2013 – Chương 73-75

    Thuộc truyện: 2013

    Chương 73: Pn2(1)

    PHIÊN NGOẠI 2(P1)

    Ngoại truyện 2: Sông băng – P1

    Ngày 9 tháng 2 năm 2014,

    Đây là thời điểm lạnh nhất trong năm, mùa Đông năm nay đến rất trễ, mãi đến tháng Mười hai nhiệt độ mới bắt đầu giảm xuống. Chúng tôi băng qua lưu vực sông Trường Giang, muốn đi vòng bồn địa Ba Thục(còn gọi là Tứ Xuyên) để vào Đạo Thành Á Đinh(Thành phố lúa Á Đinh), thuận đường ghé Tây Tạng thăm thú một chút.

    Người ta nói mùa Xuân ở Đạo Thành Á Đinh là mùa Xuân đẹp nhất trên thế giới, hoa dại ngập tràn khắp miền thảo nguyên, mà cách đó ngàn dặm là ba ngọn núi thần trắng tuyết sừng sững chọc thủng bầu trời.

    Từ khi còn rất nhỏ Quyết Minh đã muốn đến đây một lần, thế là chúng tôi đi qua Khang Định(một huyện thuộc Tứ Xuyên) rồi tiến vào Đạo Thành.

    Giữa cuộc hành trình, đột nhiên một luồng gió lốc cuốn theo dòng nước lạnh xuôi Nam, khiến hồ nước đóng băng chỉ trong một đêm, cả Mông Phong và Quyết Minh đều bị say độ cao nặng nhẹ khác nhau. Đường xá trơn trượt khó đi, sau khi gió tuyết vơi bớt, xe của chúng tôi lại bị hỏng.

    Thiệt là trời đày mà…

    Bi thép trong bộ ly hợp chẳng biết đã rớt ra từ đời nào, trên đường cứ đi rồi lại dừng, thế mà không mảy may phát hiện. Chắc là mấy hôm trước khi đi trên dốc núi bị đụng một cái, bộ ly hợp văng khỏi xe rớt xuống vách núi mất rồi.

    Vì đường núi ở đây quá nguy hiểm nên không thể lái xe tiếp, cần phải tìm linh kiện mới thay vào.

    Đã gần đến Đạo Thành rồi, nhưng Quyết Minh và Mông Phong đều bị say độ cao. Chẳng hiểu sao Quyết Minh tự dưng lại mắc chứng này, có lẽ do cơ thể quá yếu.

    Càng phiền phức hơn là, Mông Phong vẫn chưa hết cảm nặng nữa, bộ dạng cứ dở sống dở chết, bởi vậy mới thấy, người nào càng khỏe mạnh thì càng không đáng tin, rõ rành rành chỉ được cái to xác mà yếu nhớt…

    “Lưu Nghiễn!” – Mông Phong hết sức chịu đựng, giận dữ hét toáng lên – “Đừng có bôi nhọ anh mãi thế được không!”

    Lưu Nghiễn đóng quyển nhật ký cái bộp: “Bộ em nói sai à?”

    Mông Phong: “Nếu không phải ngồi xổm trong gió núi suốt hai tiếng đồng hồ để tháo bộ ly hợp giúp em, thì anh sẽ bị cảm chắc?”

    Lưu Nghiễn: “…”

    Mông Phong: “…”

    Mông Phong hắt hơi một phát long trời lở đất, văng cả nước bọt vào mặt Lưu Nghiễn, cậu bình tĩnh xoay người tìm khăn lông, còn Mông Phong cuống qua cuống quýt đi rút khăn giấy.

    Trương Dân hỏi: “Các cậu có nhớ chuyện trước khi tới đây không? Người ở Quân khu Thành Đô từng nói, một tháng trước có người nhận được nhiệm vụ sau chiến tranh, quân đội cũng cử người tình nguyện đến Khang Định, hiện giờ chắc họ đã có mặt ở Đạo Thành rồi, chúng ta có thể tới tìm giúp đỡ.”

    Lưu Nghiễn đáp: “Thế thì đi thôi, vào trong đó xem thử.”

    Xe không thể lái được, lại còn có hai người bệnh. Quyết Minh đang phát sốt, nhưng cho dù phát sốt cũng trông hết sức cám dỗ, sắc mặt ửng đỏ, rũ mình trên ghế phập phồng thở dốc.

    Mông Phong thì bệnh bèo nhèo một đống, hệt như một con gấu chó ủ dột, hắn bò vô trong phòng lấy áo khoác lính ra, chậm chạp mặc vào, đội nón lông cừu lên, mệt mỏi quấn khăn quàng cổ.

