng dùng bọn họ uy hiếp ta.”

    Tam Lang nói: “Đúng là đã chết, nhưng thi thể vẫn còn đây mà.”Dường như nằm rạp hết nổi, Khắc Ma cảnh giác hỏi: “Ngươi muốn thế nào?”

    Tam Lang cười nói: “Vậy phải hỏi ngươi, ngươi muốn thế nào?”
    Chỉ nghe giọng thôi mà Tạ Liên đã có thể tưởng tượng được dáng vẻ Tam Lang nheo mắt khi nói cậu này: “Ngươi muốn bọn họ kiếp sau an khang, hay muốn bọn họ vừa ra đời đã là một vũng máu?”

    Thoạt đầu Khắc Ma sửng sốt, sau đó hiểu ngay Tam Lang có ý gì, cả người như thể muốn nổ tung, quát: “Ngươi?!”

    Người dân Bán Nguyệt rất coi trọng lễ nghi mai táng, bọn họ tin rằng lúc người chết lìa đời, thi thể như thế nào, kiếp sau bọn họ sẽ như thế nấy. Chẳng hạn như, nếu lúc chết mất một cánh tay, vậy kiếp sau sinh ra sẽ là một kẻ cụt tay tàn tật bẩm sinh. Nếu thi thể dưới đáy hố thật sự bị nghiền thành một vũng máu, vậy kiếp sau chẳng phải không có còn hơn?

    Xét thái độ và hành động vừa rồi của Khắc Ma tướng quân, gã là một người Bán Nguyệt chính gốc, những phong tục và quan niệm này tất đã in sâu vào lòng gã, mà gã lại càng coi trọng đám “anh em” của mình, dùng điều này uy hiếp gã, có thể xem là một cách hay. Quả nhiên, ở một góc khác trong bóng tối, Khắc Ma nín hơi chốc lát, đè nén cơn giận, hồi lâu sau, cuối cùng nói bằng giọng bất đắc dĩ: “Ngươi đừng đụng vào thi thể các anh em của ta! Bọn họ đều là binh sĩ anh dũng, mắc kẹt dưới hố tội nhân này nhiều năm như vậy đã bất hạnh lắm rồi, hôm nay bị ngươi giết không biết có được tính là giải thoát không. Nhưng thi thể của bọn họ, tuyệt đối không nên chịu sỉ nhục như thế.”

    Dừng một chút, gã nói tiếp: “Các ngươi thật sự đến giết ả tiện nhân kia?”

    Tạ Liên dịu giọng nói: “Tuyệt không lừa gạt. Cái gọi là biết người biết ta, trăm trận trăm thắng, sự tích về quốc sư Bán Nguyệt người ngoài biết rất ít, muốn đối phó cũng khó mà ra tay. Nhưng Khắc Ma tướng quân đây từng làm việc chung với ả, ắt hẳn có thể chỉ điểm đôi điều cho chúng ta.”

    Hẳn vì có cùng kẻ địch là quốc sư Bán Nguyệt khiến gã sinh lòng cùng chung mối thù, hoặc có lẽ vì rơi xuống vực sâu không thể trèo lên, ngồi trên núi thi thể của đám binh sĩ thuộc hạ nên nản lòng thoái chí, Khắc Ma tạm thời thu hồi ý công kích với hung thủ, nói: “Ngươi không biết tại sao ả lại mở cổng thả người Trung Nguyên vào diệt quốc à? Bởi vì ả muốn đối nghịch với bọn ta. Ả hận bọn ta! Ả hận nước Bán Nguyệt!”

    Tạ Liên nói: “Cái gọi là quốc sư Bán Nguyệt…”

    Khắc Ma sửa lời: “Yêu đạo!”

    Xem ra gã không muốn thừa nhận thiếu nữ áo đen kia là quốc sư nước mình nữa, Tạ Liên nói: “Được, yêu đạo. Cái gì gọi là ả hận các ngươi? Nếu đã hận các ngươi, sao ả lại ngồi trên vị trí quốc sư?”

    Từ lời nói thỉnh thoảng xen lẫn tiếng chửi rủa của Khắc Ma, cuối cùng Tạ Liên dần dần làm rõ được bộ khung tổng thể.

    Quốc sư Bán Nguyệt kia là con của một người phụ nữ Bán Nguyệt và một người đàn ông Trung Nguyên. Tại vùng biên giới nơi dân chúng hai nước thù ghét nhau, đôi vợ chồng dị tộc này sống vô cùng gian khổ. Qua vài năm, người đàn ông Trung Nguyên thật sự không thể chịu được cuộc sống như thế nữa, gã bèn rời khỏi biên giới, trở về Trung Nguyên. Tuy hai người nói rõ với nhau rồi mới chia tay, nhưng không bao lâu sau, người phụ nữ Bán Nguyệt cũng lìa đời vì tâm bệnh tích tụ.

    Bọn họ để lại một đứa con gái sáu bảy tuổi, không ai chăm nom, lang thang đầu đường, bữa đói bữa no mà lớn lên. Cặp vợ chồng bị người ta khinh miệt, thế hệ sau do họ sinh ra cũng bị người ta khinh bỉ. Người dân Bán Nguyệt ai nấy cũng thân hình cao lớn, nam nữ đều cho rằng khỏe mạnh hoạt bát mới được xem là đẹp, còn thiếu nữ này vì là con lai dị tộc nên trông hết sức nhỏ gầy ốm yếu giữa một đám trẻ con Bán Nguyệt, bởi vậy từ nhỏ thường bị ức hiếp, dần dà tính cách ngày càng âm trầm quái gở, trẻ con Bán Nguyệt không chịu chơi chung với ả, trái lại một ít trẻ con Trung Nguyên vẫn chịu để ý đến ả.

    Năm thiếu nữ này mười hai tuổi, biên giới xảy ra một đợt bạo loạn, quân đội hai bên lại choảng nhau một trận, sau trận đó, cô gái kia chợt biến mất. Ả vốn không có người thân và bạn bè ở nước Bán Nguyệt, biến mất mấy năm cũng chẳng ai hỏi han tiếng nào. Nhưng chờ khi ả xuất hiện lần nữa, tình hình đã khác xưa.

    Thì ra trong mấy năm đó, ả thế mà lại bôn ba ngàn dặm, một mình băng qua sa mạc, đi đến Trung Nguyên. Không biết gặp kỳ ngộ gì nơi đó mà ả học được một thân bản lĩnh pháp thuật cực kỳ yêu tà trở về, chẳng những thế, ả còn có thể điều khiển độc vật mà người Bán Nguyệt sợ nhất — Rắn đuôi bò cạp.

    Thấy ả trở về, ngoại trừ thán phục, có một số người Bán Nguyệt lại cảm thấy sợ hãi. Bởi vì tính cách của thiếu nữ này không hề thay đổi, vẫn âm trầm và lầm lì như xưa. Năm đó rất nhiều người Bán Nguyệt từng bắt nạt ả, bây giờ ả lại nhập cung làm việc, còn trở thành pháp sư địa vị cao quý, ngộ nhỡ ngày nào đó muốn trả thù bọn họ, vậy chẳng phải sẽ tìm bọn họ gây sự sao?

    Thế là, những kẻ này tố cáo với hoàng cung, nói thiếu nữ kia là sứ giả mà rắn đuôi bò cạp phái tới gieo họa cho nước Bán Nguyệt, phải treo cổ.

    Lúc đó, Khắc Ma đã là đại tướng nước Bán Nguyệt thanh danh hiển hách, dũng mãnh thiện chiến. Gã cộng tác làm việc với thiếu nữ này vài lần, cảm thấy ả hành động rất hợp khẩu vị của mình, vừa thỏa đáng vừa hợp quy củ, cũng không có mưu đồ gieo họa cho đất nước, gã bèn dốc sức đảm bảo, bác bỏ tất cả lời nói không có ý tốt kia. Hơn nữa hồi nhỏ Khắc Ma cũng từng vì yếu ớt mà bị bạn cùng lứa bắt nạt, bởi vậy có chút đồng cảm với thiếu nữ này, tất nhiên cũng chú ý ả hơn. Càng chú ý càng phát hiện, thiếu nữ này mang bản lĩnh vượt trội, thế là Khắc Ma liên tục tiến cử, một tay đưa ả đưa lên vị trí quốc sư, đã thế còn trở thành người ủng hộ trung thành nhất của quốc sư Bán Nguyệt mà đời sau ghi lại.

    Ai ngờ từ đầu chí cuối, quốc sư này luôn rắp tâm hại người, chỉ là ngụy trang quá tốt mà thôi. Ả hận nước Bán Nguyệt thấu xương, học nghệ trở về chính vì trả thù quốc gia này, cách trả thù là bất chợt mở cổng thành vào giờ phút đại chiến kịch liệt nhất!

    Vừa nghe nói quốc sư mở cổng thành, Khắc Ma đang khổ sở chiến đấu với quân địch giận điên cả người.

    Một mình gã dẫu có dũng mãnh cỡ nào, suy cho cùng cũng không đủ sức xoay chuyển trời đất. Thế nhưng cho dù đã định phải chết trận, trước khi chết trận cũng phải giết kẻ phản bội!

    Thế là, gã dẫn một đội binh sĩ xông lên lầu cổng thành, lôi quốc sư xuống, treo cổ trên hố tội nhân.

    Đại quân băng qua, toàn bộ nước Bán Nguyệt hóa thành một quốc gia chết chóc. Mà quốc sư và tướng quân chết trong trận đại chiến cũng bị nhốt trong tòa thành chết chóc này, biến thành “Hung”.

    Hai bên đều không thể rời khỏi chốn hoang tàn này, nhưng vẫn thù hằn nhau như cũ. Bên này, Khắc Ma dẫn đầu binh sĩ Bán Nguyệt dưới tay mình, lùng sục bóng dáng của quốc sư khắp mọi nơi, mỗi khi tóm được ả sẽ treo “chết” ả trên hố tội nhân một lần nữa. Còn quốc sư Bán Nguyệt kia cũng xuất quỷ nhập thần lùng bắt đám binh sĩ Bán Nguyệt, đẩy bọn gã xuống hố tội nhân. Ả thiết lập trận pháp cực kỳ lợi hại bốn phía xung quanh hố tội nhân, rớt xuống sẽ không thể trèo lên, mà oán khí của đám binh sĩ chết trận sâu nặng khôn xiết, chỉ có máu thịt tươi sống mới có thể xóa bỏ mối hận trong lòng, nếu không sẽ tru tréo hằng đêm, không được giải thoát.

    Thấy các binh sĩ anh dũng ngày nào ra nông nỗi như hôm nay, Khắc Ma tất nhiên lòng đau như cắt. Cũng may rắn đuôi bò cạp của quốc sư Bán Nguyệt có tính công kích rất mạnh, thường xuyên bò ra khỏi thành cắn người khắp nơi, mà những đội buôn bị rắn đuôi bò cạp cắn trúng vào thành tìm cỏ Thiện Nguyệt sẽ bị Khắc Ma tóm cổ, ném xuống hố tội nhân, nuôi đám binh sĩ không thể trèo lên kia.

    Đoạn tự thuật ngắt quãng này, Tạ Liên nghe mà thất thần. Hồi lâu sau, Khắc Ma không lên tiếng, y mới hỏi: “Vậy một vùng cỏ Thiện Nguyệt trong hoàng cung là các ngươi trồng sao? Lão kia là do các ngươi chôn?”

    Khắc Ma nói: “Đúng thế. Cái lão bị chôn dưới đất muốn tới trộm tiền tài châu báu của hoàng cung, nhưng tất cả tiền tài châu báu của quốc gia chúng ta đã bị cướp sạch sành sanh vào hai trăm năm trước, lão không tìm được tiền tài châu báu mà còn phải làm phân bón cho chúng ta.”

    Nghe đến đây, Tạ Liên im lặng không nói gì.

    Y cảm thấy, Khắc Ma đang nói dối.

    Hoặc là chí ít, Khắc Ma đang che giấu điều gì.

    Nếu đám binh sĩ Bán Nguyệt tự giác đi trồng cỏ Thiện Nguyệt, thậm chí dùng người sống làm phân bón, chứng tỏ mặc dù bọn chúng đã không còn là người, nhưng nỗi sợ của bọn chúng dành cho rắn đuôi bò cạp vẫn không hề suy giảm. Vậy thì lúc bọn chúng còn sống, chắc chắn nỗi sợ đó càng nghiêm trọng hơn.

    Tuy nhiên, nếu quốc sư Bán Nguyệt có thể điều khiển rắn đuôi bò cạp mà bọn chúng sợ nhất, cớ gì lại dễ dàng bị một đám binh sĩ lôi xuống lầu cổng thành treo cổ như thế? Huống hồ dựa theo cách nói của Khắc Ma, trong hai trăm năm qua, gã đã tóm được quốc sư hết lần này đến lần khác, quốc sư cũng bị gã treo cổ hết lần này đến lần khác.

    Chưa kể rắn đuôi bò cạp bò ra khỏi thành cắn người cũng vô cùng gợi sự chú ý. Là ngoài ý muốn ư? Thật sự có trùng hợp ngoài ý muốn như thế sao? Là quốc sư cố ý làm thế, nhưng nếu vậy khác nào đang tạo điều kiện thuận lợi cho Khắc Ma bắt người sống cho đám binh sĩ ăn? Dựa theo cách nói hai bên đối địch, thế này chẳng phải mâu thuẫn sao?

    Trận pháp bốn phía xung quanh hố tội nhân là do quốc sư Bán Nguyệt thiết lập, ả có thể thiết lập, tức ả có thể giải trừ. Nói cách khác, cho dù ả quét một đám binh sĩ xuống dưới, ả cũng có thể thả bọn chúng ra. Có điều nếu đã như vậy, hai bên giả vờ đối địch với mục đích gì?

    Mà trước đống manh mối loạn xà ngầu này, còn có một câu đố — Thân phận của nữ đạo sĩ áo trắng kia và đồng bạn của nàng.

    Suy tư một hồi, Tạ Liên quyết định hỏi thêm vài câu nữa để đánh giá rốt cuộc lời Khắc Ma nói có bao nhiêu phần đáng tin: “Khắc Ma tướng quân, khi nãy chúng ta vào thành, dọc đường gặp một đen một trắng hai…”

    Đúng vào lúc này, Tam Lang nhẹ giọng nói: “Suỵt.”

    Tuy rằng không biết xảy ra chuyện gì, nhưng Tạ Liên lập tức im lặng ngay. Một loại trực giác kỳ lạ khiến y ngửa đầu nhìn lên trên.

    Vẫn là mảnh trời đêm xanh đậm vuông vức, vẫn là vầng trăng khuyết sáng trong lạnh lẽo ấy. Nhưng bên cạnh vầng trăng khuyết, Tạ Liên trông thấy một người ở đằng xa, gần nửa bóng người áo đen thò ra, đang nhìn xuống dưới này.

    Nhìn chốc lát, gần nửa cơ thể của người kia chợt biến thành cả cơ thể — Nhảy xuống.

    Trong quá trình rơi xuống, Tạ Liên có thể thấy rõ, người nọ tóc dài rối tung, thân hình nhỏ gầy, chính là quốc sư Bán Nguyệt trước đó bị treo trên cột dài!

    Chương 27: Hoa Liên ái muội, đêm rớt hố tội nhân (4)

    Sau khi nhảy xuống, quốc sư nói bằng tiếng Bán Nguyệt: “Khắc Ma, xảy ra chuyện gì vậy?”

    Nàng vừa mở miệng, giọng nói khác xa tưởng tượng của Tạ Liên. Đúng là nghe lạnh nhạt thật, nhưng rất nhỏ, tựa như một đứa trẻ rầu rĩ không vui đang lầm bầm lầu bầu, chứ không phải chất giọng lạnh lùng đanh thép. Nếu không phải lực tai của Tạ Liên xem như không tệ, chắc không nghe rõ được rồi. Khắc Ma hỏi: “Xảy ra chuyện gì à? Bọn họ chết sạch rồi!”

    *Chương trước để “ả” là vì đang kể theo góc nhìn của Khắc Ma, từ đây sẽ dùng “nàng” để gọi quốc sư Bán Nguyệt, nói chung tùy theo góc độ của nhân vật mà để xưng hô cho phù hợp.

    Quốc sư nói: “Làm sao lại chết sạch được?”

    Khắc Ma nói: “Còn không phải vì ngươi đẩy bọn họ xuống, nhốt ở nơi quái quỷ này sao!”

    Quốc sư nói: “Ai ở đây thế? Còn một người nữa.”

    Thật ra bây giờ dưới đáy hố, ngoại trừ Khắc Ma, hẳn là còn hai “người” nữa, nhưng Tam Lang không có hơi thở và nhịp đập, vì vậy quốc sư Bán Nguyệt mới không tìm được chút dấu vết tồn tại nào của hắn. Lúc nãy bên trên cũng loạn cào cào, hoàn toàn không nhớ rõ ai ngã xuống ai chạy mất, bởi vậy nàng cho rằng chỉ có một mình Tạ Liên. Khắc Ma nói: “Chính bọn chúng giết binh sĩ của ta, bây giờ ngươi vui chưa? Người ngươi muốn giết, cuối cùng chết sạch hết rồi!”

