Home Đam Mỹ Tiên Sinh Đến Từ 1930 – Chương 1: Lộ Sinh

    Tiên Sinh Đến Từ 1930 – Chương 1: Lộ Sinh

    Thuộc truyện: Tiên Sinh Đến Từ 1930

    *Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

    Nhắc nhở lần cuối: Đây là truyện nuôi thẻ từ R lên SSR, ít bàn tay vàng, từ vô dụng tiến hóa thành đại thần là cả một quá trình, chống chỉ định những người thích đọc sảng văn. Thiết lập tính cách nhân vật không bao giờ có thể phù hợp khẩu vị của tất cả mọi người, nếu trong lúc đọc cảm thấy không ổn thì khuyến khích drop hòa bình và yên lặng, đừng buông lời không hay về công thụ ở wattpad của tôi (Ra ngoài phạm vi này thì mắng chửi gì cũng ok, đương nhiên?).

    Tác giả đã nói rồi, tôi cũng nhắc rồi, nếu đọc tới đây vẫn quyết định theo bộ truyện này thì chúc mọi người đọc vui vẻ, bình tĩnh vững vàng không khẩu nghiệp.

    Một lần nữa, phong cách chương 1 không giống những chương sau. ?

    – —————-‐—————–

    Edit: Dờ

    Nam Kinh năm dân quốc thứ 19, thu sang thật thong thả. Cuốn lịch đã lật tới tiết Lập Thu mà khí trời vẫn còn dư âm của mùa hạ, oi ả chói chang, giống như muốn thiêu cháy cả thành Nam Kinh trong chảo dầu sôi.

    Một chiếc xe hơi Dorian màu đen đang yên lặng đỗ trước cửa tòa nhà kiểu Tây trên đường Di Hòa. Đây là tư dinh tại Nam Kinh của chủ tịch thường ủy Quốc dân đảng – Trương Tĩnh Giang*. Chiếc xe này đã đỗ trước cửa dinh thự Trương Công** suốt một buổi chiều, người gác cửa nhận ra đây là xe của Kim gia – phú hào có tiếng của vùng này, bởi vậy cũng không dám đuổi đi.

    *Trương Tĩnh Giang (19/9/1877 – 3/9/1950), từng nhậm chức chủ tịch ủy viên thường vụ ủy ban chấp hành trung ương Quốc Dân Đảng.

    **Tôn xưng của Trương Tĩnh Giang.

    Lão Trần quản gia ngồi ở ghế lái, ông đang đợi Kim Thế An – thiếu gia đích tôn duy nhất của dòng tộc Kim gia. Hiện tại thiếu gia đang ở trong tư dinh của Trương Công, mật đàm chuyện quan trọng với các nguyên lão của Quốc dân đảng. Lão Trần dừng xe dưới bóng cây những ba giờ đồng hồ, cũng không dám hút thuốc, chỉ ngồi trong xe mà đợi. Hai mắt ông trông ngóng nhìn tòa dinh thự, vừa sợ cửa mở ra, lại sợ cửa không mở ra.

    Rốt cuộc cửa vẫn mở, một người đàn ông khoảng trên dưới ba mươi tuổi chậm rãi đi tới. Người đàn ông này rất cao lớn, tướng mạo lại có vẻ hiền hòa, tóc chải ngược ra phía sau vô cùng chỉnh tề, vầng trán sáng láng, tiếp đó là một đôi mắt phượng. Đúng là Kim Thế An.

    Lão Trần thấy hắn lên xe thì vội vàng đưa khăn tay ra, Thế An nhận lấy rồi chậm rãi đưa lên lau mồ hôi trên trán, giọng điệu ôn hòa nói với lão Trần, “Lái xe trước đã, vừa đi vừa nói.”

    Thời tiết oi nóng, Thế An trông có vẻ mệt mỏi, dựa cả người vào ghế xe rồi nhắm mắt lại.

    Mệnh của Kim thiếu gia vừa tốt lại vừa xấu. May mắn sinh ra trong nhà phú quý, có lão thái gia là Kim Trung Minh quen biết với Trương Tĩnh Giang, ở đất Bắc Bình vô cùng thuận lợi, lại theo chính phủ mới đến Nam Kinh, lập một công ty kinh doanh rồi mở cả xưởng dệt. Ở Thượng Hải, Trương thị, Khổng thị làm mưa làm gió, còn Kim Trung Minh ở lại Nam Kinh kiếm chút cơm thừa. Mười mấy năm trôi qua, chẳng có ai tranh giành với ông ở đất Nam Kinh, thế là Kim Trung Minh trở thành phú thương có danh tiếng ở Kim Lăng. Tuy số mệnh như con cá béo nằm trên thớt, nhưng chỉ cần lưỡi dao không quá sắc, con cá ấy vẫn sống được tốt.

    Mà bây giờ Trương Tĩnh Giang sắp rớt đài, hay nói đúng hơn là đã rớt đài rồi. Chi trưởng của Trương thị đã bị lột mũ, mà Kim Trung Minh ôm đùi Trương thị chặt như vậy, ai cũng biết rằng, Tưởng Công** muốn một đao chém sạch Kim gia. Còn lại chỉ cần hóng xem Kim lão thái gia tiếc tiền hay tiếc mạng thôi.

    **Tưởng Công: tôn xưng của Tưởng Giới Thạch.

    Đi chừng một dặm, lão Trần hỏi: “Thế nào?”