    “Đầu con cứ ong ong loạn cả lên…” – Quyết Minh rên rỉ – “Đợt này người ngoài hành tinh hung dữ quá.”

    “Không sao đâu, đây là chứng say độ cao thôi.” – Trương Dân cười bảo – “Chờ lát nữa ba tìm ít cây hồng hoa(1) và cây lá bỏng(2), con ăn vào là khỏe ngay mà.”

    (1)(2)Cây hồng hoa và cây lá bỏng theo thứ tự từ trái sang. Đều là vị thuốc.

    hong-hoa images281258_caybong

    Lưu Nghiễn nói: “Trung Úy Mông Phong, phiền anh nằm xuống ngay cho tôi, những lúc thế này đừng đi theo gây rối thêm nữa.” – Dứt lời tung ngay một cước, đạp hắn ngã phịch vào ghế sa lon.

    Mông Phong: “Ưm, đầu anh cũng thấy ong ong… Đau muốn chết à.”

    Lưu Nghiễn có thể đạp ngã được Mông Phong, đây quả là chuyện trước nay chưa từng có, cậu thầm vui vẻ trong bụng, Mông Phong vừa gượng đứng lên, cậu lại đá hắn một cái.

    Mông Phong: “…”

    Lưu Nghiễn phá lên cười váng, xoay người chạy biến.

    Lát sau bốn người cùng bàn bạc xong, Lưu Nghiễn và Trương Dân ra ngoài tìm người giúp đỡ, còn Quyết Minh và Mông Phong ở lại trên xe.

    “Nhờ nhóc đấy, Quyết Minh.” – Lưu Nghiễn nói – “Nhóc chỉ cần trông chừng Mông Phong, đừng để anh ấy chạy lung tung là được. Nếu cần thiết cũng có thể chơi cùng anh ấy một chốc. Mà đừng chơi mấy trò tốn sức như kiểu nhảy dù hay Siêu nhân điện quang Altman, rượt bắt trốn tìm gì đấy, ráng nghĩ ra mấy trò đơn giản chơi trên chiếc bàn đó thôi nhé.”

    Quyết Minh ủ rũ đáp: “Tôi biết rồi… Hai người về nhanh lên đó.”

    Sau khi Lưu Nghiễn và Trương Dân rời đi được hai tiếng.

    Mông Phong: “Bạn nhỏ này, để chú Mông ôm nhóc ra ngoài xem cá vàng nhóe.”

    Quyết Minh nằm sấp trên bàn vẽ vời, ngẩng đầu liếc Mông Phong một cái.

    Mông Phong: “Bạn nhỏ, chú Mông cho nhóc kẹo mút này.”

    Quyết Minh vẫn bơ mặt, không thèm ngẩng đầu mà tiếp tục vẽ.

    Mông Phong: “Nhóc thế này là không được đâu, bạn nhỏ.”

    Quyết Minh vỗ bản vẽ cái bốp, gắt lên: “Đủ rồi nhé!”

    Mông Phong chép miệng, hất cằm ngó Quyết Minh vẽ, coi bộ chả hứng thú gì cả.

    “Đi mà xem sách tranh ảnh của chú ấy.” – Quyết Minh tức giận nói.

    Mông Phong nói với giọng tiếc nuối đầy bất lực: “Bây giờ chú Mông hết thích gái đẹp bán bưởi rồi, bị Lưu Nghiễn ảnh hưởng đến mức đánh mất một niềm đam mê của lẽ sống.”

    Quyết Minh: “…”

    Quyết Minh: “Vậy chơi cờ tướng đi, ngoan.”

    Mông Phong ngẫm nghĩ một chốc, đoạn rút ra một hộp cờ tướng, sắp cờ đâu vào đấy: “Chú chơi quân đỏ, bạn nhỏ chơi quân đen.”

    Quyết Minh: “Ừm, chấp chú một quân Xe, Mã, Pháo.”

    Mông Phong: “Phải chấp chú hai quân Xe, một Mã, một Pháo mới được.”

    Quyết Minh khẽ gật đầu, một tay chơi cờ giải trí với Mông Phong, tay kia tiếp tục vẽ bản thiết kế cấu tạo máy móc của mình, thỉnh thoảng loạt xoạt lật tìm tài liệu.

    Mông Phong: “Nhóc tôn trọng đối thủ một chút được không hở? Bạn nhỏ, lơ là khinh địch coi chừng thua đậm à nha.”

    Quyết Minh: “Chiếu Tướng.”

    Mông Phong: “…”

    Quyết Minh: “Ăn Xe, lại chiếu Tướng .”

    Mông Phong: “!!!”

    Quyết Minh: “Chiếu Tướng phát nữa.”