    Bên kia, quốc sư im lặng một lát. Hồi lâu sau, trong bóng tối bỗng dấy lên ánh lửa, chiếu sáng một thiếu nữ áo đen nâng một ngọn lửa nho nhỏ trong lòng bàn tay.

    Thiếu nữ này thoạt nhìn thế mà chỉ tầm mười lăm mười sáu tuổi, hai mắt đen sẫm, không phải không đẹp, chỉ là dáng vẻ không được vui sướng cho lắm, trán và khóe miệng đều có vết bầm, trông rõ mồn một dưới ánh lửa. Bàn tay nâng ngọn lửa dường như đang run rẩy, khiến cho ngọn lửa trong lòng bàn tay cũng lay lắt không ngừng. Nếu không phải đã xác nhận từ trước, mặc cho ai cũng không thể ngờ rằng, quốc sư Bán Nguyệt lại là một cô bé phờ phạc như vậy.

    Ngoại trừ chiếu sáng chính bản thân nàng ta, ngọn lửa còn chiếu sáng bốn phía xung quanh nàng. Bên chân nàng, tất cả đều là thi thể của binh sĩ Bán Nguyệt mặc áo giáp.

    Tạ Liên kiềm lòng không đặng nhìn sang bên cạnh.

    Do ngọn lửa mà quốc sư nâng quá nhỏ nên không rọi sáng toàn cảnh đáy hố tội nhân, bọn họ vẫn ẩn núp trong bóng đêm như trước, nhưng nương theo chút ánh lửa đằng xa, Tạ Liên có thể trông thấy một bóng hình áo đỏ đứng bên cạnh. Dù rằng không thấy rõ lắm, song Tạ Liên vẫn loáng thoáng nhìn được vị trí gần sát tầm mắt của mình, không biết có phải do ảo giác hay không, vốn dĩ Tam Lang đã cao hơn y, nhưng hắn của bây giờ, hình như lại cao hơn một chút.

    Tạ Liên chậm rãi dời mắt lên trên, dời đến cổ họng của thiếu niên nọ, tạm ngừng một lát rồi tiếp tục dời lên trên, cuối cùng dừng trên chiếc cằm xinh đẹp của đối phương.

    Nửa gương mặt trên của Tam Lang vẫn giấu trong bóng đêm, song Tạ Liên cảm thấy, dường như nửa gương mặt này cũng có điểm khác biệt tinh tế so với lúc trước. Mặc dù vẫn khôi ngô như thế, nhưng đường nét góc cạnh có vẻ sắc sảo hơn.

    Có lẽ chú ý đến ánh mắt của Tạ Liên, gương mặt nọ nghiêng một cái, quay sang đây, khóe miệng khẽ nhếch lên.

    Độ cong của cái nhếch môi đó vô cùng mê hoặc, hai người đã cách nhau rất gần, nhưng nếu muốn thấy rõ nửa gương mặt trên của Tam Lang, nhất định phải cách gần hơn nữa, bất tri bất giác, Tạ Liên lại bước đến gần hắn thêm một bước. Bấy giờ, chỉ nghe một tiếng rên đau đớn của Khắc Ma ở đằng xa, xem ra bị sốc nặng khi tận mắt chứng kiến thảm trạng này. Tạ Liên quay đầu sang, nghe gã kêu gào, sắc mặt của quốc sư Bán Nguyệt lại cứng đờ, lát sau mới nói: “Tốt lắm, cuối cùng được giải thoát rồi.”

    Khắc Ma đang đau xót, nghe vậy thì nổi điên: “Tốt cái gì mà tốt? Ngươi có ý gì?!”

    Cơn giận này hoàn toàn không giống giả vờ, xem ra hắn thật sự hận quốc sư này thấu xương. Quốc sư nói: “Giải thoát cả rồi.”

    Trong bóng tối, nàng quay về phía Tạ Liên, hỏi: “Là các ngươi giết sao?”

    Câu này thế mà lại hỏi bằng tiếng Hán chuẩn không cần chỉnh, giọng điệu cũng không phải chất vấn. Tạ Liên nói: “Đây là việc… ngoài ý muốn.”

    Quốc sư hỏi tiếp: “Các ngươi là ai?”

    Tạ Liên đáp: “Ta là một thần quan trên thiên đình, vị này là bạn của ta.”

    Khắc Ma nghe không hiểu, nhưng có thể nghe ra bọn họ không phải đang cãi nhau, gã cảnh giác hỏi: “Các ngươi đang nói gì đấy?”

    Ánh mắt của quốc sư chậm rãi lướt qua Tạ Liên, dừng trên người Tam Lang chốc lát rồi lập tức thu hồi, nói: “Xưa nay chưa từng có thần quan nào đến đây. Ta còn tưởng các ngươi đã sớm bỏ mặc nơi này.”

    Tạ Liên cứ ngỡ sẽ phải đấu một trận với quốc sư Bán Nguyệt, nào ngờ nàng ta lại suy sụp cùng cực, không hề có ý chí chiến đấu, khiến y không khỏi bất ngờ. Nàng hỏi tiếp: “Các ngươi muốn ra ngoài không?”

    Tuy rằng cuộc đối thoại này hơi bị kỳ quặc, Tạ Liên vẫn bình tĩnh hòa nhã giao lưu với nàng: “Muốn ra chứ, nhưng bốn phía quanh đây đều thiết lập trận pháp, không có cách nào ra ngoài được.”

    Nghe vậy, quốc sư Bán Nguyệt đi đến trước một mặt tường cao của hố tội nhân, đưa tay vẽ vời trên mặt tường một phen rồi quay đầu nói: “Ta mở ra rồi.”

    “……”

    Sao dễ nói chuyện thế.

    Tạ Liên hết biết nên nói gì cho phải. Đúng vào lúc này, phía trên truyền đến giọng nói của một người, vọng lại từ đằng xa: “Bên dưới có người không?”

    Là giọng của Phù Dao.

    Tạ Liên cảm giác mình nghe được tiếng tặc lưỡi của Tam Lang đứng bên cạnh, y lập tức ngẩng đầu lên, quả nhiên trông thấy một bóng người áo đen đang nhìn xuống dưới này, bèn hô to: “Phù Dao! Ta ở dưới nè!”

    Hô xong, y còn vẫy vẫy tay, Phù Dao ở trên nói: “Ở dưới thật cơ à? Ở dưới có cái gì?”
    Tạ Liên nói: “Này… ở dưới có nhiều thứ lắm, hay là ngươi tự nhìn đi.”

    Dường như Phù Dao cũng cảm thấy nghe Tạ Liên nói không bằng tự mình nhìn, thế là “ầm” một tiếng, châm một quả cầu lửa lớn, ném xuống dưới. Chỉ trong chớp mắt, cả đáy hố tội nhân bị ánh lửa rọi sáng như ban ngày, cuối cùng Tạ Liên cũng thấy rõ mình đang đứng ở nơi như thế nào.

    Bốn phương tám hướng bao quanh y là thây chất thành núi, máu chảy thành sông, vô số thi thể của binh sĩ Bán Nguyệt chất chồng lên nhau, cánh tay và gương mặt ngăm đen, áo giáp sáng như tuyết, máu mang màu đỏ tím. Mà nơi Tạ Liên đang đứng, chính là mảnh đất trống duy nhất không có thi thể dưới đáy hố tội nhân.

    Những điều này, tất cả đều do Tam Lang làm chỉ chớp mắt sau khi nhảy xuống.

    Tạ Liên quay đầu lại lần nữa, đưa mắt nhìn thiếu niên đứng bên cạnh.

    Vừa rồi trong bóng đêm, y loáng thoáng trông thấy Tam Lang có vẻ bỗng nhiên cao hơn một chút, một vài chỗ nhỏ nhặt cũng có điểm khác biệt tinh tế, nhưng mà bây giờ, dưới ánh lửa rực sáng, đứng bên cạnh y vẫn là thiếu niên khôi ngô ngày trước, thấy y nhìn mình thì mỉm cười. Tạ Liên cúi đầu nhìn cổ tay và giày của đối phương, quả nhiên cũng giống hệt lúc đầu, không có gì lạ thường, trong lòng ngầm hiểu. Có điều Phù Dao đã tới, giấu diếm cũng tốt, để tránh sinh thêm rắc rối. Đang nghĩ ngợi, chỉ nghe một tiếng vang nặng nề, Phù Dao cũng nhảy xuống.

    Tạ Liên nói: “Không phải ngươi đang trông chừng người của đội buôn kia sao?”

    Phù Dao mới vừa nhảy xuống, vẫn chưa quen với mùi máu tanh dưới đáy hố, bèn cau mày dùng tay quạt quạt không khí, lạnh nhạt nói: “Đợi ba canh giờ cũng không thấy các ngươi về, còn tưởng đã xảy ra chuyện. Ta vẽ cái vòng cho bọn họ ngồi đợi, tới đây xem sao trước.”

    Vẽ cái vòng tất nhiên là chỉ vòng phòng hộ, nhưng Tạ Liên nghe xong vẫn thấy đau đầu, nói: “Vẽ cái vòng không chống được bao lâu, ngươi đi như thế, bọn họ khó tránh nghi ngờ mình bị bỏ lại, ngộ nhỡ rời khỏi vòng chạy lung thì tính sao?”

    Phù Dao không đồng ý, nói: “Người đã muốn tìm chết, tám con ngựa cũng kéo không nổi, không cần làm gì hết. Hai người này là chuyện gì đây? Ai là ai?”

    Phù Dao đề cao cảnh giác phòng bị hai người khác dưới đáy hố, nhưng nhanh chóng phát hiện Khắc Ma bị đánh cho thương tích đầy người, nằm sấp dưới đất cử động vất vả, còn quốc sư Bán Nguyệt thì cúi gằm đầu chẳng hé răng tiếng nào, không khỏi tỏ vẻ ngạc nhiên. Tạ Liên nói: “Vị này là tướng quân của nước Bán Nguyệt, vị này là quốc sư của nước Bán Nguyệt, bây giờ bọn họ…”

    Lời còn chưa dứt, Khắc Ma thình lình nhảy dựng lên.

    Gã nằm sấp lâu như thế, cuối cùng cũng tích đủ sức, hét lớn một tiếng, đứng thẳng dậy, tung một chưởng đánh quốc sư Bán Nguyệt.

    Một kẻ vạm vỡ đánh một cô bé, nếu là ngày xưa, cảnh tượng này tuyệt đối không thể xảy ra trước mặt Tạ Liên. Nhưng mà, Khắc Ma có đầy đủ lý do để căm hận quốc sư, rõ ràng quốc sư có thể tránh, nhưng nàng lại không tránh, ân oán của người ngoài, Tạ Liên cũng không tiện tham gia. Khắc Ma nói với quốc sư: “Rắn đuôi bò cạp của ngươi đâu? Tới đây, ngươi bảo chúng nó cắn chết ta đi! Nhanh lên, giải thoát cho ta luôn đi!”

    Quốc sư hệt như con búp bê rách nát bị gã ném tới ném lui, rầu rĩ nói: “Khắc Ma, rắn của ta không nghe lời ta nữa.”

    Khắc Ma mắng: “Thế sao chúng không cắn chết ngươi đi!”

    Quốc sư thấp giọng nói: “Xin lỗi, Khắc Ma.”

    Khắc Ma nói: “Ngươi thật sự hận chúng ta như vậy sao?”

    Quốc sư lắc đầu. Khắc Ma càng giận hơn, nói: “Vậy ngươi hận ai thì tìm kẻ đó mà trả thù! Ngươi là quốc sư, ngươi muốn giết ai, chỉ cần ngươi nói một câu, ta không giúp ngươi giết sao?! Tại sao ngươi lại thông đồng với kẻ khác hại chúng ta!”

    Gã càng nói càng hận, đoạn túm tóc của quốc sư. Thấy bọn họ càng đánh càng ác liệt, hơn nữa còn là một bên đánh một bên chịu, Phù Dao cau mày hỏi: “Bọn họ đang nói gì thế? Có cần lên cản không?”

    Tạ Liên thật sự không nhìn nổi nữa, y bước lên vịn Khắc Ma, dịu giọng nói: “Tướng quân, ta cảm thấy giữa các ngươi có lẽ còn chút việc chưa nói rõ ràng, ngươi khoan hãy kích động.”

    Khắc Ma nói: “Còn gì để nói nữa? Đã rõ ràng lắm rồi!”

    Tạ Liên cũng không nói được rốt cuộc không ổn chỗ nào, nhưng y cứ cảm thấy mình đã bỏ sót điều gì quan trọng. Bỗng nhiên, quốc sư kia túm lấy cổ tay của y.

    Động tác túm này quá đột ngột, còn túm chặt cứng ngắc. Ban đầu lòng Tạ Liên chùng xuống, cứ ngỡ nàng muốn thừa dịp ám toán, nào ngờ khi cúi đầu lần nữa, quốc sư nằm sấp dưới đất, ngửa đầu dùng cặp mắt đen lúng liếng nhìn y, khóe miệng hiện vết bầm tím, đôi môi run nhè nhẹ. Rõ ràng nàng không nói tiếng nào, nhưng lại như có trăm ngàn lời muốn nói. Dáng vẻ này, quả thật trùng khớp với một màn xưa lắc xưa lơ trong trí nhớ của y.

    Thoáng chốc, Tạ Liên buột miệng thốt ra: “Là muội?”

    Quốc sư cũng run giọng nói: “… Hoa tướng quân?”

    Nghe đoạn nói qua nói lại này, tất cả mọi người dưới đáy hố đều giật mình.

    Phù Dao xông lên trước một bước, đánh Khắc Ma ngất xỉu, hỏi: “Hai người quen nhau?”

    Tạ Liên cũng không có thời gian trả lời Phù Dao. Y ngồi xổm xuống, nắm vai quốc sư, nhìn kỹ mặt nàng một lần.

    Vừa rồi cách quá xa, bị đánh nên thấy không rõ, cộng thêm dáng vẻ của thiếu nữ này sau khi trưởng thành cũng thay đổi, lại qua hơn hai trăm năm, đủ mọi nguyên do khiến y không nhận ra gương mặt của đối phương ngay từ đầu. Mà giờ phút này nhìn lại, gương mặt ấy, rõ ràng vẫn y hệt trong trí nhớ!

    Trong lòng Tạ Liên không thể nào tin nổi, thật lâu không thốt nên lời, lát sau mới thở dài một tiếng, nói: “Bán Nguyệt?”

    Quốc sư thoắt cái nắm tay áo của y, gương mặt thoạt nhìn buồn rười rượi bỗng chốc hiện chút hơi thở của người sống, nàng hỏi với dáng vẻ hơi kích động: “Là muội, Hoa tướng quân, huynh, huynh còn nhớ muội không?”

    Tạ Liên nói: “Dĩ nhiên ta nhớ muội, nhưng mà…”

    Y ngưng mắt nhìn thiếu nữ này chốc lát, thở dài: “Nhưng mà, sao muội lại ra nông nỗi này.”

    Nghe y nói vậy, trong mắt quốc sư bỗng dâng đầy nước mắt.

    Nàng nhỏ giọng nói: “Xin lỗi, hiệu úy.”

    Nói xong câu này, nàng thình lình quỳ gối trước Tạ Liên, trán áp xuống mặt đất, sau đó không đứng dậy nữa.

    Tạ Liên muốn đỡ nàng dậy nhưng đỡ không được, lòng cũng rối như tơ vò, cuối cùng xoa xoa ấn đường, chỉ cảm thấy đầu đau như búa bổ, không muốn nói gì hết. Nhưng vài tiếng nào tướng quân nào hiệu úy đã nhắc nhở quá rõ ràng, người ngoài làm sao nghe không hiểu?

    Phù Dao kinh ngạc hỏi: “Hiệu úy? Tướng quân? Huynh? Sao lại như thế được??”

    Tạ Liên nói: “… Ta cũng muốn hỏi, sao lại như thế được.”

    Y không trả lời thẳng thừng, ánh mắt Tam Lang sa sầm, không truy hỏi nhiều, Phù Dao vẫn kinh ngạc như trước: “Mộ tướng quân kia là?”

    Tạ Liên nói: “Mộ của ta.”

    Phù Dao nói: “Chẳng phải huynh nói hai trăm năm trước huynh đến đây lượm đồng nát sao???”

    Nhìn thiếu nữ áo đen quỳ rạp dưới đất, Tạ Liên lại thở dài, nói: “Chuyện này thật sự… một lời khó nói hết.”

    Ước chừng hai trăm năm trước, có một ngày Tạ Liên định băng qua Tần Lĩnh*, đến phía Nam sống một thời gian ngắn. Thế là y bèn cầm la bàn, đi về phía Nam. Đoạn đường này, Tạ Liên đi mà buồn bực suốt, sao cứ cảm thấy phong cảnh dọc đường không đúng lắm nhỉ? Rõ ràng nên là cây cao bóng cả, cư dân đông đúc, sao lại càng lúc càng hoang vắng? Nhưng nghi ngờ thì nghi ngờ, y vẫn kiên trì đi tiếp, đến tận khi đi mãi đi mãi, đi tới sa mạc, bị gió lớn thổi vào mặt, ăn cát đầy mồm, y mới phát hiện, cái la bàn mình cầm đã hỏng từ đời kiếp nào, phương hướng mà nó chỉ suốt chặng đường này đều sai bét!