    “Còn có thể thế nào.” Thế An ngồi ghế sau mở mắt ra, lấy hộp xì gà trong túi ngực, ảm đạm cười: “Bây giờ Trương Tĩnh Giang ốc không mang nổi mình ốc, còn có tâm tư quan tâm người khác sao? Chính đảng là như thế, tan rồi ắt hợp, hợp rồi ắt tan. Tôi đã nói với lão gia tử từ lâu rồi, không thể treo cổ trên cùng một cành cây. Trương Tĩnh Giang rớt đài, Kim gia như cá nằm trên thớt, chỉ trông chờ Tưởng Công cho chúng ta một con đường sống.”

    Lão Trần không dám nói gì nữa, chỉ thầm thở dài trong lòng. Ai cũng nói Trương lão và Tưởng Công có giao tình sâu sắc, huynh đệ thân thiết, nhưng cuối cùng chữ lợi làm đầu, giao tình có sâu đậm hơn nữa thì cũng chẳng là gì. Huống chi một Kim gia thấp cổ bé họng, lại càng không bằng một hạt cát.

    Trương Tĩnh Giang đến Nam Kinh là chuyện không người nào biết, nhưng chuyện Trương Tĩnh Giang và Tưởng Giới Thạch đã trở mặt nhau thì ai ai cũng đều rõ. Lần này Kim Thế An đến tư dinh của Trương thị, cũng là ôm một chút hy vọng xa vời, thay Kim Trung Minh ra mặt. Trương Tĩnh Giang nói vô cùng khách khí, “Việc buôn bán luôn có lời có lỗ, nhưng Trung Minh lẽ ra không nên nhúng tay vào mối súng ống đạn dược ấy. Thành thật làm ăn thì có gì không tốt đâu.”

    Thế An chỉ cười xòa, ” Tôi cũng khuyên ông nội tôi như vậy đấy.”

    Trương Tĩnh Giang nói, “Khuyên thì khuyên, nhưng rốt cuộc cậu cũng chẳng khuyên nổi. Bây giờ cục diện đã thế này, cậu biết đấy, giờ tôi muốn nói một câu thôi cũng là chuyện khó.”

    Thế An cười nói: “Trương lão quá khiêm tốn rồi, về sau còn phải nương tựa ngài nhiều.”

    Hai người nhìn nhau cười. Thế An biết, lời Trương Tĩnh Giang nói ra rất chua xót, nhưng câu nào cũng là thật. Kim Trung Minh không nên nổi lòng tham như vậy, không coi chính phủ ra gì mà động đến súng đạn, lại còn tàng trữ vật tư, việc nào cũng là đang động vào vảy ngược.

    Thế An ngồi ở ghế sau chậm rãi gõ điếu xì gà, “Chú Trần, nếu như chú muốn chạy thì bây giờ vẫn còn kịp.”

    Lão Trần cười khổ, “Ra nông nỗi này, tôi có tuổi rồi còn chạy được đi đâu. Sinh là người Kim gia, chết là ma Kim gia.”

    Thế An cũng cười, “Đùa chú thôi. Cùng lắm thì lấy tiền bảo mệnh, Tưởng Công và Trương lão đấu đá như vậy vẫn còn cần thể diện, sẽ không đuổi cùng giết tận chúng ta đâu. Nếu thật sự không được nữa, vậy thì chúng ta về Cú Dung đi.”

    Lão Trần hơi nhẹ lòng, nhất thời không kịp suy nghĩ liền buột miệng nói: “Vậy Bạch tiểu gia thì sao?”

    Thế An không đáp.

    Lão Trần hận không thể tát miệng mình một cái, nhắc chuyện gì không nhắc lại nhắc chuyện đó. Ông đành hỏi lại thiếu gia, “Thiếu gia, về nhà sao? Hay là đi chỗ nào nữa?”

    Thế An không ngẩng đầu lên, “Đi lòng vòng xung quanh đi.”

    Lão Trần biết tính hắn, im lặng không nói gì mà bắt đầu khởi động xe, sau đó lái đi khắp đường lớn ngõ nhỏ quanh Nam Kinh.

    Xe chạy qua miếu Phu Tử*, hồ Mạc Sầu**, ánh mặt trời chiếu rọi khắp đường lớn ngõ nhỏ, như là muốn đi hết qua những nơi náo nhiệt nhất của Nam Kinh, vậy mới có thể giải mối sầu lòng. Mà thành phố này cũng thật xứng đáng để đi khắp hang cùng ngõ hẻm, cảnh đẹp danh bất hư truyền, đầu đường cuối ngõ đâu đâu cũng có phong cảnh giải sầu. Mặt trời chưa ngả về tây mà tiếng đàn hát đã dần cất lên vang vọng một vùng. Những nơi đi qua, đều thấy tiếng đàn réo rắt, hoa thắm liễu xanh, từng làn gió mang theo hương thơm thoảng bay vào trong cửa kính xe.

    *Miếu Phu Tử(夫子庙): nằm ở phía Nam thành phố Nam Kinh bên bờ sông Tần Hoài.

    **Hồ Mạc Sầu(莫愁湖): Hồ Mạc Sầu nằm ở khu Kiến Nghiệp phía Tây sông Tần Hoài, Nam Kinh.

    Nơi đây là cố đô rực rỡ ánh pháo hoa của sáu triều đại, thế đất tựa núi gần sông, đã sản sinh ra vô số nhưng cảnh đẹp gặp dịp góp vui. Loạn thế xuất giai nhân, nam ca nữ xướng, ai ai cũng có thể khoe ra dáng vẻ lả lơi, chỉ so xem ai đẹp đẽ hơn ai, ai tài giỏi hơn ai. Càng là khi đầu kiếm lưỡi đao chiến tranh loạn lạc, người ta lại càng thích xem những vở kịch nam hoan nữ ái, nghe Đào Hoa Phiến, nghe Mẫu Đơn Đình, diễn Hội Chân Ký, cũng diễn Tỳ Bà Ký. Hai bên bờ sông Tần Hoài lộ ra dáng vẻ âu sầu khuê các với những sắc phấn hương son.