    Mông Phong thấy một đống quân Tốt vây quanh Tướng của mình, cộng thêm thế cờ tiền Mã hậu Pháo(3) hoàn hảo kia, mắt trợn trừng.

    (3) Tiền Mã hậu Pháo: Đây là một thế cờ mà người chơi dùng Mã và Pháo để chiếu Tướng, khiến đối thủ lâm vào thế bí.

    “Chú cũng chiếu Tướng!” – Mông Phong tức khí quát – “Chớ coi thường người khác nhá!”

    Mông Phong thua tan tác tơi tả, càng chơi càng chán nản, sau cùng Quyết Minh nói: “Chơi ván nữa đi, là lỗi của tôi.”

    Mông Phong: “Cái gì mà lỗi của nhóc?”

    Quyết Minh vẻ mặt bình tĩnh sắp bàn cờ xong xuôi, ván này Mông Phong thắng, đuổi giết Quyết Minh đến cùng đường tuyệt lộ.

    Bởi vậy Mông Phong cảm thấy rất là ức chế.

    Quyết Minh bảo: “Được rồi, đã chơi cờ rồi đấy, chú tự kiếm gì chơi một mình đi nha, ngoan, tôi phải vẽ tiếp đây.”

    Mông Phong ôm hộp cờ tướng đến góc tường ngồi xổm vẽ vòng tròn tự kỷ, đời người sao mà thảm thương u tối.

    “Nhóc biết không?” – Mông Phong nhìn Quyết Minh, định bụng nói gì đó để lấy lại mặt mũi, ngẫm nghĩ thật lâu, mãi sau ra tiếng – “Nếu mấy người không có chúng tôi, cuộc đời sẽ trở nên vô nghĩa thôi.”

    Quyết Minh cắm cúi vẽ: “Ờ, tôi vẫn luôn cảm thấy cuộc đời này rất vô nghĩa, bây giờ ngay cả người ngoài hành tinh cũng không trò chuyện với tôi nữa.”

    Mông Phong: “Mấy người đều là thiên tài, ờ phải, lúc nào cũng ra vẻ ta đây, cơ mà, bạn nhỏ à! Một khi đến trên giường…”

    Quyết Minh: “…”

    Mông Phong: “Thì mấy người hết đường kiêu ngạo há, biến thành ‘Hu hu… ba ơi, tha cho con đi mà, con chết mất hu hu hu… Ba chậm một chút ah ah ah… hức hức… Ba, ah~ như vậy thích quá… Xin ba tiến vào nhanh lên, tiến vào đi…’ À đúng rồi, Lưu Nghiễn cứ thắc mắc sao nhóc tự nhiên bị chứng say độ cao, ba nhóc thiệt không phải người nha! Đang ở độ cao 4000 m so với mực nước biển, vậy mà buổi tối còn muốn lăn lăn lộn lộn với nhóc, loại hoạt động này tiêu tốn sức lực quá mức, đích thị là nguyên nhân khiến nhóc rơi vào tình trạng thiếu oxy!”

    Quyết Minh mặt không đổi sắc, đặt bút xuống, hướng mắt nhìn Mông Phong.

    Mông Phong: “Còn Lưu Nghiễn ấy hả, lại là ‘Ah ah ah, em sai rồi… Đừng vậy mà, lớn quá… Không, chờ đã… Ừm thích lắm… Mông Phong, anh đừng rời bỏ em, yêu anh muốn chết…’.”

    Mông Phong tiếp tục bịa chuyện đặt điều: “Sau đó chú hỏi em ấy, đã biết ngoan ngoãn chưa, có nghe lời hay không? Bằng không chú Mông sẽ không di chuyển nữa, thế là Thạc sĩ Lưu Nghiễn buộc lòng phải cầu xin chú tiếp tục thôi.”

    “Máy móc không thể giải quyết mọi nhu cầu của mấy người, hiểu chửa? Chỉ có học cách lấy lòng ông xã mới là quan trọng nhất.”

    “Ờ.” – Quyết Minh nói – “Nhưng mà chú Mông à, tôi nghĩ không nhất thiết phải lấy lòng ông xã đâu, máy móc có thể giải quyết tất tần tật mọi vấn đề trên quả đất.”

    Mông Phong: “?”

    Quyết Minh: “Tỷ dụ như, chúng tôi chỉ cần một máy mô tơ tự động điều khiển tốc độ có đĩa quay, gắn thêm một cây gỗ sát đĩa quay, áp dụng việc biến đổi từ chuyển động xoay sang chuyển động tuyến tính, chúng tôi thiết kế ra một chiếc máy, khi hoạt động thì cây gỗ sẽ đâm từng nhát từng nhát. Có thể điều chỉnh được biên độ với tần suất dao động nữa à nha.”