    *Tần Lĩnh là một dãy núi chính chạy theo hướng đông-tây ở Nam Bộ tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc.

    Chỉ sai hướng cũng đành thôi, dựa theo cách nghĩ “dù gì cũng đến rồi, tham quan phong cảnh đại mạc một chút cũng được”, Tạ Liên vẫn tiếp tục đi về phía trước, có điều tạm thời sửa đích đến thành Tây Bắc, cuối cùng đi một mạch tới biên giới, sống tạm tại vùng lân cận nước Bán Nguyệt.

    Tạ Liên chậm rãi nói: “Ban đầu, thật sự ta chỉ lượm đồng nát này nọ ở gần đó thôi. Nhưng vùng biên giới khốn khổ, bạo loạn xảy ra dồn dập, thường có binh lính đào ngũ, quân đội mới bắt người bừa bãi góp cho đủ số.”

    Tam Lang hỏi: “Huynh bị ép buộc bắt vào ư?”

    Tạ Liên nói: “Đúng là bị bắt, nhưng suy cho cùng làm gì cũng như nhau, làm lính thì làm lính. Sau đó ta xua đuổi bọn cướp biên giới vài lần, chẳng hiểu sao được thăng làm hiệu úy. Người ta nể mặt ta nên gọi ta là tướng quân.”

    Phù Dao ngờ vực hỏi: “Sao nàng lại gọi huynh là Hoa tướng quân?”

    Tạ Liên phất tay, nói: “Không cần để ý cái đó, lúc ấy ta thuận miệng lấy tên giả, hình như là Hoa Tạ.”

    *Hoa Tạ là ghép họ Hoa của Hoa Thành với họ Tạ của Tạ Liên á, nhưng hai từ này đứng cạnh nhau có nghĩa là hoa tàn, hoa héo =)))) Mà Liên đặt biệt danh này chắc vì ngày xưa có biệt danh là Hoa Quan Võ Thần (võ thần đội vòng hoa), với cả Liên dính dáng đến hoa đào từ câu “Thân tại vô gian, lòng tại đào nguyên”, chứ không phải đặt chữ Hoa vì Hoa Thành đâu nha, lúc đó đã quen nhau đâu =))

    Nghe được tên này, sắc mặt Tam Lang khẽ động, khóe miệng như có như không nhếch lên, không biết rốt cuộc là biểu cảm gì. Tạ Liên không chú ý, tiếp tục nói: “Nơi tiếp giáp biên giới xảy ra chiến sự liên miên, cô nhi vô số, những khi rảnh rỗi, thỉnh thoảng ta cũng chơi với bọn nhỏ một chút. Trong đó có một đứa… tên là Bán Nguyệt.”

    Y lắc đầu, nói: “Ta cứ ngỡ hai chữ Bán Nguyệt trong “quốc sư Bán Nguyệt” là chỉ quốc gia, không ngờ quốc sư thật sự tên là Bán Nguyệt.”

    Trong ấn tượng của Tạ Liên, cô bé tên Bán Nguyệt luôn mang vẻ mặt buồn rười rượi như thế, trên người và trên mặt cũng luôn hiện vết bầm tím, lúc nhìn y cũng giương mắt chờ mong nhìn từ dưới lên như thế. Nàng biết nói tiếng Hán, suốt ngày chơi cùng với trẻ em Trung Nguyên cùng lứa, Tạ Liên cũng không rõ nàng là người phương nào, nói chung thấy trẻ nhỏ đi lung tung, y cũng dẫn đại như đúng rồi. Lúc rảnh dạy bọn nhỏ ca hát, vật lộn, thi thoảng biểu diễn vài màn đập đá lên ngực này nọ kia. Do cô bé này gầy ốm quá, y mới chăm nom đặc biệt hơn một chút, có bao nhiêu bánh bột ngô cũng chia cho nàng một phần, tình cảm khá là tốt.

    Phù Dao hỏi: “Sau đó thì sao?”

    Tạ Liên nói: “Sau đó… không khác những gì khắc trên bia đá mộ tướng quân lắm.”

    Im lặng chốc lát, Tam Lang mở miệng: “Trên bia đá nói huynh đã chết.”

    Nhắc tới bia đá kia, Tạ Liên cảm thấy hết sức buồn bực.

    Thông thường bi văn (bài văn, bài thơ khắc trên bia đá) chẳng phải toàn ca ngợi công đức, cố gắng điểm tô cho người được tưởng nhớ sao? Nào là giáng chức rồi lại giáng chức, giáng đến mức không thể giáng được nữa thì thôi đi, sao có thể trịnh trọng nghiêm trang viết luôn cách chết mất mặt như thế xuống chứ??? Lúc tránh gió đọc được đoạn này, y thật sự không dám nhìn thẳng luôn, nếu không có Tam Lang đọc hiểu chữ Bán Nguyệt đứng bên cạnh đọc chung, y sẽ giả bộ trên tấm bia không hề có đoạn viết về cách chết đó. Viết thứ này lên, ngay cả bản thân y nhìn thấy cũng muốn cười, làm sao trách được người khác cũng muốn cười chứ? Người ta đến mộ tưởng niệm của y tránh bão cát, thấy sự tích của y trên bia đá còn bình loạn một phen, cười sằng sặc một trận, y còn xấu hổ bảo mọi người đừng cười, quả thật hơi bị buồn bực.

    Tạ Liên cảm thấy ấn đường sắp bị mình xoa đỏ, nói: “À, cái đó, tất nhiên ta không chết. Ta giả chết thôi.”

    Tam Lang lặng thinh, Phù Dao ra chiều không thể tin nổi. Tạ Liên nói: “Sau khi giả chết bị đem vứt như thi thể, trở về Trung Nguyên, chỉ dưỡng thương năm sáu năm là khỏe rồi.”

    Thật ra, cụ thể “chết” thế nào Tạ Liên cũng không rõ lắm, ngay cả rốt cuộc tại sao binh sĩ hai nước đánh nhau một trận cũng không nhớ rõ, chỉ biết là vì một ít chuyện vặt vãnh tẻ nhạt, y thật sự không muốn đánh chút nào, bất kể đánh thắng hay thua cũng chẳng thấy có nghĩa lý gì, nhưng lúc đó y đã bị giáng chức đến mức không thể giáng được nữa, có ai thèm nghe lời y đâu. Hai bên đang giết nhau đỏ mắt, Tạ Liên mới vừa xông ra, vừa thấy là người này, hai bên bỗng chốc dùng đao kiếm bắt chuyện với người y. Dù rằng trăm đánh không chết, Tạ Liên cũng chịu không nổi cách chém như vậy, nhủ thầm: “Thế này không được rồi!” Sau đó vội vàng nằm sấp dưới đất không nhúc nhích giả chết, ngờ đâu giả chết cũng bị đạp cho một trận, đạp đến ngất xỉu luôn. Lúc tỉnh lại là bị sặc nước mà tỉnh, bởi vì sau khi dọn dẹp chiến trường, tất cả thi thể đều bị ném xuống sông. Tạ Liên cứ thế trôi theo dòng nước, hệt như một mớ đồng nát dạt về Trung Nguyên. Sau này dưỡng thương xong, cuối cùng cũng đến mục tiêu định ra từ trước – phía Nam, từ đó không quan tâm chuyện ở nước Bán Nguyệtnữa.

    Bán Nguyệt lại nói nhỏ: “Xin lỗi.”

    Chương 28: Hoa Liên ái muội, đêm rớt hố tội nhân (5)

    Phù Dao cau mày nói: “Sao nàng ta cứ nói xin lỗi huynh hoài vậy? Có phải từng xảy ra chuyện gì không.”

    Tam Lang mở miệng, hỏi cặn kẽ hơn Phù Dao: “Khắc Ma nói, quốc sư Bán Nguyệt đến Trung Nguyên sau một trận bạo động. Trận bạo động đó có liên quan đến huynh ư?”

    Nghe hắn nhắc nhở, lại nhớ đến nội dung trên tấm bia đá, bấy giờ Tạ Liên mới nhớ mang máng, nói: “Việc này…”

    Bán Nguyệt quỳ rạp dưới đất, nói: “Là vì cứu muội.”

    Mọi người nhìn nàng, nàng nói khẽ: “Vì cứu muội nên Hoa tướng quân mới xông vào, bị đạp dẹp lép.”

    “……”

    Nghe nàng nói “bị đạp dẹp lép”, Tạ Liên tức khắc nhớ lại cảm giác bị ngàn người giẫm trăm người đạp, thấy hai người kia nhìn mình chằm chằm với vẻ mặt thâm sâu khó lường, y vội vã ngừng lại, nói: “Không có dẹp, không có dẹp thật đó.”

    Chẳng biết không vừa lòng chỗ nào, Phù Dao nói bằng giọng quái gở: “Ồ, quả nhiên là quên mình vì người.”

    Tạ Liên lập tức xua tay, nói: “Không dám nhận không dám nhận. Thật sự không phải vậy mà.” Y xoa xoa huyệt thái dương, nói: “Cụ thể ta cũng không nhớ rõ lắm, hình như lúc đó có vài đứa nhóc đang chơi đùa, lẽ ra ta chỉ định thuận tay bế tụi nhỏ đi rồi chạy trốn cho lẹ. Nào ngờ không kịp rút lui, vừa ngoảnh đầu đã thấy hai bên lao vào đánh nhau rồi.”

    Phù Dao nói: “Nếu đã như thế, sao huynh có thể không nhớ rõ cả chuyện như vậy chứ?”

    Im lặng chốc lát, Tạ Liên đáp: “Sao ngươi không nhìn xem ta đã mấy trăm tuổi rồi. Mười năm có thể gặp được vô số chuyện, đâu thể nào nhớ rõ chi tiết từng chuyện một, vả lại có rất nhiều chuyện quên đi thì tốt hơn. Thay vì nhớ mấy trăm năm trước bị chém mấy trăm nhát đạp mấy trăm cú, chi bằng nhớ hôm qua ăn một cái bánh bao ngon thật là ngon, không đúng sao.”

    Bán Nguyệt nói: “Xin lỗi. Đều là lỗi của muội.”

    Tạ Liên quay đầu lại, thở dài: “Bán Nguyệt à.”

    Y không biết nên dùng giọng điệu gì để nói chuyện với thiếu nữ này, cân nhắc giây lát, y chậm rãi nói: “Nếu muội xin lỗi ta vì việc đó thì không cần đâu, cứu muội là tự ta chọn, muội không làm gì sai. Nếu muội muốn nói xin lỗi, có lẽ nên nói với người khác.”

    Bán Nguyệt im lặng.

    Tạ Liên nói: “Ta không biết tại sao muội lại mở cổng dẫn quân vào đồ thành, ta cũng không biết tại sao muội lại thả rắn đuôi bò cạp ra ngoài cắn người. Có điều…”

    Dừng một chút, y nói: “Có điều, chắc vì ấn tượng của ta dành cho muội vẫn còn dừng lại ở hai trăm năm trước, ta cảm thấy muội không phải đứa trẻ sẽ làm những việc như vậy. Thế cho nên, muội có bằng lòng kể cho ta nghe rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì không?”

    Nghe xong câu này, Bán Nguyệt dập đầu mấy cái với y, cuối cùng ngồi thẳng người dậy.

    Dòng lệ chảy xuống từ mắt nàng, Bán Nguyệt nói: “Mở cổng đều là muội không tốt, nhưng thưa Hoa tướng quân, không phải muội cố ý thả rắn.”
    Tạ Liên sửng sốt, hỏi: “Cái gì?”

    Bán Nguyệt nói: “Pháp lực của muội suy yếu, rắn không nghe lời muội nữa.”

    Nghe vậy, Phù Dao tỏ vẻ mất kiên nhẫn, trợn mắt nói: “Lời này ta nghe nhiều lắm rồi. Sau khi bị bắt ai mà chẳng nói thế, cho dù ngươi nói không phải cố ý cũng vô dụng thôi.”

    Bán Nguyệt vội vàng lau mặt, quệt đi nước mắt trên mặt, nói: “Thật mà Hoa tướng quân, muội không có nói dối, nhưng những người băng qua cửa ải đúng là đều bị rắn đuôi bò cạp cắn, vẫn là lỗi của muội, các huynh bắt muội đi.”

    Nàng thật sự chìa hai tay ra, thái độ như sẵn sàng bị xử tử, Phù Dao lập tức vung ra một sợi Khốn tiên tác (Dây trói tiên) từ trong tay áo, trói chặt nàng và Khắc Ma, nói: “Được rồi, mục đích của chuyến đi lần này đã đạt thành, kết thúc được rồi.”

    Tạ Liên lại cảm thấy e rằng vẫn chưa kết thúc, bèn cúi đầu trầm tư. Lúc này, Tam Lang đứng bên cạnh nói: “Nàng không cần phải nói dối.”

    Tạ Liên gật đầu, đồng ý với quan điểm của Tam Lang, đoạn hỏi Bán Nguyệt: “Bây giờ muội hoàn toàn không điều khiển được rắn đuôi bò cạp sao?”

    Bán Nguyệt lắc đầu, nói: “Muội có thể điều khiển, phần lớn thời gian chúng nó sẽ nghe lời muội, nhưng thỉnh thoảng lại không nghe. Muội cũng không biết vì sao nữa.”

    Tạ Liên ngẫm nghĩ, nói: “Muội gọi rắn ra cho bọn ta xem thử đi.”

    Cuối cùng Bán Nguyệt cũng đứng lên, gật đầu. Không lâu sau, một con rắn đuôi bò cạp màu đỏ tím bò ra từ dưới một thi thể, giương nửa thân trên, cuộn tròn trên đống xác chết, lẳng lặng thè lưỡi với bọn họ.

    Tạ Liên đang định nhìn kỹ con rắn kia, chợt thấy Bán Nguyệt khẽ mở to hai mắt, sắc mặt lạ thường. Thấy vậy, lòng Tạ Liên chùng xuống, nhủ thầm: “Không ổn rồi.”

    Quả nhiên, con rắn đuôi bò cạp kia thè lưỡi xong, bỗng nhiên há to mồm, thình lình phóng tới tập kích Tạ Liên!

    Con rắn này tấn công tuy đột ngột thật, nhưng Tạ Liên đã sớm đề phòng, y nhìn thấy rất rõ, đang định đưa tay bắt nó, nào ngờ tay y còn chưa chạm đến, chợt nghe “phịch” một tiếng, hệt như tiếng vật gì đó nổ tung. Đến khi nhìn kỹ lại, con rắn kia đã mềm oặt rơi xuống đất, từ đầu đến chân, từ trong ra ngoài nổ tanh bành, mà còn nổ rất đúng mực, không có bất cứ nọc độc nào bắn ra ngoài. Tạ Liên sực nhớ trước khi vào nước Bán Nguyệt cũng từng có một con rắn đuôi bò cạp chết như thế, là ai làm, khỏi cần nói cũng biết. Y còn chưa giương mắt nhìn Tam Lang, chỉ thấy một cánh tay áo tiễn tụ đỏ rực duỗi qua, chắn trước mặt y, tách y ra khỏi Bán Nguyệt. Mà bên kia, Phù Dao cũng lạnh lùng nói: “Quả nhiên, nàng ta lừa huynh.”

    *Tiễn tụ: nhắc lại, nó là loại áo dài ống chật.

    Thấy con rắn này, sắc mặt của Bán Nguyệt đã không được tốt, nghe vậy ngẩng phắt đầu lên, nói: “Muội không có. Muội nói rồi, có rắn không nghe lời của muội, là con vừa rồi đó.”

    Phù Dao hoàn toàn không tin: “Ai biết rốt cuộc không nghe lời ngươi hay là có nghe lời ngươi?”

    Bán Nguyệt nói: “Nó vốn không phải do muội gọi tới.”

    Tạ Liên đang định lên tiếng, chỉ thấy lại có thêm hai con rắn đuôi bò cạp đỏ tím đậm chui ra từ dưới thi thể, thè lưỡi với bọn họ như diễu võ dương oai. Ngay sau đó, con thứ ba, con thứ tư, con thứ năm… Từ trong núi thây, từ mỗi một góc, thế mà lại có vô số rắn đuôi bò cạp bò ra!

    Mọi người đều nhìn sang Bán Nguyệt đang quỳ gối trên đống xác chết, một luồng ánh sáng trắng xoay chuyển trong tay Phù Dao, Phù Dao nói với Bán Nguyệt: “Bảo chúng nó lui ra, chắc không thể nào tất cả đều không nghe lời ngươi được.”