    Đây là thời buổi rối ren, cũng là một mùa thu loạn lạc. Ai cũng biết đây là loạn thế, nhưng vẫn muốn xem những cảnh oanh ca yến hát bình yên giả tạo. Kẻ giàu có muốn xem, kẻ nghèo hèn cũng muốn thưởng thức. Giống như trong tiếng hát thê lương oán hận này, trong vạt tay áo lụa tung bay kia, trong tiếng đàn ca réo rắt ấy, dù chỉ là một phút giây ngắn ngủi cũng có thể khiến người ta quên đi loạn lạc, quên đi nỗi sầu khổ biệt ly. Chẳng cần biết anh có bao nhiêu đau khổ tột cùng, có bao nhiêu oán hận sống chết, chỉ cần mở miệng cất tiếng hát, người người đều trầm trồ khen ngợi, vỗ đùi tấm tắc, vậy là có thể tạm coi nhẹ mọi thứ ngoài kia.

    Xe chạy thêm một lúc, Thế An ngồi phía sau nói một câu, “Đến phố Dung Trang.”

    Lão Trần lại thầm thở dài, đi loanh quanh cả nửa ngày, cuối cùng vẫn là vì muốn đến Dung Trang thăm một chút.

    Xe dừng trên phố Dung Trang, hai bên con đường này đều kinh doanh mũ thêu, cả con phố đều im lặng, những tán cây xum xuê trong viện vươn cành ra bên ngoài đường phố. Lão Trần còn chưa gõ cửa, thím Liễu đã bưng chậu nước đi ra, thấy Lão Trần thì bà cả kinh.

    “Thiếu gia tới rồi.” Lão Trần nói.

    Thế An đã lách qua hai người bọn họ, chầm chậm bước vào.

    “Sao thiếu gia lại tới đây, cậu đổi quần áo trước đi đã, trời nóng.” Thím Liễu đi theo sau Thế An, rụt rè nói.

    Thế An nhìn lướt chính mình, “Cũng được.”

    Thím Liễu lại tiếp lời, “Để tôi đi chuẩn bị nước cho thiếu gia tắm.”

    Thế An nhíu mày, “Thôi, không cần phiền phức như vậy đâu. Quần áo cũng không cần thay nữa, tôi đến thăm Bạch tiểu gia một chút rồi đi ngay.” Nói xong thì bước vào trong.

    Thím Liễu không dám ngăn, lòng thầm sốt ruột, đưa mắt nhìn lão Trần. Người làm trong nhà nghe thấy tiếng thì đi ra, năm sáu người đi theo sau Kim Thế An. Thế An chỉ nói: “Sao lại đi ra đây hết thế này? Ai làm việc người nấy đi, tôi không ăn tối ở đây.”

    Mọi người đành dừng lại ở nhị môn, đưa mắt trông theo Thế An đi vào viện trong.

    Thế An cũng chẳng biết những khuôn mặt đang nhìn mình phía sau ấy, hắn thong thả đi vào trong viện, không lớn nhưng rất tinh xảo. Trước mặt là tường làm bằng đá Thái Hồ, sau lưng là khóm hoa đăng tiêu*. Lúc này đương lá xanh tươi tốt, cành nhỏ vươn ra, rất nhiều đóa hoa màu son nở rộ. Chái nhà phía sau đầy những dây thường xuân, bốn góc sát tường thì trồng ngô đồng, bóng đổ rợp đất, ánh mặt trời chiếu xuống cũng được lá cây che chở, tạo ra một khoảng trời mát mẻ.

    *Hoa đăng tiêu (Lăng tiêu hoa 凌霄花):

    Thế An đứng do dự trước cửa, nhìn vào bên trong thông qua khung cửa sổ. Sau lớp kính thủy tinh là một khuôn mặt gầy gò, tuy gầy nhưng vẫn nhìn ra dáng vẻ thanh thoát xinh đẹp: sống mũi duyên dáng, tóc mai lả lướt, đôi mắt như nước mùa thu, hai cánh môi mỏng bạc tình — Chỉ là, khuôn mặt này có thêm thần sắc bệnh tật, dưới đôi mắt mông lung kia là dáng vẻ ốm yếu xanh xao, hai má cũng hõm xuống, môi không còn màu máu mà trở nên đen sậm lại. Ai nhìn cũng phải giật mình, bởi vì không ai dám tin người đàn ông gầy gò trơ xương đầy vẻ bệnh tật ốm yếu này, mấy năm trước từng là danh ca nức tiếng khắp sông Tần Hoài – Bạch Lộ Sinh.

    Mỗi lần Thế An thấy Lộ Sinh như vậy thì đều thấy khó chịu một cách khó hiểu. Hắn nhìn Bạch Lộ Sinh, nhưng Bạch Lộ Sinh không nhìn hắn. Cậu cứ như pho tượng gỗ, luôn thờ ơ nhìn chăm chú bất định vào không khí.

    Thế An gõ nhẹ vào cửa kính, “Lộ Sinh, tôi đến thăm em.”

    Người kia chẳng để ý đến hắn, chỉ ngẩn ngơ nhìn ra cửa sổ.

    Thế An bất giác thấy chua xót, hắn đẩy cửa bước vào, thấy Lộ Sinh bị khóa vào bàn bởi một sợi xích sắt, hai tay bị dây thừng trói lại. Trên bàn là nước trà vương vãi cùng vài món điểm tâm.