    Vẻ mặt của Mông Phong lúc này cực kỳ đặc sắc.

    Quyết minh tiếp: “Lưu Nghiễn gọi thứ này là ‘Máy nả pháo’, chúng tôi còn bọc silicone mô phỏng bộ phận của con người vào đầu cây gỗ, rồi chỉ việc nằm trên ghế bày tư thế thoải mái nhất, khởi động máy, và mặc sức hưởng thụ. Loại ‘máy pháo’ này chỉ cần có điện thì vẫn hoạt động với tần suất đều đều, hệt như một chiếc máy đóng cọc vĩnh viễn không biết mệt. Cũng không làm dở nửa chừng lại đòi người ta đổi tư thế, bản thân người sử dụng muốn đổi tư thế lúc nào là quyền của mình. Lại càng không phải bày ra rất nhiều tư thế kỳ quái đến trẹo cả chân để ‘máy pháo’ vừa ngắm vừa đóng cọc… Tóm lại trừ phi ngắt điện, bằng không nó vẫn cứ đâm cứ đâm, đâm tới khi nào chú thỏa mãn mới ngưng.”

    Mông Phong: “Không đời nào, mấy người tính làm một cái máy như thế á?!”

    Quyết Minh lại nói: “Là do Lưu Nghiễn tình cờ nhắc đến thôi, hiện tại tạm thời chưa có ý định này, mà biết đâu về sau sẽ có thì sao. Anh ấy còn nói, có thể cài thêm chức năng âm nhạc vào cái máy pháo đóng cọc, thí dụ như nhạc trữ tình hay nhạc rock chẳng hạn, sử dụng nhịp điệu âm nhạc điều chỉnh tốc độ nhanh chậm của dương v*t giả để tăng thêm tình thú. Ý tưởng này dựa theo phụ kiện Ohmibod tự rung theo điệu nhạc của Ipod(4), Lưu Nghiễn đúng là thiên tài sáng chế đó nha!”

    (4) Ohmibod: là cái này

    ohmibod-ipod

    Mông Phong lạnh giọng đáp: “Phải rồi, mấy người có thể bật bài tập thể dục theo nhạc Levan Polkka(5) hoặc là Quốc ca gì đó, thế thì mấy người mới hưởng thụ ‘máy pháo’ thích hơn nhở.”

    (5) Levan Polkka: một bài hát vui nhộn của ca sĩ ảo Hatsune Miku, chắc nhiều bạn biết cô nàng này lắm ^^

    Quyết Minh lại tiếp: “Ưu điểm của máy móc là, không có cái kiểu làm giữa chừng lại hỏi mấy lời thừa thãi như ‘Thoải mái không’ ‘Đủ mạnh chưa’… Cũng không nói ‘A a nhóc cưng biết ngoan chưa hả có yêu ba nhiều không’, hay là ‘Con cầu xin ba đi cầu xin đi, rồi ba sẽ dùng sức thêm một chút’… Máy móc chỉ cần kiểm tra bảo trì thường xuyên, thì chẳng giở chứng bao giờ…”

    Mông Phong: “Được rồi, thế là đủ lắm rồi!”

    Quyết Minh và Mông Phong im lặng đối diện nhau một lúc, đoạn Quyết Minh tiếp tục vùi đầu vào bản vẽ, Mông Phong chẳng những thua một vố đau mà còn bị sock nặng, hắn lầm bầm lầu bầu cái gì không rõ, leo lên ghế salon nằm ngủ.

    Sáu tiếng trôi qua, tuyến đường cao tốc Tứ Xuyên – Tây Tạng đã phủ lấp dưới lớp băng dày, trời đất mênh mông vô bờ, gió đã nhỏ dần. Xa xa trên những bãi đất đen loang lổ, lác đác có mấy con bò Tây Tạng(loại bò có lông dài) dẫn theo bê con gặm cỏ. Lưu Nghiễn nhìn lướt qua máy định vị mini, nói: “Chỉ còn hơn hai chục cây số nữa.”

    Trương Dân chỉa chỉa vào ngực mình, bảo: “Từ từ thôi, đi với tốc độ đều sẽ tránh bị say độ cao.”

    Trương Dân đeo súng, khoác áo bành tô, vóc người cao lớn đứng vững trước gió tuyết trông vô cùng khỏe khoắn. Trong khi Lưu Nghiễn lại co ro núp trong chiếc áo khoác lính của Mông Phong, cậu chỉ thấy gió lạnh không ngừng lùa qua cổ áo lọt vào trong.