    Bán Nguyệt nhắm mắt niệm chú, dường như đang nghĩ cách xua đuổi, nhưng vẫn có càng nhiều rắn đuôi bò cạp ùn ùn kéo đến, lúc nhúc rối nùi, chậm rãi áp sát. Một hai con rắn có thể cắn không chết bọn họ, nhưng nếu là mấy trăm con, mấy nghìn con thì rất khó nói, cho dù cắn không chết chắc cũng chẳng dễ nhìn gì cho cam. Tạ Liên nâng cổ tay lên, đang định điều động Nhược Da, chỉ thấy lũ rắn bò đến cách bọn họ vài xích thì ngừng lại, chúng nó do dự chần chừ, tạo thành một vòng vây kỳ dị. Tạ Liên tỉnh ngộ, ngẩng đầu nhìn Tam Lang kế bên, Tam Lang đang từ cao nhìn xuống lũ rắn đuôi bò cạp, trong mắt chứa đầy khinh miệt. Lũ rắn đuôi bò cạp như đọc hiểu ánh mắt của hắn, không dám tới gần, lại lùi ra sau một đoạn ngắn, vừa lùi vừa liên tục gục đầu, áp đầu rắn hung tợn xuống mặt đất, thái độ phục tùng toàn diện. Nhưng dường như có năng lực nào đó thúc đẩy chúng nó, không cho phép chúng nó ngừng tấn công bỏ chạy, thế là rất nhiều rắn đuôi bò cạp quay đầu bò sang phía Phù Dao. Phù Dao vung tay lên, ngọn lửa phọt ra từ tay áo, đốt chết một vòng, đẩy lùi một vòng, song làm vậy cũng không chống được bao lâu, Tạ Liên nói: “Chúng ta đi trước đi, rời khỏi đây rồi nói sau.”

    Nghe tiếng, Nhược Da “vù” một cái phóng lên trên. Nào ngờ chưa được bao lâu, nó lại “vù” một tiếng rút trở về. Tạ Liên hơi ngạc nhiên, y nâng cổ tay lên, nói với dải lụa trắng cuộn tròn kia: “Mi quay về làm gì? Trận pháp đã mở rồi, đi mau đi mau.”

    Nhược Da lại run bần bật quấn quanh cổ tay của y, như thể gặp phải thứ gì đáng sợ bên trên. Tạ Liên còn định dỗ dành nó, bấy giờ có thứ gì đó rớt xuống, “bẹp” một tiếng, nện lên đầu vai của Phù Dao. Phù Dao thuận tay túm lấy, túm xong lập tức biến sắc, giơ lên trước mặt xem thử — Thứ giáng xuống từ trên trời, thế mà cũng là một con rắn đuôi bò cạp!

    Phù Dao nhất thời không đề phòng, bị cắn xong ném phăng con rắn vào mặt Bán Nguyệt. Bán Nguyệt bị trói hai tay nhưng vẫn vô thức nâng tay lên túm, túm đúng ngay chóc, thân rắn màu đỏ tím quấn quanh cổ tay nhợt nhạt của nàng mà không hề tấn công. Lúc này, “bẹp” thêm tiếng nữa, con rắn đuôi bò cạp thứ hai rơi xuống đất!

    Đại khái Tạ Liên đã đoán được vì sao Nhược Da không chịu lên rồi.

    Y khẽ ngửa đầu, nương nhờ chút ánh trăng mới miễn cưỡng thấy rõ cảnh tượng trước mắt. Hàng trăm điểm nhỏ màu tím đỏ đang cấp tốc rơi xuống từ trên hố tội nhân.

    Mưa rắn!

    Mắt thấy những điểm nhỏ màu đỏ tím ngày càng gần, Tạ Liên nói: “Phù Dao! Lửa! Tung một màn che lửa tiêu diệt chúng nó giữa lưng trời đi!”

    Phù Dao cắn rách lòng bàn tay, phất tay lên, một chuỗi giọt máu bay lên trên, hóa thành màn che lửa cháy hừng hực, tức tốc bay lên trên nghênh đón. Màn che lửa đó bay cao hơn mười trượng, lơ lửng bốc cháy giữa không trung, rắn đuôi bò cạp đụng phải nó tức khắc bị đốt thành tro bụi, giúp ngăn chặn mưa rắn đang sà xuống.

    Thấy tạm thời thoát hiểm, Tạ Liên thở phào nhẹ nhõm, nói: “Tốt lắm! Phù Dao, cũng may nhờ có ngươi.”

    Loại pháp thuật này tất nhiên cực hao tốn pháp lực, sau khi tung ra, sắc mặt Phù Dao hơi tái xanh, đoạn quay đầu thả một vòng lửa xuống đất, đốt mấy con rắn bên dưới, sau đó nói với Bán Nguyệt: “Ngươi còn nói lũ rắn này không nghe lời ngươi? Nếu không phải ngươi điều khiển, tại sao lũ rắn đuôi bò cạp này không tấn công ngươi?”

    Tam Lang cười nói: “Biết đâu vì ngươi không may? Nó cũng đâu có tấn công bọn ta.”

    Phù Dao quay đầu lại, ánh mắt sắc lẻm lướt qua hai người họ. Tạ Liên có linh cảm không lành, nhưng vì trong lòng có một chút đầu mối chưa kịp làm rõ, không muốn xem bọn họ cự cãi, bèn nói: “Trước tiên làm rõ rốt cuộc lũ rắn này là chuyện gì đi.”

    Phù Dao cười lạnh nói: “Chuyện gì ư? Nếu không phải quốc sư Bán Nguyệt này đang nói dối, thì tức là kẻ bên cạnh huynh đang giở trò quỷ.”

    Tạ Liên nhìn thoáng qua Bán Nguyệt, lại nhìn thoáng qua Tam Lang, nói: “Ta cho rằng, chỉ sợ không phải hai người họ.”

    Giọng điệu của y tuy ôn hòa nhưng không kém phần kiên quyết, đây là kết luận mà y nghiêng về sau khi cân nhắc, nhưng Phù Dao nhất định cảm thấy y cố tình bao che. Ánh lửa rọi lên sắc mặt khó coi tột độ của Phù Dao, không biết là giận hay là cười.

    Phù Dao nói: “Thái tử điện hạ, huynh đừng có biết tỏng mà làm bộ hồ đồ nữa. Thứ bên cạnh huynh rốt cuộc là thứ gì, ta nghĩ lòng huynh đã biết từ lâu rồi, ta không tin đến tận bây giờ huynh cũng không phát hiện được gì hết!”

    Chương 29: Phong Sư áo trắng, đất bằng nổi bão cát

    Câu cuối cùng mà Phù Dao nói, quả thật hết sức khó nghe, Tạ Liên nửa vô tình nửa cố ý bước lên trước một bước, chắn trước mặt Tam Lang. Thấy vậy, sắc mặt Phù Dao càng dữ tợn hơn: “Thái tử điện hạ, huynh còn nhớ mình mang thân phận gì không?”

    Tạ Liên chậm rãi nói: “Ta mang thân phận gì, ta rõ hơn người ngoài nhiều.”

    Phù Dao hỏi: “Vậy tại sao đến giờ huynh còn dám đứng cạnh hắn?!”

    Tạ Liên thành thật đáp: “Bởi vì… đứng cạnh đệ ấy sẽ không có rắn đến cắn.”

    “……”

    Nghe câu trả lời như thế, Tam Lang “phì” một tiếng bật cười.

    Phù Dao càng xanh mặt, nói: “Huynh…”

    Xanh một hồi, sắc mặt Phù Dao bỗng dưng biến thành màu đen thuần. Không riêng gì mặt Phù Dao, toàn bộ đường nhìn của Tạ Liên đều chuyển sang màu đen.

    Thì ra màn che lửa mà khi nãy Phù Dao tung lên, cùng với ngọn lửa mà cậu ta thả dưới đáy hố, tất cả bất thình lình tắt ngóm!

    Tạ Liên nghe được Tam Lang cười ha ha mấy tiếng, nói: “Vô dụng!” Dứt lời choàng tay khoác vai y. Ngay sau đó, Tạ Liên nghe được phía trên hai người truyền đến tiếng “bịch bịch” dồn dập mà dữ dội, hệt như tiếng mưa xối xả nện xuống mặt dù.

    Khỏi cần phải nói, hiển nhiên trận mưa rắn đỏ tím đó đang điên cuồng rơi xuống sau khi không còn màn che chặn lại, mà một chiếc dù bung lên đã chắn hết mưa rắn. Tạ Liên ngửi được mùi máu tanh nồng sựcmũi, đang định cử động, Tam Lang lại nói: “Đừng nhúc nhích. Chẳng có thứ ngu ngốc nào dám qua đây đâu.”

    Hắn nói bằng giọng chắc như đinh đóng cột, câu trước trầm thấp mà dịu dàng, câu sau có phần ngạo mạn. Vốn dĩ Tạ Liên cũng không lo lắng gì, nhưng nghe bên kia truyền đến tiếng quát tháo của Phù Dao, dường như bị mưa rắn dội đầy đầu, y bèn nói: “Tam Lang!”

    Tam Lang đáp ngay: “Không cần đâu.”

    Tạ Liên dở khóc dở cười: “Sao đệ biết ta muốn nói gì?”

    Tam Lang nói: “Chi bằng huynh cứ yên tâm đi. Tên đó không chết được đâu.”

    Lúc này, trước mặt bọn họ truyền đến một tiếng gào rú: “Ngươi thật ác độc! Muốn ta chết thì mau bảo chúng nó cắn ta một phát cho xong đi, làm vậy là sao đây?”

    Bán Nguyệt nói: “Không phải ta mà!” Xem ra Khắc Ma bị nện tỉnh, phát hiện mình đang chìm trong dòng chảy của vô số con rắn trơn trợt, cho rằng đây là chuyện tốt mà Bán Nguyệt làm nên mới rống lên như thế. Tạ Liên nói: “Phù Dao, ngươi còn châm lửa được nữa không? Châm lại đi!”

    Phù Dao nghiến răng nghiến lợi nói: “Thứ bên cạnh huynh đang áp chế pháp thuật của ta, không cho ta châm lửa!”

    Lòng Tạ Liên chùng xuống, Tam Lang nói: “Ta không có.”

    Tạ Liên nói: “Ta biết đệ không có, cũng vì thế nên mới không ổn. Bán Nguyệt và Khắc Ma đều bị Khốn tiên tác trói chặt không thể làm phép, pháp lực của ta dùng sạch rồi, mà đệ lại không có áp chế Phù Dao, chẳng phải điều này đã chứng minh dưới đáy hố còn có người sao?!”

    Phù Dao nói: “Làm gì có người thứ sáu nào, từ đầu đến cuối không có ai xuống từ trên đó cả! Ta thấy huynh bị quỷ mê hoặc tâm trí…”

    Lúc này, chỉ nghe Bán Nguyệt hỏi: “Ai vậy?”

    Tạ Liên nói: “Bán Nguyệt muội sao thế? Có người đến bên chỗ muội à?”

    Bán Nguyệt nói: “Có người…” Lời còn chưa dứt, giọng nói của nàng biến mất, không biết bị bịt miệng hay đánh mất tri giác, Tạ Liên hỏi tiếp: “Bán Nguyệt sao thế?”

    Phù Dao còn đang chiến đấu quyết liệt với lũ rắn kia, giữa một mảnh tối đen, những luồng sáng trắng đua nhau bùng nổ. Phù Dao nói: “Coi chừng nàng ta dụ huynh đến gần đấy!”

    Nếu đổi sang tình huống khác, Tạ Liên cũng sẽ cảm thấy tám phần mười là lừa đảo, nhưng chuyện ở cửa ải Bán Nguyệt, chư vị trên Thượng thiên đình giữ kín như bưng, Linh Văn lại còn dặn đi dặn lại, sự tình tuyệt đối không đơn giản, đã vậy còn xảy ra chuyện ngay vào lúc này, nếu dưới đáy hố thật sự có thêm một người, chỉ sợ người đó đến để bịt miệng!

    Tạ Liên nói: “Chưa chắc đâu. Cứu muội ấy trước đi!” Dứt lời định xông vào trong mưa rắn, chợt nghe Tam Lang nói bên tai mình: “Được!”

    Tạ Liên chỉ cảm giác được có một cánh tay choàng vai mình, bỗng chốc đưa mình bay ngoài, y bất chợt ngộ ra, Tam Lang thế mà một tay bung dù, một tay ôm mình, tiến lên công kích. Trong bóng đêm, ánh bạc chớp lóe, đinh đinh đang đang, đột nhiên, một tiếng đao kiếm va chạm bén nhọn như xé tai mọi người vang lên.

    Tam Lang “Ồ?” một tiếng, nói: “Đúng là có người thứ sáu. Thú vị.”

    Chẳng biết Tam Lang điều khiển vũ khí như thế nào, hoặc là điều khiển vũ khí gì, thế nhưng giờ phút này, vũ khí mà hắn đang điều khiển, đích thực đang giao chiến trực diện với một người!

    Đối phương chẳng nói chẳng rằng, Tạ Liên chỉ nghe được tiếng lợi kiếm xé gió, coi bộ lại ra chiêu rồi. Thỉnh thoảng có tia lửa lóa mắt chớp lóe giữa bóng đêm, nhưng toàn thoáng qua rồi biến mất, không rọi sáng được mặt đối phương. Tạ Liên dỏng tai nghe tình hình chiến đấu, cảm thấy Nhược Da trên cổ tay càng quấn càng chặt, đành phải cúi đầu nói: “Đừng sợ, mi thả lỏng chút nào, thả lỏng chút nào.” Chờ khi Nhược Da nới lỏng một chút, y lại cất cao giọng hỏi: “Bán Nguyệt, muội còn tỉnh không? Trả lời được không?”

    Bên kia chẳng ai đáp lời. Phù Dao nói: “Biết đâu người mà các ngươi đang đánh chính là nàng ta.”

    Tạ Liên nói: “Không, người đang đánh không phải là Bán Nguyệt!”

    Cùng là chiến đấu trong bóng đêm, song lúc đánh Khắc Ma, Tam Lang ung dung như trêu chọc đối phương, còn trận này lại có phần nghiêm túc hơn. Võ lực của đối phương cực cao, sử dụng binh khí thành thạo, mà Bán Nguyệt vóc người nhỏ gầy, nhìn cánh tay cũng biết sức mạnh và vũ khí không phải sở trường của nàng, vì thế tuyệt đối không có khả năng nàng là người đang đấu với Tam Lang. Phù Dao cười nhạo: “Loại người bán đứng quốc gia của mình như thế chẳng khác gì nữ quỷ Tuyên Cơ, rốt cuộc tại sao huynh vẫn còn tin tưởng nàng ta?”

    Tạ Liên nói: “Phù Dao, ngươi đừng bất thình lình nóng nảy vậy được không? Ngươi… khoan đã, ngươi vừa nói cái gì?”

    Phù Dao lại tung một chưởng, đánh bay vài con rắn đuôi bò cạp, nói: “Ta nói rốt cuộc tại sao huynh lại tin tưởng nàng ta như thế? Giống như tin tưởng thứ bên cạnh huynh vậy.”

    Tạ Liên nói: “Không, ý ta không phải là câu đó — Ngươi nói Tuyên Cơ. Ngươi nhắc đến Tuyên Cơ!”

    Ngốc quá, ngốc quá, ngốc quá!

    Tạ Liên thật sự không thể tin nổi, thế mà đến giờ mình mới liên hệ những việc này!

    Y nói: “Dừng tay đi! Không cần giấu diếm nữa, ta đã biết ngươi là ai rồi!”

    Nghe Tạ Liên hô như thế, tiếng đao kiếm va chạm chỉ ngừng giây lát rồi lại tiếp tục. Tạ Liên cũng không nôn nóng, nói: “Ngươi cảm thấy, ta nói ta đã biết ngươi là ai là đang gạt ngươi sao? Tiểu Bùi tướng quân?”

    Phù Dao nói: “Huynh đang nói chuyện với ai? Tiểu Bùi tướng quân? Đừng có điên nữa. Tiểu Bùi tướng quân có thân phận nào chứ, hắn vừa đi xuống, ai mà không biết?”

    Tạ Liên nói: “Ngươi nói rất đúng. Nhưng mà, nếu không phải bản tôn của hắn đích thân xuống thì sao?”

    Trong bóng tối, tiếng binh khí đánh nhau chợt ngưng bặt.

    Tạ Liên khẽ nín thở tập trung tinh thần, trầm giọng nói: “Ta phát hiện đã quá muộn. Thật ra ngay từ đầu, ta nên nghĩ đến mới phải.”

    Y biết gần hai trăm năm qua liên tục có thứ gì đó tác loạn ở cửa ải Bán Nguyệt, thế mà xưa giờ chẳng có vị thần quan nào can thiệp, mọi người cũng không muốn nhắc tới, vậy nhất định có một hoặc vài vị thần quan đang ém chuyện này xuống. Nhưng vì y chưa hiểu rõ các vị thần quan, không dám nghi ngờ vô căn cứ, vì thế không có gan suy đoán rốt cuộc là vị thần quan nào.

    Cũng nhờ Phù Dao nhắc đến nữ quỷ Tuyên Cơ mới khiến y thức tỉnh. Vừa nhắc tới nữ quỷ Tuyên Cơ, khó tránh liên tưởng đến hai vị tướng họ Bùi. Phía Bắc là địa bàn của hai vị Bùi tướng quân, mà Phù Dao từng thuận miệng đề cập, trước khi phi thăng, Tiểu Bùi tướng quân từng làm một việc: Đồ thành.