    Người đứng đầu đám hạ nhân thầm thấy không ổn, đều vào trong tiểu viện nhưng không dám vào phòng, chỉ đứng cúi đầu trước cửa.

    “Thế này là sao?” Thế An quay lại, “Ai cho các người xích em ấy lại?”

    Đám hạ nhân thầm kêu khổ, mấy ngày trước Đại thiếu gia đã tới rồi, ai ngờ hôm nay lại tới nữa. Bất ngờ thế này, khó tránh khỏi thiếu gia sẽ tức giận.

    “Nhốt trong phòng còn chưa đủ? Còn phải trói lại? Tôi bảo các người chăm sóc Bạch tiểu gia cho tử tế, các người chăm sóc thế này đây?”

    Người đứng đầu là quản gia Châu, cười nịnh nọt nói: “Tiểu gia không tỉnh táo, nếu không trói như thế thì chẳng ai ngăn lại được.” Ông ta thấp giọng ghé vào tai Thế An, “Cậu cũng biết đấy, một khi Bạch tiểu gia phát điên lên thì toàn liều lĩnh đâm vào cột, tôi sợ cậu ấy đụng hỏng mặt…” Nói xong, ông ta cũng chẳng dám ngẩng đầu lên, “Dùng dây thừng mềm trói, cũng vì sợ khiến tay Bạch tiểu gia bị thương.”

    “Ồ, cho nên lúc tôi không ở đây thì đều chăm sóc Bạch gia như vậy, có phải không?” Thế An cười, thong dong nhìn đĩa bánh hoa quế trên bàn, “Chú Châu, vất vả cho chú quá nhỉ.”

    Quản gia Châu đổ mồ hôi lạnh.

    Lộ Sinh nghe bọn hắn nói chuyện xong thì ngẩng đầu lên lạnh lùng cười với Thế An, sau đó lại quay ra nhìn cửa sổ.

    Thế An không để ý đến chú Châu nữa, xoay người đi ra cởi trói cho Lộ Sinh, hóa ra lại còn buộc nút chết, Thế An càng giận hơn. Thấy tay Lộ Sinh có đầy vết bầm tím, hắn càng thấy áy náy, “Lấy kéo tới đây, cởi cả xích ra nữa.”

    Quản gia Châu còn muốn khuyên can, Thế An giương mắt trừng ông ta: “Tôi ở đây, có thể xảy ra chuyện gì chứ? Lấy kéo tới đây.”

    Một bà đầy tớ già cầm cây kéo bạc tới, lại cởi hết xích ra. Thế An nói: “Lui ra cả đi, tôi nói chuyện với Bạch gia một lát.”

    Hạ nhân không dám động đậy.

    Thế An thong thả lặp lại một lần, “Tôi nói chuyện với Bạch gia một lát.”

    Hạ nhân đành chầm chậm lui ra ngoài.

    Thế An thấy người đi hết rồi, liền cầm lấy tay Lộ Sinh, “Có đau không?”

    Lộ Sinh chẳng quay đầu lại, “Trói em cũng là ngài, bây giờ hỏi em có đau không cũng là ngài. Đều là chủ ý của ngài hết, ngài còn hỏi em làm gì?”

    “Nha phiến khó cai… Bọn họ cũng là sợ em làm tổn thương chính em.” Thế An thấy cậu không để ý, đành rót nước trà, “Uống chút nước đi.”

    Lộ Sinh không nhận, “Trong lòng ngài ghét em, cần gì phải nói nữa. Em là một người đàn ông, gặp gỡ ngài là đúng dịp thì góp vui. Vả lại em cũng chỉ là một con hát, đương nhiên không xứng với ngài, còn sợ gì mà không hút thêm một điếu thuốc?”

    Thế An hận cậu tự coi nhẹ bản thân như thế, lại không biết giải thích từ đâu, chỉ nắm tay cậu nói: “Lộ Sinh…”

    Lộ Sinh bỗng quay lại, bình tĩnh nhìn hắn. Nhìn cả nửa ngày, khuôn mặt chợt hiện lên ý cười thảng thốt: “Bây giờ không có ai, sao ngài không gọi em là Ngọc Thư Nhi? Khi ấy, ngài toàn gọi em là Ngọc Thư Nhi…”

    Thế An thẫn thờ. Nhớ tới năm ấy, lần đầu gặp Lộ Sinh ở Đắc Nguyệt Đài*, lúc đó cậu còn thuộc gánh hát Xuân Hoa, chỉ mới mười ba mười bốn tuổi đã có thể xướng lên một khúc “Tầm Mộng”, dưới khán đài đều cảm thấy kinh diễm, khen ngợi cậu hóa trang tuyệt mỹ, giọng nói trong vắt, tiếng hát lại càng hay, tương lai chắc chắn sẽ là một nhân vật có tiếng số một số hai trên sông Tần Hoài.

    *Đắc Nguyệt Đài (得月台):

    Thế An như kẻ mất hồn, bao trọn sân khấu kịch của gánh hát Xuân Hoa ba ngày liên tiếp, chỉ để một mình hắn ngồi nghe. Tới ngày thứ ba, vở kịch Trường Sinh Điện vừa hạ màn, Trương lão nương của gánh hát Xuân Hoa liền dẫn Lộ Sinh ra dập đầu chào hắn.

    Thế An hỏi: “Tên là gì vậy?”

    “Ngọc Thư Nhi, Bạch Ngọc Thư.” Trương lão nương tay áp lên mặt, nói: “Gánh Xuân Hoa chúng tôi nuôi một đám không có chí tiến thủ, chỉ nuôi ra được một con phượng hoàng. Từ nhỏ nó đã lắm bệnh nhiều tật, lấy một cái tên con gái đặt cho nó, thế là gọi từ đó đến giờ.”