    Khăn quàng cổ màu trắng phất phơ trong gió, ngọn núi phía xa treo những dải cờ phướn(6) ngợp trời, Lưu Nghiễn nói: “Nơi này vẫn còn người ở.”

    (6) Cờ phướn: Là loại cờ 5 màu trắng, đỏ, lục, vàng, lam – sắc màu Phật giáo ở Tây Tạng.

    2708352225926832332

    Trương Dân cười: “Người Tạng rất hiếm khi rời bỏ quê hương của mình, trận đại dịch zombie này có lẽ chẳng ảnh hưởng mấy đến Tây Tạng.”

    Hai người chậm rãi đi men theo ven đường, bỗng Trương Dân khẽ thốt một tiếng, bước về phía mấy chú bò Tây Tạng nhỏ.

    Bò Tây Tạng không sợ người lạ, dạn dĩ ngước nhìn Trương Dân, đôi mắt chúng rất đẹp.

    Trương Dân mỉm cười vỗ nhẹ lên đầu nó, Lưu Nghiễn đứng bên cạnh nâng máy chụp ảnh, rồi lại tò mò buông máy ảnh xuống, xem Trương Dân khom người phủi lớp tuyết đọng trên chỗ con bò đang kiếm thức ăn.

    “Có rồi!” – Trương Dân nhổ lên mấy bụi thảo dược nho nhỏ – “May quá.”

    Lưu Nghiễn hỏi: “Là cây này đó hả?”

    Trương Dân nói: “Vẫn còn thiếu hồng hoa nữa, mình qua bên kia xem thử đi.”

    Anh dùng tay không bò lên vách núi chót vót, Lưu Nghiễn thấp thỏm đứng dưới trông theo, sốt ruột nhắc nhở: “Anh cẩn thận chút!”

    Trương Dân đáp: “Không việc gì!”

    Trương Dân đeo găng tay dày, leo lên cao gần chục mét, mò mẫm trong khe đá mãi mới tìm thấy một bụi thảo dược, anh thở phào một hơi, cười bảo: “Được rồi.”

    Ngàn dặm cao nguyên tuyết trắng tĩnh lặng như tờ, Trương Dân ngồi xuống một tảng đá, tháo găng tay, thở ra một hơi khí trắng, anh nhìn Lưu Nghiễn cười một cái, thuận tay xoa xoa đầu cậu.

    Lưu Nghiễn nhảy dựng: “Tôi không phải con trai anh đâu nhá! Bớt làm trò mèo đi!”

    Trương Dân cười cười, lấy nhiên liệu rắn và bếp lò ra, bắt tay nhóm lửa, sắc thuốc.

    “Chờ lát nữa cậu cũng uống thuốc này đi, có thể giãn mạch máu tạm thời, phòng được bệnh say độ cao đó.” – Trương Dân giải thích – “Chừng nửa tiếng sau sẽ có tác dụng.”

    Lưu Nghiễn gật đầu, lại hỏi: “Anh không thấy lạnh hả?”

    Trương Dân xua tay, đáp: “Hồi trước tôi từng đi lính ở Tây Tạng, chịu khổ quen rồi.”

    Lưu Nghiễn khẽ nhướn chân mày, giờ mới vỡ lẽ, màu da ngăm của Trương Dân là do sống ở cao nguyên lâu, bị tia cực tím và nắng gắt hun đen.

    Trương Dân đề nghị: “Hay là cậu đem thuốc về cho hai người họ, còn tôi đi tiếp.”

    Lưu Nghiễn mở bản đồ ra đối chiếu với máy định vị, nói rằng: “Không được, để một mình anh ở ngoài này quá nguy hiểm. Mà trời cũng sắp tối đến nơi rồi, đi nửa đường quay lại cũng không an toàn lắm.”

    Trương Dân cầm cái ly sắt, nhấp một ngụm thuốc, bảo: “Vậy thì ta đi thôi. Hôm nay cần phải đến được Đạo Thành.”

    Lưu Nghiễn tiếp: “Còn khoảng chục cây số nữa… Họ bảo với anh thế nào?”

    Trương Dân thoáng chần chừ, đáp: “Tổng bộ chỉ nói là, tình hình ở khu phía Đông Tây Tạng vẫn chưa rõ ràng, hơn một năm trước, lúc cả nước phát động di tản quy mô lớn, nơi này hầu như cách biệt với bên ngoài. Khi đội cứu viện đến đây lần đầu, từ Khang Định tiến vào Tây Tạng, phát hiện có rất ít người bị nhiễm bệnh, và dân cư địa phương cũng không muốn rời đi. Đội cứu hộ đành phải tạm bỏ qua.”