    Đồ thành nào?

    Rất có khả năng, chính là thành cổ Bán Nguyệt!

    Những chuyện như thế này, các thần quan trên Thượng thiên đình cũng không chê trách, muốn làm nên chuyện, ai mà chẳng phải đổ chút máu? Nhưng dù sao đồ thành cũng không phải chuyện vẻ vang gì cho cam, nếu lưu truyền quá rộng rãi, khó tránh ảnh hưởng đến việc thu nạp tín đồ mới, bởi thế sau khi phi thăng thường phải che giấu một chút. Vậy cho nên, tuy mọi người đều biết có chuyện như thế, nhưng hẳn do không nắm rõ tình hình cụ thể trong đó, hoặc là không muốn điều tra kỹ. Suy cho cùng, nếu không có thù sâu oán nặng gì, ai lại rảnh rỗi đào bới gốc gác của người khác, đắc tội với chỗ dựa sau lưng người ta chứ?

    Tạ Liên chậm rãi nói: “Gương mặt chôn dưới đất kia nói, trong số chúng ta có một người đã ở đây vào năm sáu mươi năm trước. Câu này, ban đầu ta nghi ngờ có thể lão ta nói dối để dụ dỗ người khác đến gần, tuy nhiên, cũng rất có khả năng là thật.”

    “Trong số những người này, người đầu tiên ta nghi ngờ chính là ngươi. Đội buôn đi theo ngươi, ngươi muốn đưa bọn họ đến đâu cũng được. Ta sống ở nước Bán Nguyệt mấy năm cũng chưa từng gặp rắn đuôi bò cạp, vậy mà các ngươi tùy tiện tìm một chỗ tránh bão cát lại đúng dịp gặp được loại độc vật hiếm có này. Ta bảo ngươi đi theo chúng ta tìm cỏ Thiện Nguyệt, trước khi đi ngươi còn cố ý chỉ đường cho những người khác, nói cho bọn họ biết phương hướng của thành cổ Bán Nguyệt, để cho những người không chờ được bọn ta trở về cũng có thể tự đi được. Khi nãy trên hố tội nhân, rõ ràng ta đã nói nếu xảy ra chuyện ta sẽ lên trước, thế mà người xưa nay bình tĩnh như ngươi vẫn đột nhiên nhảy xuống, tự tìm đường chết một cách vô nghĩa.”

    Dừng một chút, y nói tiếp: “Hành vi của ngươi kỳ lạ như thế, nhìn đâu cũng thấy không hợp lý, vậy mà đến giờ ta mới phát hiện ngươi là ai, thật sự quá muộn phải không? Tiểu Bùi tướng quân, hoặc nên nói, A Chiêu!”

    Đáy hố im phăng phắc, hồi lâu sau, cuối cùng một giọng nói lạnh lùng cất lên: “Thế ngươi chưa từng nghĩ rằng, biết đâu kẻ mà gương mặt chôn dưới đất nói chính là thiếu niên áo đỏ bên cạnh ngươi à.”

    Lời vừa dứt, một ngọn lửa đột nhiên bừng sáng dưới đáy hố tội nhân.

    Ánh lửa rọi sáng hai bóng hình màu máu đứng đối diện nhau. Một người là Tam Lang áo đỏ, đã cất binh khí đang đứng nghiêm túc mà ung dung. Người còn lại là một thanh niên áo vải, còn đặt ngang một thanh kiếm trước người, chưa hề buông tay.

    Bởi vì khắp người thanh niên áo vải dính đầy máu, thoạt nhìn cứ như mặc một thân áo đỏ, gương mặt hắn lạnh toát, bả vai khiêng một người, quả nhiên chính là thanh niên A Chiêu kia.

    Thật ra bất luận là bản tôn của Tiểu Bùi tướng quân hay A Chiêu, biểu cảm bình chân như vại và quá đỗi bình tĩnh trên mặt hắn vẫn không hề thay đổi, chỉ là Tạ Liên chưa bao giờ nghĩ theo hướng đó, nên mới không liên tưởng hai người này với nhau.

    Người hắn đang khiêng trên vai, đúng là Bán Nguyệt. Thả rắn đuôi bò cạp ra, e rằng hắn định thừa dịp hỗn loạn đưa Bán Nguyệt đi, nhưng nếu thân phận đã bại lộ, vậy không cần gây rối loạn nữa, dòng rắn khắp bốn phía và mưa rắn từ trên trời giáng xuống ngừng quấy phá, còn hắn thì một tay thu kiếm, tay còn lại nhẹ nhàng đặt Bán Nguyệt trên vai xuống. Khắc Ma ở một bên kinh ngạc hỏi: “Ngươi là ai? Chẳng phải ngươi ngã chết rồi sao?”

    A Chiêu chẳng buồn nhìn Khắc Ma mà vẫn nhìn chằm chằm Tam Lang, cảnh giác cao độ, chỉ dùng tiếng Bán Nguyệt nói một câu: “Khắc Ma, qua mấy trăm năm rồi mà ngươi vẫn chẳng thay đổi gì.”

    Có lẽ giọng điệu bình thản khiến người khác giận sôi này quá quen thuộc, sau khi nghe xong, gương mặt ngăm đen của Khắc Ma tức khắc dâng đầy phẫn nộ: “… Là ngươi!!! Bùi Túc! Người Trung Nguyên hèn hạ!”

    Nếu không phải Khốn tiên tác đang trói chặt gã, chỉ sợ gã đã xông lên liều mạng từ lâu rồi.

    Hèn gì lúc đó, trong lời mắng của đám binh sĩ Bán Nguyệt lại lẫn từ “Kỹ nữ”, coi bộ không phải đang mắng Tạ Liên, đơn giản vì cùng là người Trung Nguyên, bọn chúng mới nghĩ đến Bùi Túc công thành (tấn công vào thành), rồi lại liên tưởng đến Bán Nguyệt, tiện thể mắng nàng luôn.

    Tạ Liên nói: “Có phải Bán Nguyệt đã dạy ngươi cách điều khiển rắn đuôi bò cạp không?”

    Trước đó y đã nghĩ, lũ rắn đuôi bò cạp ra ngoài cắn người này, nếu thật sự không phải do Bán Nguyệt sai khiến, lại không có lý do giải thích vì sao chúng đột nhiên không chịu nghe lời, vậy chỉ có thể giải thích là, còn một người nữa cũng biết điều khiển rắn đuôi bò cạp.

    Bởi vì tổng cộng có hai người khác nhau đang điều khiển rắn đuôi bò cạp riêng biệt, cho nên rắn đuôi bò cạp do người kia chỉ huy tất nhiên sẽ không nghe lệnh của Bán Nguyệt, đây là đạo lý không thể nào đơn giản hơn.

    Bùi Túc nói: “Nàng không có dạy ta, nhưng nàng điều khiển thế nào, ta tận sức tự học.”

    Tạ Liên gật đầu: “Dù gì Tiểu Bùi tướng quân cũng thông tuệ hơn người. Nếu ta đoán không lầm, hẳn là các ngươi đã quen nhau rất nhiều năm rồi.”

    Hồi nhỏ Bán Nguyệt bị trẻ con Bán Nguyệt xa lánh, chỉ có trẻ con người Hán chơi thân với nàng. Mà những đứa trẻ đó, tuy rằng y không thể nhớ rõ từng đứa, nhưng vẫn nhớ mang máng có khá nhiều đứa là con cháu trong quân đội đóng ở biên giới, sau khi lớn lên, phần lớn cũng gia nhập quân đội. Biết đâu Bùi Túc chính là một trong số đó, bằng không khó mà giải thích vì sao Bán Nguyệt trời sinh ủ ê khó gần lại đột nhiên quen biết tướng quân của quốc gia đối địch, hơn nữa còn chịu thông đồng với giặc. Đây chỉ là một suy đoán, nhưng nhìn phản ứng của Bùi Túc, hình như không có đoán sai.

    Tạ Liên hỏi: “Bán Nguyệt thật sự truyền tin cho ngươi, thông đồng với ngươi mở cổng thành sao?”

    Bùi Túc nói: “Đúng vậy.”

    Bên kia, Khắc Ma phun một ngụm nước bọt, vẫn còn mắng: “Bùi Túc hèn hạ. Tháo dây ra, để ta liều chết với hắn thêm trận nữa!”

    Bùi Túc lạnh nhạt nói: “Thứ nhất, hai trăm năm trước chúng ta đã liều chết một trận, ngươi đã thua. Thứ hai, xin hỏi ta hèn hạ chỗ nào?”

    Khắc Ma gắt giọng: “Nếu không phải hai người các ngươi thông đồng với nhau, nội ứng ngoại hợp, chúng ta làm sao thua được?!”

    Bùi Túc nói: “Khắc Ma, ngươi đừng có không chịu thừa nhận. Lúc ấy mặc dù ta chỉ dẫn theo hai ngàn người, nhưng từ đầu chí cuối hai ngàn người đó vẫn dễ dàng thắng được bốn ngàn người của ngươi. Bất kể cổng thành mở hay không, ngươi đã định phải thua.”
    Tạ Liên nhịn không được nghĩ thầm: “Dưới trướng chỉ có hai ngàn người mà bị phái đi đánh một quốc gia? Chắc không phải lúc làm người, Tiểu Bùi tướng quân ở trong quân đội còn bị xa lánh hơn mình chứ??”

    Mặc dù cảm thấy Bùi Túc sẽ không nói dối, song Tạ Liên vẫn cảm thấy khó hiểu, bèn hỏi: “Nếu ngươi đã thắng dễ dàng, vì sao phải thông đồng với Bán Nguyệt?”

    Bùi Túc không để ý tới Khắc Ma, nói bằng tiếng Hán: “Vì để ta đồ thành.”

    Nghe vậy, ngoại trừ Khắc Ma, những người còn lại ở đây đều sửng sốt. Tuy rằng cảm thấy khó hiểu, Tạ Liên vẫn dịu giọng hỏi: “Cái gì gọi là vì để ngươi đồ thành? Nếu ngươi đã sắp thắng, cần gì phải nhất quyết đồ thành chứ?”

    Bùi Túc nói: “Cũng vì chúng ta sắp thắng nên mới nhất quyết phải đồ thành. Bởi lẽ, một đêm trước khi công thành, thủ lĩnh của nhiều gia tộc Bán Nguyệt liên hợp với nhau tổ chức hội họp, bí mật giao hẹn một việc.”

    Nghe đến đó, Tạ Liên có linh cảm nguyên nhân mà Bùi Túc sắp tiết lộ, có lẽ sẽ khiến người ta trố mắt nghẹn lời, vì vậy càng tập trung tinh thần, hỏi: “Chuyện gì?”

    Bùi Túc khoan thai nói: “Người Bán Nguyệt trời sinh tính tình hung hãn, lại cực hận người Trung Nguyên, cho dù biết mình sắp thua, bọn họ cũng không chịu chấp nhận. Nam nữ già trẻ khắp nước Bán Nguyệt đã chuẩn bị sẵn sàng, cố gắng dùng tốc độ nhanh nhất chế tạo gấp một lượng đồ vật.”

    Tạ Liên đã mơ hồ đoán được đó là thứ gì, nhưng vẫn chưa thể chắc chắn, mà thứ Bùi Túc thốt ra, quả nhiên là thứ mà lòng y đã nghĩ: “Thuốc nổ.”

    Bùi Túc nói từng câu từng chữ: “Bọn họ dự định, lỡ như thành đổ trận tan, sẽ bảo dân chúng nước mình giấu đống thuốc nổ này trong người lập tức tản ra trốn chạy từ các hướng, đổ vào Trung Nguyên, cố ý trà trộn vào những nơi đông người, chờ cơ hội gây bạo động. Nói cách khác, mặc dù bản thân phải chết, bọn họ cũng muốn kéo càng nhiều người Trung Nguyên chết theo. Dẫu cho mất nước, bọn họ cũng thề phải phá cho những kẻ diệt nước mình không được yên!”

    Tạ Liên lập tức quay sang Khắc Ma, dùng tiếng Bán Nguyệt nhanh chóng thuật lại vài câu, hỏi: “Chuyện này là thật sao?”

    Khắc Ma chẳng hề có ý định che giấu, có lẽ cũng không cảm thấy có gì sai, gã ngẩng đầu nói: “Thật!”

    Nghe vậy, Tam Lang nhướn một bên lông mày, nói: “Ác độc. Ác độc.”

    Không biết có phải cố ý hay không, câu này hắn nói bằng tiếng Bán Nguyệt. Khắc Ma giận dữ quát: “Ác độc? Các ngươi có tư cách gì nói bọn ta ác độc? Nếu không phải các ngươi đánh bọn ta, sao bọn ta lại bị ép đến mức đó chứ? Các ngươi hãm hại bọn ta, bọn ta trả thù lại, việc này có gì sai?!”

    Bùi Túc lại lạnh lùng nói: “Nếu thật sự là thế, vậy chi bằng chúng ta tính rõ từ đầu nhé?”

    Hắn khẽ nghiêng đầu, nói: “Người Bán Nguyệt cố tình gây sự ở vùng biên giới bao nhiêu lần rồi? nước Bán Nguyệt đã ác ý chặn đường bao nhiêu đội buôn và lữ khách đi từ Trung Nguyên đến Tây Vực? Các ngươi thừa biết nước mình có mã tặc (bọn cướp cưỡi ngựa) chuyên chặn đường cướp bóc trắng trợn và tàn sát người Hán, thế nhưng lại cố tình bao che, binh sĩ mà người Hán phái đi vây quét đạo tặc lại bị các ngươi giết sạch với lý do xâm phạm vượt ranh giới. Ác độc không?”

    Tốc độ nói của Bùi Túc không nhanh, giọng điệu cũng không kích động, nhưng chẳng hiểu tại sao, từng chữ một đều mang đến cảm giác chói tai. Khắc Ma hỏi: “Vậy các ngươi thì sao? Sao không nói các ngươi cưỡng ép chiếm đoạt quốc thổ của chúng ta trước?”

    Bùi Túc nói: “Nơi tiếp giáp giữa hai nước vốn đã nhập nhằng không rõ, sao lại tính là cưỡng ép chiếm đoạt?”

    Khắc Ma nói: “Hai bên đã sớm phân chia địa bàn, là các ngươi không tuân thủ lời hứa!”

    Bùi Túc nói: “Lúc đó phân chia chỉ có các ngươi đơn phương thừa nhận, chúng ta thừa nhận bao giờ? Cái mà các ngươi gọi là phân chia chẳng có gì ngoài hoang mạc chia hết cho chúng ta, ốc đảo chia hết cho các ngươi, nực cười không?”

    Khắc Ma gắt giọng: “Ốc đảo vốn là của bọn ta, từ trước đến giờ đều là của bọn ta!”

    Hai bên bên nào cũng cho rằng mình đúng, chỉ nghe bọn họ cự cãi mà Tạ Liên đau hết cả đầu. Lần tranh chấp này khiến y nhớ lại cái ngày bị kẹp ở giữa đánh cho mặt mũi bầm dập vào hai trăm năm trước, mặt lại loáng thoáng phát đau. Dường như cũng chịu hết nổi việc tiếp tục trao đổi với Khắc Ma, Bùi Túc tung ra một chưởng, đánh ngất Khắc Ma lần nữa, đoạn nói với Tạ Liên: “Nên là, ngươi thấy đấy.”

    Hắn hít nhẹ một hơi, nói: “Trên đời này có rất nhiều việc, căn bản không thể nói rõ được. Chỉ có thể đánh thôi.”

    Tạ Liên thở dài: “Ta đồng ý câu trước của ngươi.”

    Tam Lang tiếp lời: “Ừ, ta đồng ý câu sau.”

    Tạ Liên dời mắt về phía Bán Nguyệt cúi thấp đầu ngồi dưới đất ở bên cạnh, chăm chú nhìn nàng chốc lát rồi quay đầu, nói: “Ta không thể nói chính xác ai đúng ai sai, vậy nên ta sẽ không nói. Mặc kệ Bán Nguyệt mở cổng thành vì lý do gì, đã mở, thì phải chịu trách nhiệm, vì thế nàng mới bị cả đám binh sĩ treo cổ trên hố tội nhân. Người vừa chết, mọi việc cũng đã kết thúc.”

    Bùi Túc lại khôi phục vẻ mặt bình chân như vại kia, nói: “Phải.”

    Tạ Liên nói: “Còn sống mắc nợ, còn sống trả. Nhưng nếu sau khi chết vẫn còn tác loạn, thì đó lại là vấn đề khác.”

    Bùi Túc lạnh nhạt đáp: “Bán Nguyệt không có tác loạn.”

    Tạ Liên nói: “Tiểu Bùi tướng quân, vậy tức là ngươi thừa nhận, những người đi đường lạc vào thành cổ Bán Nguyệt đều do ngươi dẫn vào, đúng không.”

    Im lặng giây lát, Bùi Túc trầm giọng đáp: “Đúng vậy.”

    Tạ Liên hỏi: “Vì sao?”