    Thế An nghe xong liền cười, “Mười mấy tuổi rồi, còn sợ khó nuôi hay sao? Sửa tên đi.”

    Trương lão nương cười nói: “Kim Đại thiếu gia học rộng hiểu sâu, tài trí hơn người. Xin thiếu gia thưởng cho Ngọc Thư Nhi một cái tên.”

    Thế An nhìn Ngọc Thư, Ngọc Thư quỳ rạp dưới đất lén ngước mắt lên nhìn, lộ ra ánh mắt lung linh như nước ngập tràn ý cười. Khi ấy, Đắc Nguyệt Đài gió mát sương trong, ánh trăng rải khắp Tần Hoài, Thế An trầm ngâm nói: “Ngọc Thư… Ngọc Thư… Ngọc giai sinh bạch lộ* — Vậy cứ gọi là Bạch Lộ Sinh đi.”

    *Trích từ bài Ngọc giai oán của Lý Bạch.

    Ngọc giai sinh bạch lộ, Dạ cửu xâm la miệt, Dục hạ thuỷ tinh liêm, Linh lung vọng thu nguyệt.

    Tạm dịch: Sương trắng rơi thềm ngọc, Tất lụa thấm đêm thâu, Toan buông rèm trong xuống, Ngắm trăng thu lung linh.

    Không đợi Trương lão nương lên tiếng, Lộ Sinh đã dập đầu ba cái, đứng lên vui vẻ nói: “Lộ Sinh cảm tạ Thế An thiếu gia!”

    Thế An hơi kinh ngạc: “Cậu biết tên tôi?”

    Lộ Sinh thản nhiên cười với hắn: “Ân công đã ban tên, tri âm là ân khách, kiếp trước có duyên, đương nhiên sẽ biết.”

    Khuôn mặt cậu vẫn còn lớp trang điểm của vai diễn quý phi, trang sức châu ngọc lấp lánh trên đầu cũng chẳng thể làm lu mờ đôi mắt long lanh như có ánh sáng, làn gió đưa hương thổi qua Tần Hoài, ánh đèn lung linh hắt lên gò má Lộ Sinh khiến cậu thật giống như vị quý phi túy tửu kia, xinh đẹp rực rỡ.

    Bây giờ nghĩ lại, cái tên này thật sự không tốt, giống như là mang theo điềm gở — Bạch lộ xâm la miệt, ngọc giai sinh sầu oán*, thật giống như đã nguyền rủa cả đời Lộ Sinh. Nhưng dù có là điềm xấu, cái tên Bạch Lộ Sinh này cũng đã xuyên vân phá nguyệt mà nức tiếng khắp hai bên bờ sông Tần Hoài.

    *Bạch lộ xâm la miệt, ngọc giai sinh sầu oán: Sương trắng thấm tất lụa, thềm ngọc sinh oán sầu.

    Lộ Sinh của mười năm sau đó cũng như cái tên của cậu vậy, tỏa sáng chói lọi, nhung lụa gấm vóc, kim kiều ngọc quý, nhưng… oán hận chất chồng.

    Danh linh đều là được nâng đỡ mà nổi tiếng, Lộ Sinh có Thế An nâng đỡ, ai mà không ngưỡng mộ, tiếng tăm của cậu xếp số một số hai trên sông Tần Hoài. Hai năm đầu, bọn họ cũng giống như những danh linh và ân khách khác, càng hát càng nổi tiếng, người nghe cũng vô cùng thích thú. Trương lão nương cuối cùng cũng chẳng thể giữ nổi con phượng hoàng của bà. Lộ Sinh nổi tiếng rồi, Thế An cũng chuộc cậu ra khỏi gánh hát Xuân Hoa, xây một tiểu trạch cho cậu trên đường Dung Trang. Điều này cũng chẳng có gì lạ, từ Nam ra Bắc, cả Trung Hoa này không đếm hết được có bao nhiêu danh linh đang được nâng đỡ, đang được nuôi dưỡng như một con chim hoàng yến. Ai cũng không để tâm chuyện này, nhưng Lộ Sinh lại rất để tâm.

    “Thiếu gia đã chuộc em ra, em cũng chẳng có gì để mà báo đáp. Vậy cả đời này, cả cái mạng này, chính là của ngài.”

    Khi ấy, Lộ Sinh đã nói như vậy với Thế An ngay trong tiểu viện này, sau đó cười tươi nhìn hắn. Cuối xuân, hoa đăng tiêu vừa hé nụ, hàng trăm nụ hoa nho nhỏ thẫm màu son dần dần bung ra, giống như tình ý của con người.

    “Nói như thể gánh Xuân Hoa là chảo lửa vậy.”

    “Sao lại không phải là chảo lửa,” Lộ Sinh vén tay áo lên, “Đều do bà ấy đánh.”

    Thế An kinh hãi, đau lòng nâng tay cậu lên, “Sao lúc trước không nghe em nhắc tới?”

    Lộ Sinh mỉm cười ngẩng đầu, đối diện với ánh mắt của Thế An: “Bởi vì em biết thiếu gia sẽ chuộc em ra, chút khổ cực ấy thì có xá chi? Không hát thành danh, em cũng chẳng có mặt mũi đi cùng ngài.”

    Thế An không biết nên đáp thế nào, hắn chỉ cảm thấy Lộ Sinh quá coi nặng phần tình nghĩa này. Muốn hỏi hắn có thích Lộ Sinh hay không? Đương nhiên là hắn thích từ đáy lòng. Nhưng Lộ Sinh đối với hắn, rõ ràng không chỉ là chút tình cảm yêu thích ấy.