    Lưu Nghiễn phóng mắt nhìn ra xa: “Mà hình như bây giờ vẫn chưa có ai đến thu dọn lũ zombie hết.”

    Trương Dân gật đầu: “Trên tháp phát thanh không treo cờ đỏ năm sao, nhưng ở Cam Tư(khu tự trị ở Tứ Xuyên) lại treo cờ. Còn vùng lân cận Đạo Thành chưa biết thế nào. Cậu có mang theo ống chứa vi khuẩn và vắc xin không?”

    Lưu Nghiễn: “Tôi đem sáu mũi thôi, nhưng có một bể khử trùng và lồng nuôi cấy nhỏ, nếu dùng hết vắc xin có thể lấy máu của chúng ta chiết xuất lại.”

    Trên mỗi vùng đất nước đã được tẩy sạch và xác nhận an toàn đều treo quốc kỳ, song tình hình an ninh của khu vực này còn không rõ.

    Trương Dân lại nói: “Nhưng đã có tình nguyện viên nhận nhiệm vụ đến đây kiểm tra.”

    Lưu Nghiễn: “Chỉ sợ họ không kịp ứng phó tình huống bất ngờ.”

    Trương Dân giải thích: “Tình nguyện viên xuất thân từ quân đội đấy, nghe bảo là lính xuất ngũ.”

    Lưu Nghiễn liếm viền môi, gật đầu. Hai người vừa đi trên đồng tuyết được một lúc thì trời bắt đầu tối, khi đêm xuống rốt cuộc họ đã tới được Đạo Thành.

    Sự tĩnh lặng bao trùm khắp Đạo Thành, hệt như một tòa thành chết ẩn hiện giữa đêm đen, bên trong hoang vắng, không có lấy nửa bóng người.

    Trương Dân giơ một tay ra hiệu cho Lưu Nghiễn núp sau lưng anh, nói: “Cẩn thận chút, tôi vẫn thấy chỗ này có vấn đề.”

    Lưu Nghiễn: “Tình nguyện viên không có ở đây.”

    Lưu Nghiễn cúi đầu điều chỉnh tín hiệu điện tử của máy thăm dò, mở rộng phạm vi rà quét, chung quanh tối đen như mực.

    Gió đêm lạnh buốt len lỏi qua từng ngóc ngách thành phố, mọi công trình kiến trúc đều kết một lớp băng dày, gió rít gào như tiếng hàng vạn lệ quỷ oán than vọng lên từ dưới vực sâu, khiến người nghe không khỏi sởn tóc gáy.

    “Đây cũng không có ai.” – Trương Dân bước ra từ bệnh viện.

    Lưu Nghiễn đứng giữa đường, bảo: “Gần đây có tín hiệu phản hồi, ở phía Tây Bắc cách nơi này tầm mười hai cây…”

    “Coi chừng!!” – Trương Dân quát to.

    Lưu Nghiễn tức thì lộn người tại chỗ, Trương Dân nâng súng nổ “đoàng” một phát, con báo hoang chực vồ tới bị bắn tóe máu, bay ngược ra xa.

    Lưu Nghiễn hẵng còn rùng mình thở dốc, Trương Dân ngoắt bảo: “Lại đây.”

    Con báo kia chắc ra ngoài kiếm ăn mùa Đông, nó đói đến mức còn mỗi da bọc xương. Trương Dân đang cúi xuống kiểm tra, đột nhiên ngẩng phắt đầu lên, cả anh và Lưu Nghiễn đồng thời nghe được tiếng người huyên náo từ đâu vẳng lại.

    Có ánh đuốc lập lòe phía cuối ngã tư đường, một giọng đàn ông ồm ồm la hét. Tiếng bước chân dồn dập truyền đến, cộng thêm tiếng động cơ xe Jeep.

    Trong chớp mắt, từ khắp các ngõ hẻm xông ra hơn chục người, ai nấy đều lăm lăm súng ống, Lưu Nghiễn vội hô: “Trương Dân!”

    Trương Dân trấn an: “Bình tĩnh, cứ để tôi!”

    Người đến càng lúc càng đông hơn, chừng hơn trăm người cầm đuốc trong tay, lao nhao ầm ĩ. Lưu Nghiễn nhìn quanh một lượt, thấy mình và Trương Dân đã bị bao vây, thầm đoán có lẽ phát súng nổ vừa rồi đã kinh động những cư dân ẩn núp trong bóng tối.

    Xung quanh toàn là đàn ông, trong mặc áo da thú, ngoài khoác áo dài, quầy dày kết hợp với giày da cao cổ, từ vai đến thắt lưng cũng quấn xà rông vải bố màu đen, một góc xà rông phủ bên chân, đây đích thị là trang phục của dân tộc Tạng.