    Lần này, Bùi Túc không trả lời. Tạ Liên nói: “Gần hai trăm năm rồi, dù gì ngươi cũng phải cho những người bị mình dẫn vào thảnh cổ Bán Nguyệt một lý do, một công đạo.”

    Bùi Túc vẫn lặng thinh như trước, mặt vẫn không đổi sắc. Khi nãy hắn xem như là hỏi gì đáp nấy, nhưng bây giờ như thể hạ quyết tâm, nhất quyết từ chối không trả lời. Tạ Liên đang định hỏi lại, đúng vào lúc này, y chợt nghe một tiếng động lạ kỳ.

    Tiếng động này truyền đến từ trên đỉnh đầu mọi người, vù vù ào ào, nghe như gió lớn rít gào. Chờ khi tiếng động đó đến gần, cuối cùng Tạ Liên có thể xác định — Đây quả thật là gió lớn đang rít gào!

    Trận gió lớn này đến quá đột ngột và mãnh liệt, thế nên Tạ Liên còn chưa hiểu tình huống ra sao, cơ thể đã nghiêng ngả, toàn thân bay lên!

    Trận gió bỗng dưng xuất hiện trút thẳng từ trên cao xuống đáy hố tội nhân, cuốn cả đám người bay lên trời!

    Tạ Liên thoắt cái túm lấy Tam Lang gần mình nhất, nói: “Cẩn thận!”

    Tam Lang cũng trở tay nắm Tạ Liên, sắc mặt không hề thay đổi. Tạ Liên chỉ cảm thấy trời đất chao đảo, cơ thể cấp tốc bay lên không trung, khựng lại một lát rồi bỗng nhiên rơi ngược trở xuống. Y vội vã tung Nhược Da ra, dỗ dành nó trong lúc cấp bách: “Được rồi được rồi không sao đâu, nhanh lên, Nhược Da ngoan, ra cứu cái đi!”

    Sờ soạng mấy cái, cuối cùng Nhược Da cũng bay ra. Tiếc rằng bốn phía trống hoác trụi lủi, ngoại trừ cái hố tội nhân to đùng, đúng là không tìm được bất cứ thứ gì để nắm. Nhược Da bay một vòng rồi lại rụt trở về, bất đắc dĩ quá, Tạ Liên đành phải tự điều chỉnh tư thế rơi xuống đất ngay trên không trung. Nếu là trước đây, chắc tám phần mười y lại chốc đầu rơi xuống ba thước đất, nhưng lần này, vào khoảnh khoắc gần chạm đất, Tam Lang thuận tay đỡ lấy y, y thế mà lại hạ cánh đúng chuẩn. Lúc giày đạp vững trên mặt đất, Tạ Liên vẫn không thể tin nổi, nhưng cảm giác không thể tin nổi này nhanh chóng phai mất, bởi vì y vừa đáp xuống đất đã trông thấy một bóng người áo đen loạng choạng đi đến trước mặt mình.

    Tạ Liên tập trung nhìn kỹ, mừng rỡ nói: “Nam Phong!”

    Quả nhiên là Nam Phong, nhưng là Nam Phong chật vật nhếch nhác. Toàn thân Nam Phong trông như lăn lộn mười mấy vòng trong bụi đất, rồi bị ném vào đống cầm thú gà bay chó sủa chà đạp cả đêm, quần áo khắp người rách tả tơi, thảm hại không thể tả. Nghe Tạ Liên gọi, Nam Phong chỉ giơ tay lên, lẳng lặng lau mặt, ngay cả nói cũng không nên lời. Tạ Liên đỡ lấy Nam Phong, hỏi: “Ngươi sao thế? Bị hai cô nương kia đánh cho một trận hả?”

    Lời còn chưa dứt, chỉ thấy hai bóng người theo sau Nam Phong đi tới. Một trong số đó chính là nữ đạo sĩ áo trắng kia, phất trần gác trong khuỷu tay, cười tủm tỉm chào hỏi Tạ Liên: “Chào Thái tử điện hạ.”

    Mặc dù không biết đối phương là ai, Tạ Liên cũng phải trả lễ lại, nhưng không biết nên xưng hô thế nào, chỉ đành mỉm cười nhấc tay chào hỏi: “Chào đạo hữu.”

    Nữ đạo sĩ áo đen còn lại thì lạnh lùng liếc sang đây, không để ý đến Tạ Liên, lúc lia mắt đến Tam Lang thì khựng lại, dường như cảm thấy người này rất đáng ngờ, chân còn dừng giây lát.

    Trận gió vừa rồi thổi những người dưới đáy hố lên trên hết, hai nữ đạo sĩ lướt qua Tạ Liên, đi thẳng về phía Bùi Túc. Thấy người đến, Bùi Túc cũng không tỏ ra bất ngờ, dù gì lúc trước đóng vai A Chiêu, hắn đã gặp hai người này trong thành một lần rồi. Bùi Túc quỳ gối tại chỗ, cúi đầu trước nữ đạo sĩ áo trắng, nói khẽ: “Phong Sư đại nhân.”

    Vừa nghe bốn chữ này, Tạ Liên sửng sốt tại chỗ.

    Mệt thân y còn một mực cho rằng đây là yêu tinh quỷ quái đến từ phương nào, không ngờ lại là thần quan trên Thượng thiên đình? Đã vậy còn là Phong Sư nữa, là Phong Sư rải mười vạn công đức trong Thông Linh trận!

    Nhưng nghĩ kỹ lại cũng không có gì không đúng. Lúc đó, nữ đạo sĩ áo trắng nói “Mấy kẻ đó lại trốn đi đâu rồi, lẽ nào muốn ta tìm từng người một ra giết sao” mới khiến y tưởng rằng nàng không phải người lương thiện, nhưng thật ra “kẻ đó” chưa chắc ám chỉ bọn họ, có khả năng đang ám chỉ “người Bán Nguyệt”, có điều do ấn tượng ban đầu đóng vai trò chủ đạo, thế nên y mới cảm thấy mọi cử chỉ của đối phương đều lộ vẻ yêu tà quỷ dị.

    Đối với thần quan rải một phát mười vạn công đức, Tạ Liên không khỏi ấp ủ một loại cảm giác kính nể khó tả, y nói với Nam Phong: “Sao ngươi không nói sớm cho ta biết đây là Phong Sư? Ta còn đoán liệu có phải là xà tinh hay bò cạp tinh gì đó không, thất lễ quá đi mất.”

    Sắc mặt hơi sa sầm, Nam Phong nói: “Làm sao ta biết đó là Phong Sư được? Ta chưa từng thấy Phong Sư đại nhân trong hình hài này, rõ ràng Phong Sư vẫn luôn là… Thôi bỏ đi.”

    Nghe lời Nam Phong nói, hình như lúc trước ở Thượng thiên đình Phong Sư không mang hình dáng này, nếu vậy cũng khó trách. Tạ Liên đã hiểu, nói tiếp: “Sao Phong Sư đại nhân lại đến cửa ải Bán Nguyệt vậy?”

    Nam Phong nói: “Đến giúp đỡ. Lúc nãy bọn họ đi dạo trong thành Bán Nguyệt là đang tìm đám binh sĩ Bán Nguyệt này.”

    Tạ Liên lập tức nhớ ra, lần đầu tiên mình hỏi chuyện cửa ải Bán Nguyệt trong Thông Linh trận, giữa bầu không khí xấu hổ, vị Phong Sư này bỗng nhiên rải mười vạn công đức, đánh lạc hướng sự chú ý của người khác, sợ rằng lúc đó đã chú ý đến những gì y đang hỏi. Tạ Liên trầm ngâm suy tư, bên kia, Phong Sư ngồi xổm xuống trước mặt Bùi Túc, nói: “Tiểu Bùi tướng quân, chuyện lần này ngươi làm, e là hơi quá rồi.”

    Thân là thần quan Thượng thiên đình, thế mà lại thả phân thân tác loạn ở cửa ải Bán Nguyệt gần hai trăm năm, khiến cho vô số người đi đường lạc lối, biến thành vong hồn dưới miệng binh sĩ Bán Nguyệt, bất luận thế nào, đây cũng không thể xem là việc nhỏ được. Bùi Túc cũng không biện bạch gì, cúi đầu nói: “Vãn bối biết.”

    Phong Sư vẫy vẫy phất trần, nói: “Ngươi biết là tốt rồi. Ngươi hãy tự kiểm điểm lại đi, lên trên rồi nói sau.”

    Bùi Túc khẽ đáp: “Rõ.”

    Nhắn nhủ với hắn xong, Phong Sư cắm phất trần vào sau cổ áo, đứng lên cười nói với Tạ Liên: “Thái tử điện hạ, ngưỡng mộ đã lâu ngưỡng mộ đã lâu nha.”

    Với Tạ Liên mà nói, “ngưỡng mộ đã lâu” thật sự không phải lời khen gì cho cam, nhưng dù gì cũng chỉ là chút lời chót lưỡi đầu môi mà thôi, Tạ Liên cũng cười đáp: “Đâu nào đâu nào. Phong Sư đại nhân mới là ngưỡng mộ đã lâu ngưỡng mộ đã lâu.”

    Phong Sư nói: “Lúc trước thật sự ngại quá đi.”

    Tạ Liên ngơ ngác, hỏi: “Lúc trước? Lúc trước sao vậy?”

    Phong Sư nói: “Lúc trước chẳng phải các huynh gặp một trận bão cát trong sa mạc sao?”

    Tạ Liên nhớ lại còn phảng phất cảm thấy miệng mồm đầy cát, nói: “Phải.”

    Phong Sư nói: “Là ta nổi lên đó.”

    “……”

    Phong Sư ung dung nói: “Ý định ban đầu của việc nổi bão cát là ngăn cản các huynh đến gần nước Bán Nguyệt, nào ngờ các huynh chẳng bị cuốn đi mà còn nghiêng trái ngã phải tìm đến được nữa chứ.”

    Tạ Liên càng nghe càng cảm thấy không ổn.

    Nổi bão cát ngăn cản bọn họ đến cửa ải Bán Nguyệt, việc này lại bỗng dưng xảy ra, có ý gì đây? Nhưng tạm thời y vẫn án binh bất động, không trả lời câu nào, để nghe đối phương nói sao đã. Dừng một lát, Phong Sư nói tiếp: “Nhưng mà, chuyện này, thái tử điện hạ huynh đừng lo nữa thì hơn.”

    Tạ Liên nhìn Bán Nguyệt cuộn mình nằm dưới đất, trong lòng chợt hiện dự cảm không lành.

    Ban đầu y lo rằng, nếu chuyện này chọc lên Thượng thiên đình, chúng thần quan tùy tiện tăng giảm vài nét bút, thay đổi nguyên do, thế là biến thành Tiểu Bùi vô tội, Bán Nguyệt gánh tội thay. Bây giờ nửa đường bỗng dưng xuất hiện một vị Phong Sư bảo y đừng lo chuyện này, thế chẳng phải càng giống muốn bao che cho Tiểu Bùi sao?

    Tạ Liên bình tĩnh bước lên trước một bước, chắn trước người Bán Nguyệt, dịu giọng nói: “Nhưng chuyện này ta đã lo xong rồi, bây giờ mới nói không cho ta lo cũng không bằng thừa. Huống chi, Tiểu Bùi tướng quân còn chút chuyện chưa giải thích rõ ràng mà.”

    Chú ý đến động tác của y, Phong Sư cười một tiếng, nói: “Huynh có thể yên tâm. Quốc sư Bán Nguyệt, huynh có thể đưa đi trước.”

    Điều này trái lại nằm ngoài dự tính của Tạ Liên. Y ngẩn ra, Phong Sư lại nói tiếp: “Đầu đuôi ngọn nguồn của mọi chuyện, khi nãy chúng ta đứng bên trên cũng nghe cả rồi. Tuy quốc sư Bán Nguyệt này đã đạt cấp “Hung”, nhưng lúc ta đi dạo trong thành, thấy nàng nhốt binh sĩ Bán Nguyệt vào trận pháp mà mình thiết lập, còn thấy nàng thả những người phàm bị binh sĩ bắt, chẳng những không hại mà còn cứu người. Người mà ta muốn mang đi, chỉ có Tiểu Bùi tướng quân và Khắc Ma, huynh không cần lo ta kéo ai gánh tội thay.”

    Nếu đối phương đã nói thẳng như thế, Tạ Liên cũng yên tâm, nói một tiếng “hổ thẹn”, Phong Sư lại nói: “Huynh lo lắng như vậy cũng bình thường thôi mà.”

    Có vẻ không thể chịu được việc ở đây thêm một giây nào nữa, nữ đạo sĩ áo đen đứng bên cạnh nói: “Nói xong chưa? Nói xong thì đi thôi.”

    Phong Sư nói to: “Xí! Ngươi gấp cái gì, ngươi càng gấp, ta càng nói nhiều đó!” Nói thì nói vậy, lúc quay đầu nàng vẫn mỉm cười, lấy một chiếc quạt giấy bên hông ra, nói: “Thái tử điện hạ, nếu không còn chuyện gì khác, chúng ta gặp lại trên Thượng thiên đình nhé?”

    Tạ Liên gật đầu, Phong Sư bèn mở quạt giấy ra, chỉ thấy mặt trước chiếc quạt viết một chữ “Phong” nằm ngang, mặt sau vẽ ba luồng gió mát. Nhìn cũng đoán được đây chính là pháp khí của Phong thần quan, Phong Sư quạt trước ba cái, quạt ngược ba cái, trong lúc bất chợt, đất bằng lại nổi một trận gió to.

    Gió thổi đất đá bay mù trời mờ cả mắt, Tạ Liên nâng tay áo chắn gió, chờ khi trận gió qua đi, hai cô gái và Bùi Túc, Khắc Ma đều biến mất, chỉ còn lại Tạ Liên, Tam Lang, Nam Phong, cùng với Bán Nguyệt ngủ mê man.

    Tạ Liên thả tay áo xuống, vẫn còn chút ngơ ngác, hỏi: “Tình huống gì thế này?”

    Tam Lang thong thả đi tới, nói: “Tình huống rất tốt.”

    Tạ Liên nhìn hắn, hỏi: “Rất tốt à?”

    Tam Lang nói: “Rất tốt. Phong Sư bảo huynh đừng lo là đang giúp huynh đấy.”

    Nam Phong cũng đi tới, nói: “Đúng vậy. Việc này huynh đã lo nhiều lắm rồi, tiếp theo chỉ còn tìm Đế Quân cáo trạng thôi. Chuyện cáo trạng huynh đừng xen vào nữa.”

    Tạ Liên đã hiểu, nói: “Bởi vì Bùi tướng quân sao?”

    Nam Phong nói: “Không sai. Lần này huynh xem như đắc tội Bùi tướng quân triệt để rồi.”

    Tạ Liên cười nói: “Dù sao cũng đã lường trước ít nhất sẽ đắc tội một vị, về phần rốt cuộc đắc tội vị nào, hình như cũng không quan trọng lắm.”

    Nam Phong nhíu mày: “Huynh đừng tưởng ta nói đùa, ngoại trừ Thần Võ điện, điện Võ Thần có thế lực lớn nhất chính là Minh Quang điện. Bùi tướng quân rất coi trọng Tiểu Bùi, xưa nay vẫn muốn Bùi Túc đá Quyền Nhất Chân xuống, chắc chắn sẽ kiếm chuyện với huynh.”

    Tạ Liên hỏi: “Quyền Nhất Chân chính là Võ Thần phía Tây mà ngươi nói sao?”

    Nam Phong đáp: “Chính là hắn. Quyền Nhất Chân cũng là người mới, thời gian phi thăng rất gần Bùi Túc, tuổi còn trẻ, tính tình hơi… nhưng cũng lợi hại lắm. Bùi tướng quân cố tình bảo Bùi Túc giành hết tín đồ của hắn ở phía Tây, Bùi Túc cũng rất tài giỏi, mấy năm gần đây làm việc suôn sẻ, nào ngờ huynh vạch ra vụ này, e rằng Bùi Túc sẽ rắc rối to, chẳng biết có bị giáng chức không. Ngộ nhỡ hắn bị giáng chức, huynh cũng sẽ gặp rắc rối cho mà xem.”

    Tạ Liên xoa xoa ấn đường, âm thầm quyết định, sau này ăn cơm uống nước đi đường phải cẩn thận hơn một chút. Tam Lang lại không đồng ý, nói: “Không cần phải lo. Gã Bùi Minh này rất kiêu ngạo, không giở trò đâm lén đâu.”

    Nam Phong nhìn hắn một cái, nói: “Đúng vậy. Bùi tướng quân sẽ không giở trò đâm lén với huynh, nhưng bản thân huynh vẫn nên cẩn thận một chút.”

    Tạ Liên nói: “Vậy Phong Sư thì sao? Phong Sư bảo ta đừng xen vào, tức là nàng chịu trách nhiệm đi cáo trạng? Nói thế khác nào đổi thành nàng đắc tội Bùi tướng quân? Thôi đừng, chúng ta gọi nàng trở lại thì hơn. Nam Phong, ngươi có biết khẩu lệnh thông linh của Phong Sư đại nhân là gì không?”