    Thế An thường hận chính mình năm ấy gặp Lộ Sinh, gặp rồi liền không buông xuống được, sau đó càng sinh ra thêm nhiều oán hận.

    Đúng vậy, là oán hận. Thế An luôn cảm thấy rằng nửa đời mình đều là đang biến khéo thành vụng. Hắn muốn Lộ Sinh sống vui vẻ, nhưng cậu luôn tức giận.

    Giận cái gì? Giận hắn không nói một lời mà đi Anh Quốc những nửa năm, giận hắn gióng trống khua chiêng đi xem mắt khắp thành Nam Kinh, giận hắn cấm cậu hút thuốc phiện.

    Thế An không biết mình làm gì đúng làm gì sai, nhưng hắn không thể nào quên được cái ngày từ Thượng Hải trở về, hắn thích thú rảo bước tiến vào cửa, cả căn phòng tràn ngập mùi hương quái dị, Lộ Sinh nằm trên giường nhỏ, giống như Trương lão nương đã chết kia, cậu hút thuốc phiện.

    Món quà mà Thế An mang về đã rớt xuống đất, hắn không biết oán hận hay là tức giận nữa, một câu cũng chẳng nói nên lời.

    Lộ Sinh còn cười với hắn: “Kim Đại thiếu gia, đã cưới vợ chưa? Sao hôm nay lại rảnh rỗi tới thăm tệ xá.”

    Thế An nghe vậy càng thêm nghẹn họng.

    Đều do hắn hại Lộ Sinh, khiến cho Lộ Sinh tự hủy hoại bản thân như vậy. Nhưng hắn không biết, rốt cuộc điều mà Lộ Sinh mong muốn là gì?

    Con người sao mà thật khó để thỏa mãn, Thế An muốn hoài niệm về quãng thời gian tốt đẹp của bọn hắn, nhưng quãng thời gian ấy đã bị che lấp bởi nước mắt, tan vỡ thành từng mảnh vụn. Bọn họ đã từng ở trong những mảnh vỡ ký ức ấy, đã từng kẻ xướng người họa, chụm đầu nói chuyện, ngắm đom đóm bay ngoài cửa sổ trong đêm thu, ngắm tuyết rơi khi đông đến, ngắm lá xuân hoa hạ, một quãng thời gian tươi đẹp.

    Dù có đẹp thế nào thì cũng là quá khứ, bây giờ thời thế thay đổi, e là chẳng bao nữa, hắn cũng không còn là Kim thiếu gia. Lộ Sinh cũng chẳng hát hí khúc, cả ngày nhốt mình trong tiểu trạch trên đường Dung Trang. Thế An thường đến thăm cậu, Lộ Sinh chẳng nói lời nào.

    Tựa như bây giờ.

    Hai người cứ ngồi như vậy, Lộ Sinh không lên tiếng, Thế An cũng không cất lời. Mặt trời dần lặn xuống, ráng chiều rực rỡ dần ảm đạm, một ánh tà dương cuối cùng biến mất sau khung cửa sổ, cả căn phòng chìm trong âm u.

    Thế An hé miệng, “Lộ Sinh, tôi đã mua vé thuyền cho em rồi, ba ngày nữa chúng ta đi Thượng Hải, sau đó sang Anh Quốc.”

    “Chúng ta?” Lộ Sinh quay mặt lại, “Ngài cũng đi?”

    Thế An rũ mắt, “…Tôi không đi. Đưa em tới Thượng Hải rồi tôi quay về.”

    Lộ Sinh im lặng nhìn hắn, cuối cùng cười phá lên, “Em khiến ngài vướng bận như vậy sao? Không đưa em đi, ngài không thể yên tâm?”

    Cậu cười, nhưng nước mắt đã rơi xuống.

    Thế An đã sớm đoán được Lộ Sinh sẽ nháo loạn, lòng hắn thật bất đắc dĩ, nhưng bây giờ chính Kim gia còn số phận bấp bênh, nếu không đưa Lộ Sinh đi, chẳng lẽ lại để cậu ở lại Nam Kinh mà chịu khổ?

    …Có lẽ bảo là chịu khổ thì hơi quá lời. Xuất phát từ lòng tự trọng của một người đàn ông, hắn không muốn Lộ Sinh thấy dáng vẻ sứt đầu mẻ trán của mình, không muốn Lộ Sinh thấy được hắn sức cùng lực kiệt vì chuyện quan trường lẫn thương trường.

    Hắn rõ tính tình của Lộ Sinh, không thể nói cho cậu chuyện của Kim gia. Nếu nói cho cậu, cho dù có bị chém đầu thì cậu cũng không chịu đi nữa.

    Thế An đành miễn cưỡng cười, “Em đừng nghĩ nhiều, tôi quen một bác sĩ ở Anh Quốc, anh ta rất hiểu về chuyện cai nghiện nha phiến…”

    “Ngài muốn kết hôn đúng không?” Lộ Sinh ngắt lời hắn, “Là vị Tần tiểu thư kia, hay là Chu tiểu thư?”

    “Đều không phải.”

    “Tóm lại là ngài muốn kết hôn, có phải hay không?”

    Thế An không đáp, bởi vì đáp không được, không đáp cũng không xong. Hai năm trước, khi Kim Trung Minh biết chuyện của Lộ Sinh thì đã nhen nhóm ý định sắp xếp việc kết hôn của hắn. Kim Trung Minh không giận dữ, cũng không cấm cản, thậm chí không thèm quan tâm. Dù là nam hay nữ hay là nuôi một con hát đi nữa thì cũng đâu có gì đáng ngạc nhiên? Chỉ cần kết hôn rồi có con là mọi chuyện đều ổn thỏa. Vì thế, Tần tiểu thư, Chu tiểu thư, đủ loại tiểu thư đều đã đi xem mắt. Kim gia tổ chức một buổi vũ hội, Kim Trung Minh chỉ nói một câu: “Nếu con không muốn khiến ta tức chết thì phải đi một chuyến, dù gì cũng không thể khiến người ta mất thể diện.”