    Dẫn đầu là một gã đàn ông trẻ tuổi, gã hung tợn hét vài câu tiếng Tạng, chỉ nghe được hai âm tiết.

    Gã đàn ông trẻ tuổi: “Ni Mã! Ni Mã(7)!”

    Lưu Nghiễn: “…”

    (7)Ni mã(尼玛):Từ này trong tiếng Tạng mang ý nghĩa thần thánh, tôn xưng của vầng Thái dương, ánh Mặt trời, hoặc dùng để đặt tên người.

    Còn ở tiếng Trung, ‘ni mã’ trong 阿尼马 (a ni mã) là chữ phiên âm của “animal” tiếng Anh, có nghĩa là súc vật. Thường dùng từ ‘ni mã’ để chửi, dịch là súc sinh, cầm thú =)))

    Mọi người hung hăng thét: “Ni Mã a! Ni Mã!”

    Mấy người vây quanh đang định hè nhau xông tới, Lưu Nghiễn vội lùi nửa bước, vói tay vào túi áo khoác nắm quả lựu đạn, khóe miệng khẽ giần giật.

    Trương Dân trầm ngâm một lát, đoạn cất cao giọng, đáp lại họ câu gì đó.

    Lưu Nghiễn nhướn mày, Trương Dân giải thích với cậu: “Họ đang hỏi chúng ta là ai.”

    Lưu Nghiễn bèn bảo: “Vậy nói cho họ biết ta là người của quân đội.”

    Trương Dân nói: “Tôi đã trả lời là khách du lịch rồi.”

    Lưu Nghiễn gật đầu: “Cũng không sao.” – Cậu vừa nói vừa xoay người, lưng tựa lưng với Trương Dân, mắt thì dè chừng nhìn đám người chung quanh, trong đầu lại cấp tốc suy nghĩ, tìm tòi tất cả dấu vết manh mối, suy đoán chuyện gì đang diễn ra ở đây.

    Gã đàn ông trẻ tuổi kia lại nói một câu, giọng điệu lạnh băng, Trương Dân tiếp tục phiên dịch: “Kêu chúng ta đi theo họ.”

    Lưu Nghiễn lập tức thốt: “Chờ chút đã!”

    “Cô.” – Lưu Nghiễn không ngần ngại chỉ thẳng ngón tay về phía một người trong đám đông, chỉ trong chốc lát cậu đã tìm được cửa đột phá, hỏi – “Cô tên gì? Tôi là Lưu Nghiễn.”

    Dân Tây Tạng bốn phía đều kinh ngạc rúng động, khe khẽ trao đổi với nhau, người vừa bị Lưu Nghiễn chỉ tận mặt nhíu mày trông lại, Lưu Nghiễn tiếp: “Tôi biết cô hiểu tiếng Hoa, đến nói chuyện với tôi đi.”

    Đó là một cô gái, cô ta hỏi: “Sao anh biết? Tôi là Lạp Mỗ.”

    Lạp Mỗ nói với dân Tạng vài câu, đám người liền im lặng, Lưu Nghiễn đáp lời: “Tôi thấy trong số họ không có phụ nữ, ngoại trừ cô. Nếu dẫn theo phụ nữ ra ngoài, chỉ có một lý do duy nhất – cô có vai trò đặc biệt nào khác. Tôi đoán chắc là phiên dịch.”

    Lạp Mỗ: “Tôi là người dân tộc Nạp Tây, cùng chung sống với dân tộc Tạng, anh muốn nói gì?”

    Lưu Nghiễn: “Tôi không có ác ý đâu, ở đây đã xảy ra chuyện gì vậy?”

    Lạp Mỗ ra hiệu cho mọi người chớ nên hành động vội vàng, cô ta quan sát Lưu Nghiễn với vẻ ngờ vực. Lưu Nghiễn bèn lấy quả lựu đạn từ trong túi áo ra, tiến lên trước vài bước, nhẹ nhàng đặt xuống đất.

    Lạp Mỗ hói: “Hai người có gặp một đứa bé không? Khoảng năm tuổi, tên gọi Ni Mã, là con của Na Tang.” – Cô vừa nói vừa nhìn về phía gã thanh niên cầm đầu đám người Tạng đang bao vây họ, tỏ vẻ Na Tang chính là gã.

    Lưu Nghiễn: “…”

    Lưu Nghiễn hơi do dự, Trương Dân ép thấp giọng rằng: “Không được nói dối, hậu quả nghiêm trọng lắm đó.”

    Lưu Nghiễn liền đáp: “Tôi không gặp, thằng bé mất tích à?”