    Nam Phong lại nói: “Huynh không cần lo cho Phong Sư. Bùi tướng quân dám đụng vào huynh chứ không đụng vào nàng đâu. Tuy tuổi tác của nàng nhỏ hơn huynh, nhưng nàng hòa đồng tốt hơn huynh nhiều.”

    “……”

    Tạ Liên im lặng không phải vì bị tổn thương, mà là đang nghĩ thầm: “Chẳng lẽ trong Thượng thiên đình còn ai hòa đồng tệ hơn mình sao? Làm gì có.”

    Tam Lang lại cười nói: “Phong Sư có người chống lưng, tất nhiên sẽ hòa đồng tốt rồi.”

    Tạ Liên hỏi: “Đệ nói nữ đạo sĩ áo đen bên cạnh nàng hả?”

    Tam Lang nói: “Không phải. Nhưng người mặc áo đen hẳn là một vị trong ngũ sư “Phong Thuỷ Vũ Địa Lôi”. Không khuyến khích đắc tội.”

    *Phong = Gió, Thủy = Nước, Vũ = Mưa, Địa = Đất, Lôi = Sấm sét.

    Phong Sư có thể nổi gió lốc trên đất bằng, hiển nhiên pháp lực cao cường, còn nữ đạo sĩ áo đen rõ ràng hơn hẳn một bậc. Nhớ lại ánh mắt nàng ta nhìn Tam Lang, Tạ Liên cứ cảm thấy nàng ta có vẻ đã phát hiện được gì đó, y có cảm giác không ổn lắm, bèn nói: “Ta đồng ý với đệ.”

    Có điều còn một câu Tạ Liên cảm thấy mình không cần nói ra, chỉ nhủ thầm: “Có người chống lưng chưa chắc hòa đồng tốt nha.” Phải biết rằng, năm xưa người chống lưng cho Thái tử Tiên Lạc chính là đệ nhất Võ Thần của ba giới trong ngàn năm qua – Quân Ngô, nhưng y cũng có hòa đồng được đâu?

    Tạ Liên nhặt chiếc mũ rơi dưới đất lên, phủi phủi, thấy không bị dẹp mới thở phào nhẹ nhõm, đeo nó lên lại, quan sát Nam Phong một lát rồi nói: “Chắc không phải ngươi bị hai vị đại nhân kia đuổi đánh suốt một đường đâu nhỉ?”

    Nam Phong đen mặt nói: “Đúng thế. Đánh suốt một đường.”

    Tạ Liên vỗ vỗ vai Nam Phong, nói: “Cực thân ngươi rồi.” Dứt lời chợt nhớ còn một người cũng cực khổ lắm, bèn quay đầu hỏi: “Phù Dao đâu?”

    Nam Phong nói: “Không phải tên đó đang trông chừng những người trúng độc sao?”

    Ý nói, từ lúc bọn họ bị trận gió to cuốn lên thì không nhìn thấy Phù Dao nữa. Thật ra kể từ khi A Chiêu hiện thân, Tạ Liên không còn phát hiện được Phù Dao, nếu Phù Dao không chạy từ lúc đó thì là lúc trận gió to nổi lên.

    Phù Dao có đầy đủ khả năng tự bảo vệ mình, Tạ Liên cũng không quá lo lắng cho cậu ta, nhưng vừa nghe Nam Phong nhắc đến “trúng độc”, một câu đánh thức người trong mộng, hai người đồng loạt kêu lên: “Cỏ Thiện Nguyệt!”

    Tam Lang nói: “Đừng gấp, trời vừa sáng thôi.”

    Nhưng mà, chuyện cứu mạng người làm sao không gấp được. Cho dù còn lâu mới tới mười hai canh giờ, ai biết dọc đường có xảy ra chuyện gì không? Tạ Liên cũng không còn tâm sức quan tâm Phù Dao nữa, y cõng Bán Nguyệt dưới đất trên lưng, lao nhanh về phía hoàng cung.

    Đến hoàng cung, sau khi thả Bán Nguyệt xuống, Tạ Liên đi tới ngắt vài nắm cỏ Thiện Nguyệt lớn. Gương mặt chôn dưới đất kia vẫn còn nằm trên đất, chẳng có gì ngoài một đống xương trắng và một gương mặt máu thịt bét nhè. Nếu là trước đây, có lẽ Tạ Liên sẽ tiện tay đào cái hố chôn lão, nhưng thứ nhất đang vội cứu người, thứ hai, lão ta đã bị chôn dưới đất hơn năm mươi năm, chắc không bao giờ muốn quay lại nữa đâu. Tuy nhiên, hài cốt của thương nhân kia lại chẳng thấy đâu, Tạ Liên ngừng tay, đang cảm thấy kỳ lạ, chợt thấy Tam Lang nhặt một chiếc bình gốm nhỏ đi ra từ cung điện.

    Thấy thế, Tạ Liên nói: “Tam Lang giỏi lắm, cảm ơn đệ.”

    Những vật không phải người đều có thể nuôi trong bình gốm, hiện tại Bán Nguyệt đang suy yếu, gọi mãi cũng không tỉnh, Tạ Liên bèn thu nhỏ cô bé lại, cho vào bình gốm. Ngắt cỏ xong, cuối cùng mọi người vội vàng quay trở về. Lúc này, đã qua bốn canh giờ kể từ lúc bọn họ gặp phải rắn đuôi bò cạp.

    Đến nơi Phù Dao vẽ vòng tròn, các thương nhân vẫn còn ngoan ngoãn ngồi chờ bên trong, không dám ra ngoài đi lung tung. Ông lão kia uống thuốc mà Nam Phong đưa, tình trạng vết thương được khống chế khá tốt, cộng thêm dùng cỏ Thiện Nguyệt uống trong đắp ngoài, nghỉ ngơi một thời gian ngắn đã đi lại được. Chỉ là, Tạ Liên cảm thấy mình không cần nói cho ông lão biết phân bón của cỏ Thiện Nguyệt là cái gì. Qua một hồi, mọi người bình tĩnh lại, bắt đầu đua nhau sốt sắng hỏi sao nhóm Thiên Sinh còn chưa trở lại. Lúc nãy Tạ Liên vội vã ngắt thảo dược, không kịp để ý nhóm Thiên Sinh, đang nghĩ có nên dứt khoát quay lại tìm không, chợt nghe một giọng thiếu niên hô to ca ca thúc thúc bá bá, càng chạy càng gần. Tạ Liên vừa quay đầu lại, quả nhiên đúng là Thiên Sinh. Thiếu niên kia cầm một nắm cỏ Thiện Nguyệt lớn trong tay, theo sau là hai thương nhân, ai cũng thở hổn hển.

    Hỏi ra mới biết, thì ra phía trên hố tội nhân, Bán Nguyệt quét một đám binh sĩ xuống dưới rồi bắt nhóm người Thiên Sinh đi. Ban đầu nhóm người Thiên Sinh sợ chết khiếp, ngờ đâu Bán Nguyệt dẫn bọn họ xuống dưới chỉ đường rồi thả bọn họ đi. Bọn họ sống sót trở ra, hối hả ngắt cỏ Thiện Nguyệt, chôn thi thể của thương nhân kia rồi liều mạng chạy về, nhưng so ra vẫn chậm hơn nhóm Tạ Liên một chút.

    Nói tóm lại, sau khi hộ tống đội buôn này qua khỏi sa mạc, cuối cùng sự việc mới xem như đi đến hồi kết.

    Có điều ngay lúc sắp chia tay, Thiên Sinh lén lút chạy đến tìm Tạ Liên, mập mờ hỏi: “Ca ca, ta hỏi huynh một vấn đề nha.”

    Tạ Liên nói: “Ngươi hỏi đi.”

    Thiên Sinh nói: “Thật ra huynh là thần tiên phải không?”

    “……”

    Tạ Liên hơi ngạc nhiên.

    Bởi vì trước đây có dạo y thường lớn tiếng hô to với người khác, nói ta là thần tiên, ta là Thái tử điện hạ mà chẳng ai thèm tin. Lần này y còn chưa mở miệng, đối phương đã hỏi y có phải là thần tiên không, quả thật khiến y hơi bất ngờ.

    Thiên Sinh vội nói: “Ta thấy huynh sử dụng pháp thuật nha! Huynh yên tâm, ta sẽ không nói với người khác đâu.”

    Tạ Liên nhủ thầm: “Nói sao nhỉ, ngươi có nói cũng chẳng ai tin… ”

    Thiên Sinh nói: “Lần này may nhờ có huynh, nếu không ta đã bị đám binh sĩ ma quỷ đen thui kia đá xuống hố rồi. Khi nào về ta sẽ xây cái miếu cho huynh, chỉ thờ riêng mình huynh.”

    Thấy cậu ta vỗ vỗ ngực, làm dấu “to vậy nè to vậy nè”, Tạ Liên buồn cười, vui vẻ nói: “Vậy cảm ơn ngươi nhiều.”

    Dù rằng cậu nhóc hoàn toàn không rõ xây miếu là việc trọng đại cỡ nào, song nhận được lời hứa hẹn như thế, bất luận có thực hiện được hay không, Tạ Liên cũng rất hứng khởi, y phất tay một cái, đi về hướng khác.

    Nam Phong phát động thuật rút ngàn dặm đất, đưa bọn họ về Bồ Tề quán. Mở cửa, Tạ Liên lấy chiếu ra, trải dưới đất, sau đó nằm lên chiếu hệt như một cái xác, động tác liền mạch lưu loát. Tam Lang cũng ngồi xuống bên cạnh, chống cằm nhìn y. Tạ Liên thở dài, hỏi: “Chúng ta đi mấy ngày rồi?”

    Tam Lang nói: “Chắc tầm ba bốn ngày.”

    Tạ Liên lại thở dài: “Ba bốn ngày thôi mà sao mệt dữ vậy ta.”

    Kể từ sau phi thăng, y thường xuyên mệt như con chó, đây thật sự không phải là ảo giác.

    Thở dài xong, y ngẩng đầu hỏi: “À, Nam Phong, sao ngươi còn chưa về báo tin?”

    Nam Phong nói: “Báo tin gì?”

    Tạ Liên nói: “Ngươi không phải là thần quan của Nam Dương điện sao? Đi một phát ba bốn ngày, tướng quân nhà ngươi không tìm ngươi à?”

    Nam Phong nói: “Hiện giờ tướng quân nhà ta không có ở trong điện, không để ý ta đâu.”

    Tạ Liên bò dậy, nói: “Ừ, ngươi ở lại cũng tốt.”

    Nam Phong hỏi: “Huynh muốn làm gì?”

    Tạ Liên ôn hoà nói: “Ta nấu cơm cho ngươi ăn. Đãi ngươi một bữa.”

    Nghe vậy, Nam Phong lập tức biến sắc, sau đó giơ tay lên, khép hai ngón đặt bên huyệt thái dương như thể nhận được thông linh của ai, đoạn đứng dậy nói: “Trong điện có việc, ta đi trước.”

    Tạ Liên nâng tay, nói: “Ơ, Nam Phong, đừng đi mà, sao có việc đột ngột vậy? Lần này thật sự cực thân ngươi…”

    Nam Phong quát: “Có việc thật đó!” Thấy Nam Phong lao ra khỏi cửa, Tạ Liên lại ngồi xuống chiếu, nói với Tam Lang: “Xem ra cậu ta không đói bụng.”

    Tam Lang còn chưa trả lời, chỉ nghe “rầm” một tiếng, Nam Phong lại lao trở về, chặn ở cửa, nói: “Hai người các ngươi…”

    Tạ Liên và Tam Lang sóng vai ngồi trên chiếu, ngẩng đầu nhìn Nam Phong, hỏi: “Hai người chúng ta thế nào?”

    Nam Phong chỉ chỉ Tam Lang, rồi chỉ chỉ Tạ Liên, nghẹn hồi lâu mới nói: “Ta sẽ còn quay lại.”

    Tạ Liên nói: “Hoan nghênh, hoan nghênh.”

    Nam Phong nhìn lướt qua Tam Lang lần nữa rồi đóng cửa bỏ đi. Tạ Liên khoanh tay, bắt chước Tam Lang, nghiêng đầu nói: “Xem ra thật sự có việc.”

    Y lại đưa mắt nhìn thiếu niên bên cạnh, cười tủm tỉm hỏi: “Cậu ta không đói, vậy còn đệ?”

    Tam Lang cũng cười tủm tỉm: “Ta đói rồi.”

    Tạ Liên mỉm cười, đoạn đứng dậy, xoay người tiện tay dọn dẹp bàn thờ, nói: “Được rồi. Vậy, đệ muốn ăn chút gì không, Hoa Thành?”

    Phía sau im lặng giây lát, tiếp theo, một tiếng cười khẽ truyền đến.

    “So ra thì, ta vẫn thích xưng hô “Tam Lang” hơn.”

    Chương 30: Quỷ vương một mắt à, Thái tử cầu dung

    Tạ Liên vẫn không quay đầu lại, hỏi: “Huyết Vũ Thám Hoa?”

    Hoa Thành đáp: “Thái tử điện hạ.”

    Tạ Liên xoay người lại, mỉm cười nói: “Lần đầu tiên nghe đệ gọi ta như vậy đó.”

    Thiếu niên áo đỏ ngồi trên chiếu, chống một chân lên, hỏi: “Cảm giác thế nào?”

    Tạ Liên ngẫm nghĩ một lát, cuối cùng vẫn không hỏi hắn: “Sao sau này đệ không gọi ta là ca ca nữa?”, chỉ nói: “Cũng tạm, cũng tạm.”

    Y nói tiếp: “Hôm đó ở núi Dữ Quân, tân lang dắt ta đi là đệ phải không.”

    Ý cười bên khóe miệng Hoa Thành càng sâu hơn, bấy giờ Tạ Liên mới nhận ra hình như câu này mang nghĩa khác, y vội vàng sửa lời, sau đó nói một cách nghiêm trang: “Ý ta là, người đóng giả tân lang dắt ta đi ở núi Dữ Quân là đệ phải không?”

    Hoa Thành lại nói: “Ta không có đóng giả tân lang.”

    Nếu thật sự phải nói thế thì cũng đúng, lúc đó thiếu niên nọ không có nói mình là tân lang hay gì cả, chỉ dừng trước cửa kiệu hoa, sau đó chìa tay ra, là bản thân Tạ Liên đi theo hắn. Tạ Liên nói: “Được rồi. Vậy, tại sao lúc đó đệ lại xuất hiện?”

    Hoa Thành nói: “Câu hỏi này, đáp án chỉ có hai mà thôi: Một, ta cố tình nhằm về phía Thái tử điện hạ mà đến. Hai, đi ngang qua, rảnh quá. Huynh cảm thấy cái nào đáng tin hơn?”

    Tính thử số ngày đối phương hao phí bên cạnh mình, Tạ Liên nhủ thầm: “Cái nào đáng tin hơn thì không dám nói, nhưng đệ có vẻ rảnh thật đó.”

    Tạ Liên dùng tay trái nâng khuỷu tay phải, tay phải nâng cằm lên, ánh mắt đảo quanh người Hoa Thành, gật gù nói: “Đệ, không giống trong truyền thuyết lắm.”

    Hoa Thành đổi tư thế, vẫn dùng tay chống má, nhìn Tạ Liên chằm chằm, hỏi: “Ồ? Vậy làm sao huynh biết được ta là ta?”

    Trong đầu Tạ Liên toàn là hình ảnh tán dù dưới mưa máu, dây bạc vang leng keng, giáp cổ tay lạnh như băng, nghĩ thầm đệ có thật lòng muốn giấu đâu, nhưng lời đến bên miệng chẳng hiểu sao lại thay đổi. Y nghiêm túc nói: “Đệ mặc một thân áo đỏ, lại có vẻ biết tất tần tật, gì cũng làm được, chẳng sợ chi hết, thăm dò kiểu nào cũng không lộ sơ hở, tất nhiên đã đạt cảnh giới “Tuyệt” trở lên. Nếu nói như thế, ngoại trừ vị Huyết Vũ Thám Hoa mà chúng thần tiên nhắc đến là biến sắc, hình như không nghĩ ra được người nào khác nữa.”

    Hoa Thành cười nói: “Huynh nói nhiều vậy, ta có thể xem như huynh đang khen ta không?”

    Tạ Liên nghĩ thầm: “Lẽ nào đệ không nghe ra vốn dĩ là thế à?”

    Hoa Thành nói tiếp: “Nếu đã nói nhiều vậy, sao Thái tử điện hạ không hỏi ta tiếp cận huynh với mục đích gì?”

    Tạ Liên nói: “Nếu đệ không muốn nói, ta hỏi thì đệ có nói cho ta biết không?”

    Hoa Thành nói: “Vậy huynh có thể đuổi ta đi mà.”

    Tạ Liên nở nụ cười: “Đệ thần thông quảng đại như thế, cho dù bây giờ ta đuổi đệ đi, nếu đệ thật sự muốn làm gì đó, đệ lại chẳng đổi một tấm da khác trở lại à?”

    Hai người bèn nhìn nhau cười, đúng vào lúc này, một loạt tiếng lăn lông lốc bỗng phá vỡ sự im lặng ngắn ngủi trong Bồ Tề quán.