    Thế An có thể từ chối sao?

    Hắn không thể không đi, chính vì đi rồi, hắn mới nhận ra đời này hắn không thể sống cùng phụ nữ.

    Không, phải nói là trừ Lộ Sinh ra, đời này hắn sẽ không sống cùng ai khác.

    Cũng không phải do những người đó không tốt, chỉ là bọn họ không phải Lộ Sinh.

    Chính bởi vậy, cho nên hắn mới hao tổn tâm tư tìm một con đường sống cho Lộ Sinh, tìm một con đường mà người khác không thể ngăn được. Thế An đã tính kỹ trong lòng, không thể ở lại Nam Kinh được nữa. Lưỡi đao đã treo trên đầu Kim gia, sớm muộn cũng phải chịu, nói không chừng hai năm nữa còn khổ cực nhiều hơn… Cho nên trước mắt phải đưa Lộ Sinh đi, hắn đã chuyển một ít tài sản riêng tới Thượng Hải và Hồng Kông, nếu xảy ra chuyện, đến lúc đó đưa lão gia tử đến Hồng Kông, hắn cũng sẽ tới Anh Quốc, trời rộng chim tung cánh bay, ai cũng chẳng ngăn được.

    Hắn nghĩ Lộ Sinh hiểu hắn, nhưng Lộ Sinh lại cố tình không hiểu.

    “Em cứ đi Anh Quốc chữa bệnh đã,” Thế An nói: “Chờ tôi xử lý xong chuyện bên này rồi, tôi sẽ đi tìm em ngay lập tức.”

    “Chữa bệnh? Em có bệnh gì?” Lộ Sinh đứng dậy, ánh mắt trừng lên. Đôi mắt vốn rất lớn nay đặt trên một khuôn mặt gầy gò, lại càng thêm vẻ trống rỗng đáng sợ, “Đời này em chỉ mắc một căn bệnh chính là ngài, ngài đưa em đi rồi, sẽ còn đến tìm em sao?” Nói xong, cậu cười: “Kim Thế An, ngài nghĩ em là thằng ngốc? Nếu ngài ghét bỏ em thì chúng ta từ biệt từ đây là xong, việc gì phải tuyệt tình như vậy? Phải đưa em ra nơi đất khách quê người thì ngài mới yên lòng? Ngài sợ em phá hỏng chuyện hôn nhân của ngài? Hay là sợ em đuổi giết tới tận Kim gia một nháo hai khóc ba thắt cổ?”

    Thế An không nói nên lời, Lộ Sinh trừng mắt nhìn hắn, hắn không dám nhìn Lộ Sinh, hai người cứ như vậy một lúc lâu, Lộ Sinh bỗng quỳ xuống bên người hắn.

    “Thiếu gia, em cầu xin ngài, “Lộ Sinh quỳ rạp xuống đầu gối hắn, ” Thế An thiếu gia, em van cầu ngài, ngài đừng đuổi em đi. Em ở lại Nam Kinh, không hát hí khúc nữa, cũng không hút thuốc phiện nữa, em mai danh ẩn tích sống hết đời, chỉ ở đây thôi không đi đâu cả, vậy có được không?”

    Thế An chua xót, vươn tay vuốt tóc Lộ Sinh: “Em ở đây tứ cố vô thân, cứ khăng khăng muốn ở lại làm gì?”

    Lộ Sinh ai oán nhìn hắn, “Tứ cố vô thân?” Cậu lặp lại chữ “tứ cố vô thân” mấy lần, trào nước mắt mà nở nụ cười, “Đúng vậy, em và Kim Đại thiếu gia ngài không thân không thích, sao em lại ti tiện đến vậy, dù chúng ta đoạn tuyệt tình nghĩa thì ngài vẫn sống ở Nam Kinh, em cũng ở sống ở Nam Kinh, sau này em có thể đứng từ xa mà nhìn ngài, vậy là đủ rồi.” Cậu ngẩng mặt lên, nước mắt không giữ lại được nữa, “Vậy cũng không được sao? Cứ phải chân trời góc bể, cứ phải đưa em đến nơi toàn bọn giặc Tây ấy thì ngài mới yên tâm? Ngài ghét em đến vậy sao?”

    Thế An muốn đỡ cậu đứng lên, nhưng Lộ Sinh không nghe, cũng không cho hắn đỡ dậy, “Ngài không đồng ý, em sẽ cứ quỳ thế này, quỳ đến chết, có lẽ sẽ khiến ngài tỉnh ra.”

    Thế An cả giận: “Cớ gì cứ mở miệng là chết ngậm miệng cũng là chết vậy? Tôi biết em giận, nhưng em không được tự nguyền rủa chính mình như thế.”

    Lộ Sinh không lên tiếng, bàn tay đặt trên đùi Thế An run lên, Thế An đỡ lấy cậu, mới phát hiện ra cậu đang run rẩy toàn thân.

    Thế An thầm thở dài, cơn nghiện lại tái phát rồi. Lúc đỡ cậu ngồi hẳn lên, khóe miệng Lộ Sinh đã chảy bọt, toàn thân run bần bật.

    Cậu không muốn đi, Thế An vốn cũng đã do dự, nhưng nay nhìn thấy dáng vẻ này của Lộ Sinh, lòng hắn lại chìm xuống.