    Hai người nhìn theo hướng phát ra âm thanh, không có một ai, chỉ có một chiếc bình gốm nhỏ màu đen lăn dưới đất.

    Đó là chiếc bình gốm nhỏ nuôi Bán Nguyệt, lẽ ra nó được Tạ Liên tiện tay đặt bên chiếu, nhưng chẳng biết tự ngã xuống từ bao giờ, lăn vèo tới cửa, bị cánh cửa gỗ mà Hoa Thành làm chặn lại, thế là tông từng cái một vào cửa. Sợ nó cứ thế tông vỡ chính mình, Tạ Liên bèn đi tới mở cửa. Chiếc bình gốm nhỏ lập tức lăn một mạch lên bãi cỏ ngoài cửa.

    Tạ Liên đi theo sau nó, chiếc bình gốm nhỏ đó lăn đến một mảnh cỏ rồi dựng đứng lên. Rõ ràng chỉ là một chiếc bình, nhưng lại tạo cho người ta ảo giác nó đang nhìn ngắm sao trời. Hoa Thành cũng đi ra khỏi Bồ Tề quán, Tạ Liên nói với chiếc bình gốm: “Bán Nguyệt, muội đã tỉnh chưa?”

    May mà lúc bọn họ trở về từ sa mạc đã là đêm khuya, nếu không để người ta nhìn thấy Tạ Liên nửa đêm nửa hôm đứng ở ngoài hỏi một chiếc bình muội sao rồi, ắt hẳn sẽ lại hết hồn cho xem.

    Hồi lâu sau, trong chiếc bình nhỏ phát ra giọng nói ủ rũ của một thiếu nữ: “Hoa tướng quân.”

    Tạ Liên ngồi xuống bên cạnh nó, nói: “Bán Nguyệt, muội ra đây ngắm sao hả? Muội muốn ra ngắm không.”

    Hoa Thành đứng một bên, tựa vào một thân cây, nói: “Nàng vừa rời khỏi thành Bán Nguyệt, vẫn nên ở bên trong một thời gian thì tốt hơn.”

    Nghe ý kiến mà Hoa Thành đề xuất, Tạ Liên cảm thấy rất chí lý, dù gì trước đó Bán Nguyệt đã sống tại nước Bán Nguyệt hai trăm năm, đột nhiên đổi sang chỗ khác, sợ rằng khó mà thích ứng, y nói: “Vậy muội cứ ở trong đó thêm một thời gian đi, bồi dưỡng cho tốt vào. Đây là nơi ta tu hành, muội không cần lo những chuyện khác, nào là tướng quân, binh sĩ, không cần lo nữa.”

    Chiếc bình lắc lư mấy cái, không biết muốn biểu đạt điều gì. Dừng một lát, Tạ Liên cảm thấy mình vẫn nên nói cho nàng biết tình hình. Cân nhắc một hồi, y mở miệng: “Bán Nguyệt, thật ra không phải rắn của muội không nghe lời, là Tiểu Bùi tướng quân học lén cách muội điều khiển rắn. Những người đó không phải bị rắn của muội cắn.”
    Bán Nguyệt rầu rĩ nói: “Hoa tướng quân, lúc đó tuy muội không thể nhúc nhích, nhưng muội nghe được mà.”

    Nghe vậy, Tạ Liên sửng sốt. Nhờ thế mới biết thì ra lúc đó Bùi Túc chỉ phong bế khả năng hành động của Bán Nguyệt, chứ không phong bế tri giác của nàng. Tạ Liên nói: “Vậy tốt.”

    Suy nghĩ một hồi, y nói tiếp: “Sở dĩ Tiểu Bùi tướng quân làm như vậy, có lẽ vì không đành lòng nhìn binh sĩ Bán Nguyệt chịu khổ, muốn cho bọn họ sự giải thoát, tiếc rằng dùng sai cách rồi.”

    “……” Chiếc bình lung la lung lay, nói: “Hoa tướng quân, Bùi Túc ca ca sẽ ra sao?”

    Tạ Liên vuốt tay áo, nói: “Ta không biết nữa. Có điều làm sai thì phải chịu một ít trừng phạt.”

    Im lặng một lát, chiếc bình lại lắc lư mấy cái, lần này cuối cùng Tạ Liên đã nhìn hiểu, thì ra nó lắc lư như vậy là đang gật đầu.

    Bán Nguyệt nói: “Tuy Khắc Ma cứ luôn miệng mắng huynh ấy, nhưng thật ra Bùi Túc ca ca không có xấu vậy đâu.”

    Tạ Liên nói: “Vậy sao.”

    Bán Nguyệt nói: “Ừm.”

    Bán Nguyệt từ nhỏ tính tình lầm lì, chịu hết bài xích của trẻ em cùng lứa, chỉ chơi thân với vài thiếu niên Trung Nguyên, mà xét việc Bùi Túc chỉ có hai nghìn binh sĩ đã bị phái đi đánh quốc thành, hẳn là cũng ăn chút quả đắng trong quân đội, hai người này thoạt nhìn đều khó gần, cảm giác không lạnh lùng thì cũng ủ ê buồn tẻ, đại khái cũng có điểm tương tự. Tạ Liên cũng không biết nên nói gì, giây lát, nói: “Phải rồi, Bán Nguyệt, Hoa Tạ là tên giả, ta cũng không còn làm tướng quân từ lâu, muội không cần gọi ta là Hoa tướng quân nữa.”

    *Quốc thành chắc là thành của quốc gia.

    Bán Nguyệt nói: “Vậy muội nên gọi huynh thế nào?”

    Đây cũng là một vấn đề. Nếu Bán Nguyệt cũng trịnh trọng gọi y là Thái tử điện hạ, cứ thấy kỳ cục thế nào ấy. Vốn dĩ Tạ Liên cũng chẳng để ý chuyện xưng hô, chỉ là muốn mở đề tài mới thôi, bèn nói: “Hay là tùy muội đi, tiếp tục gọi Hoa tướng quân cũng được.” Chỉ là ở đây thật sự có một vị họ Hoa, gọi thế có lẽ sẽ hơi loạn. Nhưng nghĩ sang hướng khác, lại nghĩ tới việc: “Hoa Tạ” tất nhiên là tên giả, lấy chữ đầu của “Hoa Quan Võ Thần” làm họ, còn “Hoa Thành” làm sao không phải là tên giả cho được? Tên giả mà hai người chọn vừa khéo cùng một họ, cũng thú vị quá chứ.

    Lúc này, lại nghe Bán Nguyệt nói: “Xin lỗi, Hoa tướng quân.”

    Tạ Liên quay đầu, nói bằng giọng có phần sầu não: “Bán Nguyệt, sao muội cứ xin lỗi ta mãi vậy?” Chắc tướng mạo của y chưa đến mức khiến người ta nhìn một cái là thấy có lỗi chứ?

    Bán Nguyệt rúc trong bình, nói: “Muội, muốn cứu vớt chúng sinh.”

    Tạ Liên: “………”

    Bán Nguyệt nói: “Hoa tướng quân, lúc trước huynh nói như vậy mà.”

    Tạ Liên: “???”

    Y vội vàng nói: “Khoan đã. Khoan đã!”

    Nghe y kêu to, Bán Nguyệt ở trong bình có vẻ sửng sốt, hỏi: “Cái gì?”

    Tạ Liên nhìn Hoa Thành khoanh tay đứng dưới gốc cây gần đó, nói nhỏ: “Hồi đó ta nói thế thật à?”

    Câu này, rõ ràng là câu cửa miệng yêu thích nhất của y năm mười mấy tuổi, trong mấy trăm năm sau này, hẳn là chưa bao giờ nhắc đến ấy chứ, Tạ Liên cảm thấy hơi khó tin. Bán Nguyệt nói tiếp: “Tướng quân, huynh đã nói mà.”

    Tạ Liên vẫn còn muốn giãy dụa, nói: “Làm gì có…”

    Bán Nguyệt nghiêm túc nói: “Đã nói rồi. Có một lần, huynh hỏi mọi người, sau này lớn lên muốn làm gì, tất cả mọi người đều nói, cuối cùng huynh cũng nói một câu: Mơ ước ngày xưa của ta là muốn cứu vớt chúng sinh.”

    “……”

    Thì ra là thế. Tạ Liên đỡ trán, nói: “Cái này… Bán Nguyệt à, mấy lời thuận miệng đó, muội nhớ rõ như thế làm gì.”

    Bán Nguyệt ngơ ngác nói: “Là thuận miệng nói thôi sao? Nhưng mà Hoa tướng quân, muội cảm thấy huynh nói rất nghiêm túc mà.”

    Tạ Liên bất đắc dĩ, đành ngửa đầu nhìn trời, nói: “Ha ha… Vậy hả, chắc vậy quá. Ta còn nói gì nữa nhỉ, ta quên hết trơn rồi.”

    Bán Nguyệt nói: “Huynh còn nói, “Hãy làm chuyện mà mọi người cho là đúng!””

    Nghe xong, Tạ Liên nghĩ thầm: “… Câu này rõ là vớ vẩn mà… Sao mình thích nói mấy câu như vậy thế… Mình có phải là người như thế đâu… Mình là người như thế sao??”

    Bán Nguyệt nói: “Nhưng mà, muội không biết chuyện gì mới đúng cả.”

    Nghe vậy, Tạ Liên ngây ngẩn.

    Giọng nói rầu rĩ của Bán Nguyệt vang vọng trong bình: “Hình như muội đang làm một chuyện đúng, nhưng kết quả lại là muội mở cổng thành thả quân địch, tàn sát tộc nhân của mình. Quốc gia của muội không còn nữa. Nhưng nếu muội không mở cổng ngay, người Bán Nguyệt sẽ đổ vào Trung Nguyên hại nhiều người hơn. Hoa tướng quân đối xử với muội rất tốt, lúc muội ở Trung Nguyên, trên đường thường xuyên có người ném đồ cho muội ăn. Thế nhưng Khắc Ma đối xử với muội cũng rất tốt, các binh sĩ đều nghe lời muội, muội trở về là thật lòng muốn làm quốc sư cho tốt. Vậy mà, muội chẳng những mở cổng thành hại chết bọn họ, muội còn không cho bọn họ ăn thịt người. Bọn họ không ăn thịt người sẽ vô cùng đau đớn, mà muội lại không giải thoát họ khỏi cơn đau đó được.”

    Nàng nói năng không đầu không đuôi, nói loan xạ một đống, cuối cùng mù mờ hỏi: “Dường như bất luận muội làm gì đi chăng nữa, kết quả đều sẽ hỏng bét. Hoa tướng quân, muội biết mình làm không tốt, nhưng huynh có thể nói cho muội biết, rốt cuộc muội làm không tốt chỗ nào không? Rốt cuộc là bước nào xảy ra vấn đề?”

    Nghe nàng hỏi vậy, Tạ Liên im lặng xoa gáy một hồi, cuối cùng mới mở miệng: “Xin lỗi muội, Bán Nguyệt. Vấn đề mà muội hỏi, lúc trước ta đã không biết, bây giờ… hình như cũng không biết.”

    Bán Nguyệt buồn bã nói: “Hoa tướng quân, muội cảm thấy hơn hai trăm năm qua, quả thật muội không biết mình đang làm gì nữa.”

    Nghe nàng nói thế, Tạ Liên càng sầu hơn: “Vậy ta đây chẳng phải sống uổng phí hơn tám trăm năm sao?”

    Để lại một nữ quỷ Bán Nguyệt ở trong bình tự ngắm sao trời, bình ổn cảm xúc, Tạ Liên và Hoa Thành quay về Bồ Tề quán. Đóng cửa, Hoa Thành nói: “Bùi Túc căm ghét người Bán Nguyệt như thế, sao lại vì không đành lòng nhìn binh sĩ Bán Nguyệt chịu khổ mới làm ra loại chuyện này?”

    Tạ Liên thở dài, nói: “Dù sao cũng chỉ là suy đoán thôi. Về chuyện của Bán Nguyệt, tốt hơn nên cố gắng chọn nghe những lời đàng hoàng lọt tai một chút.”

    Ngẫm lại, y vẫn lắc đầu, nói: “Nếu thật sự muốn Bán Nguyệt nhanh chóng được giải thoát khỏi nước Bán Nguyệt, rõ ràng Bùi Túc có thể chọn cách diệt sạch cửa ải Bán Nguyệt, vậy mà lại nhất quyết chọn cách dẫn người sống vào cửa ải nuôi quỷ, thật sự quá to gan.”

    Hoa Thành lại nói: “Hắn không thể làm vậy. Dẫn người đi diệt, phải đi từ thiên đình.”

    Tạ Liên nói: “Đi từ thiên đình thì sao chứ?”

    Hoa Thành ung dung đáp: “Cực kỳ không ổn. Mỗi một nhóm thần quan đi từ thiên đình, đi đến đâu, muốn làm gì, tất cả đều được ghi lại rõ ràng. Trời cao phái người xuống, vậy nhất định sẽ diệt sạch toàn bộ cửa ải Bán Nguyệt, cô bé Bán Nguyệt của huynh cũng không ngoại lệ. Dĩ nhiên hắn sẽ chọn cách tự lấp liếm, những gì phải làm chẳng có gì ngoài rảnh rỗi dẫn vài người sống cho quỷ ăn.”

    Nói đến đây, Hoa Thành cười một tiếng, nói: “Thần quan phi thăng ấy à, trong mắt bọn họ, mạng người tất nhiên không bằng con kiến rồi.”

    Đối với câu này của Hoa Thành, Tạ Liên từ chối bình luận, chỉ nói: “Vậy thật ra hắn có thể âm thầm làm cái phân thân hạ phàm xử lý đám binh sĩ Bán Nguyệt này mà.”

    Hoa Thành nói: “Sức mạnh của phân thân sẽ bị suy giảm. Huynh cũng thấy phân thân A Chiêu mà Bùi Túc hóa thành rồi đấy, đâu có giải quyết được nhiều binh sĩ Bán Nguyệt như thế, chỉ có nước chịu chết thôi, cùng lắm chỉ giảm bớt một đợt oán khí.”

    Tạ Liên nhìn hắn, nhớ lúc đó Tam Lang nhảy xuống hố tội nhân rồi giết sạch binh sĩ Bán Nguyệt dưới đáy hố trong tích tắc, y xoay người nói: “Vậy phân thân của đệ cũng lợi hại quá chứ.”

    Hoa Thành lại nhướn mày với y, nói: “Dĩ nhiên. Có điều, ta đây là bản tôn.”

    Nghe vậy, Tạ Liên không nghĩ gì khác nữa, quay đầu kinh ngạc hỏi: “Hả? Đệ là bản tôn sao?”

    Hoa Thành nói: “Nếu giả bao đổi.”

    Muốn trách thì trách sau khi nói xong câu này, biểu cảm của Hoa Thành cứ như đang mời gọi người ta tự thân thể nghiệm vậy. Thế là, lúc Tạ Liên còn chưa phát giác mình đang làm gì, y đã giơ một ngón tay, chọt má Hoa Thành một cái.

    Chọt xong, bấy giờ Tạ Liên mới choàng tỉnh, trong lòng liên tục nhủ thầm tiêu rồi. Chẳng qua y chỉ tò mò rốt cuộc tấm da quỷ của Quỷ vương cấp Tuyệt có xúc cảm thế nào thôi, không ngờ tay nhanh hơn não, nâng tay chọt một cái, quả thật dở hơi hết biết.

    Đột nhiên bị người ta chọt má, dường như Hoa Thành cũng hơi giật mình, nhưng hắn xưa giờ luôn bình tĩnh như thường, sắc mặt nhanh chóng khôi phục, trái lại cũng không nói gì, chỉ là một bên lông mày nhướn cao hơn, như thể đang chờ lời giải thích của Tạ Liên, ý cười hiện rõ trong ánh mắt. Tất nhiên Tạ Liên không đưa ra được lời giải thích nào, y nhìn ngón tay kia của mình, lẳng lặng giấu nó đi, thuận miệng nói: “Được lắm, được lắm.”

    Cuối cùng Hoa Thành bật cười ha ha, khoanh tay, nghiêng đầu hỏi: “Huynh cảm thấy tấm da này của ta được lắm à?”

    Tạ Liên nói thật lòng: “Quá được ấy chứ. Nhưng mà…”

    Hoa Thành hỏi: “Nhưng mà cái gì?”

    Tạ Liên nhìn chằm chằm mặt Hoa Thành, quan sát tỉ mỉ một phen. Cuối cùng, y vẫn nói: “Nhưng mà, ta có thể nhìn hình dáng vốn có của đệ không?”

    Khi nãy hắn nói “tấm da này”, vậy chứng minh tuy rằng thân xác này là bản tôn, nhưng lớp ngoài không phải là tướng mạo vốn có. Dáng dấp thiếu niên này, không phải là dung mạo thật của hắn.

    Lần này Hoa Thành lại không trả lời ngay. Hắn thả cánh tay xuống, không biết có phải gặp ảo giác hay không, Tạ Liên cứ cảm thấy ánh mắt của hắn có phần ảm đạm, trong lòng không khỏi thấp thỏm.

    Thuộc truyện: Thiên quan tứ phúc