    Sao có thể không đi? Hắn thật sự quen một bác sĩ ở Anh Quốc, trước từng mở phòng khám ở Thượng Hải, cai nghiện nha phiến cho không ít quan lại quý tộc. Căn bệnh của Lộ Sinh, chắc chắn phải chữa.

    Thế An kéo Lộ Sinh ngồi lên ghế, “Không phải như em nghĩ đâu. Lộ Sinh, em nhất định phải đi, em không thể đem cơn nghiện thuốc này theo vào quan tài được.”

    Lộ Sinh đẩy mạnh hắn ra, “Vào quan tài?”

    Thế An bị cậu đẩy lảo đảo lui về phía sau.

    Lộ Sinh đứng dậy, nước mắt đầy mặt, miệng còn chảy nước miếng, vẻ gầy yếu trong căn phòng âm u này càng khiến người ta khiếp sợ, “Hôm nay em sẽ vào quan tài.”

    Thế An cuống cuồng đến đau thấu tim, đành nhìn ra bên ngoài. Lộ Sinh níu chặt lấy hắn, “Muốn gọi người, có đúng không? Ngài sợ em, bây giờ muốn gọi người tới trói em, có phải hay không?”

    Thế An ôm lấy hắn, “Lộ Sinh, em nằm xuống đi đã, được không?”

    Lộ Sinh được hắn ôm vào ngực, chợt điên cuồng cười phá lên, “Có phải hay không? Ngài gọi người tới trói em, sau đó đưa em đi Thượng Hải! Rồi đi Anh Quốc! Để em chết ở bên ngoài!” Cậu quay đầu lại, nhìn vào mắt Thế An, “Cần gì phiền phức như vậy? Hôm nay em sẽ chết luôn ở đây, đỡ cho ngài phải phí tâm phí sức!” Nói xong cậu đẩy Thế An ra, vươn tay chộp lấy cây kéo trên bàn.

    Thế An không ngờ sức lực cậu lại lớn như vậy, thấy cậu cầm kéo trong tay, đành phải hô lớn: “Chú Châu! Thím Liễu! Người đâu!” Sau đó cuống cuồng muốn đoạt lại cây kéo, “Lộ Sinh, đừng làm chuyện ngu ngốc!”

    Lộ Sinh cười, vừa cười vừa nâng cây kéo lên, “Chuyện ngu ngốc? Kim thiếu gia, ngài nghĩ đẹp quá rồi. Nếu chết, chúng ta sẽ chết cùng một chỗ. Xuống âm tào địa phủ rồi, em đền mạng cho ngài là được!”

    Thế An sợ Lộ Sinh tự làm hại mình nên che ngực cậu, đè tay Lộ Sinh xuống. Ai ngờ, Lộ Sinh lại bất ngờ đâm cây kéo vào ngực Thế An.

    Mùa hè mặt ít, lưỡi kéo bạc sắc bén phá rách vải áo và làn da, Thế An chỉ kịp nghe thấy tiếng lưỡi kéo sắc bén đâm vào da thịt, trong lúc mơ màng, hắn tự hỏi, Lộ Sinh có bị thương hay không?

    Lộ Sinh như thể trúng tà, càng đâm cây kéo vào sâu hơn.

    Lần này đã đâm vào đến tận tim, Thế An cúi đầu, lúc này mới biết, hóa ra lưỡi kéo đã đâm vào người mình.

    Trong khoảnh khắc, hắn chợt thở phào nhẹ nhõm, lại thấy căn phòng âm u này thật đáng sợ.

    Vô số tiếng ve sầu kêu vang trong buổi đêm, ngoài cửa là tiếng bước chân hỗn loạn, tiếng hò hét vang lên từng hồi, hòa cùng với tiếng khóc và tiếng cười khàn đặc của Lộ Sinh, Thế An cảm nhận được dòng máu nóng chảy xuống, thân thể lạnh ngắt.

    Hắn muốn nhìn mặt Lộ Sinh, nhưng lại chẳng thể nhìn rõ. Mặt Lộ Sinh toàn là máu, càng nhìn càng thấy mơ hồ, giống như có vô số người đang vây quanh. Thế An đã không thể nhìn rõ nữa, nhưng vẫn cố gắng bắt lấy tay Lộ Sinh.

    “Cứu lấy Bạch gia…. Là tự tôi…”

    Là tự hắn muốn chết, Thế An nghĩ.

    Lộ Sinh hận hắn như thế, vậy thì cần gì phải gặp lại nhau ở âm tào địa phủ, một mình hắn chết là đủ rồi.

    – ——————————

    Như đã nói trong lúc ăn vạ xin per, tôi tình cờ nghe được kịch truyền thanh của bộ này trên M trạm xong thì cuồng, thế là lập tức đọc thêm nguyên tác của Bạch Vân Thi. Tôi u mê quên lối về, khóc lóc xin tác giả cho edit, xin đạo diễn tổ kịch cho dịch kịch truyền thanh.

    Bộ này chính thức trở thành bạch nguyệt quang trong lòng tôi. Hỏi vì sao tôi lại thích trong khi bộ truyện này rất máu chó? Vì hành văn tác giả rất đẹp (thật, Bạch Vân Thi là giáo viên Ngữ Văn =))) Nếu thấy không đẹp thì không còn nghi ngờ gì nữa, là do editor dốt văn thôi). Vì đọc xong tôi không thấy nuối tiếc đã khóc đã cười cho nhân vật.

    Vì 1930 đã làm tôi phải lòng thành phố mang tên Nam Kinh. uwu

    Thuộc truyện: Tiên Sinh Đến Từ 1930