    Lạp Mỗ nói: “Bị mấy kẻ cùng phe các người bắt đi.”

    Lưu Nghiễn: “Nếu cô đã biết tiếng Hoa, thì sao không phân biệt rõ ai cùng phe với ai chứ?”

    Lạp Mỗ chau mày, Lưu Nghiễn tiếp: “Ở đây vẫn còn những người khác hả? Chúng tôi chẳng can hệ gì tới kẻ địch của mấy người hết, cô đang sỉ nhục tôi đấy, hãy xin lỗi đi.”

    Lạp Mỗ đưa tay làm động tác, nhẹ khom lưng, tiếp lời: “Tôi xin lỗi, nhưng hiện tại chúng tôi không thể hoàn toàn tin tưởng các anh, bởi lần trước cũng như thế, thành ra phát sinh… một chuyện rất nghiêm trọng. Anh phải chứng minh những lời mình nói là thật trước đã.”

    Trương Dân lấy từ trong túi áo một tờ giấy chứng nhận, bảo: “Chúng tôi là lính đặc chủng của Quốc gia, thuộc phân đội K3 của Hải quân Lục chiến, đây là giấy chứng nhận.”

    Lưu Nghiễn đón giấy chứng nhận rồi bước lên đưa cho Lạp Mỗ, cô ta nương ánh lửa nhìn qua một lượt, Lưu Nghiễn hỏi: “Trước chúng tôi đã có đội lính nào từng đến đây chưa? Chúng tôi đang tìm một đội tình nguyện viên khác.”

    Lạp Mỗ đáp: “Không thấy.”

    Lưu Nghiễn lại hỏi: “Không có ai tới Đạo Thành sao? Cỡ mười, hai mươi người, hoặc là đội năm người.”

    Lạp Mỗ nói: “Tôi cũng không rõ, nhưng chưa từng phát hiện người nào cả.”

    Trương Dân kinh ngạc: “Sao thế được, Tổng bộ nói rằng đội tình nguyện viên đã xuất phát cách đây một tháng, chắc chắn phải tới nơi rồi chứ.”

    Lưu Nghiễn tiếp: “Họ cử đi bao nhiêu người?”

    Trương Dân lắc đầu: “Không đề cập tới.”

    Sự việc đang lâm vào hoàn cảnh cực kỳ phức tạp, Lạp Mỗ giải thích những chuyện đã xảy ra cho Lưu Nghiễn và Trương Dân nghe. Khi đại dịch zombie bùng phát vào năm ngoái, có một nhóm người chạy nạn mang theo súng đạn và vật tư dự trữ trốn vào Tây Tạng.

    Dân bản địa sẵn lòng tiếp đón họ, nên càng ngày càng có nhiều người tìm đến Đạo Thành và xây dựng một cứ điểm lẩn trốn zombie ngay tại đây. Nhưng rồi du khách và dân tộc Tạng bắt đầu nảy sinh xung đột, diễn ra những trận chiến sống mái với nhau.

    Lưu Nghiễn nghe mà kinh hãi không thôi: “Mấy người… không nghe được thông tin từ đài phát thanh à? Sao không chờ đội cứu viện đến?”

    Lạp Mỗ nói: “Vì họ không tin tưởng Chính phủ.”

    Trương Dân hỏi: “Thế còn mấy người? Cũng không tin Chính phủ luôn sao?”

    Lạp Mỗ đáp: “Tôi sống cùng đồng bào Tây Tạng, họ đã từng bàn bạc nhiều lần, vẫn không muốn từ bỏ quê hương mình.”

    Vài tháng sau, vùng đất tách biệt này đã hình thành hai phe phái, trải qua bao phen xung đột đổ máu, những người lưu vong bị đuổi khỏi Đạo Thành, bọn họ cất giữ rất nhiều súng ống, luôn cố chấp không chịu buông bỏ cứ điểm ở Đạo Thành.

    Bởi thế Na Tang đứng ra tập kết dân cư bản địa ở Cam Tư, Khang Định và Đạo Thành được hơn một ngàn người, cùng chống lại dân lưu vong.

    Đôi bên càng thêm tranh chấp giằng co không ngớt, dân lưu vong cướp đoạt vật tư, càn quét Đạo Thành, tích trữ tất thảy những gì ăn được. Dân Tây Tạng sau nhiều lần chiến đấu, cuối cùng tạm thời từ bỏ cứ điểm ở Đạo Thành, rút về khu bảo tồn thiên nhiên ở núi Gongga.

    Dân lưu vong toan tính quay lại Đạo Thành, Na Tang lại cho người phục kích ở ngoài thành phố, dựa vào sự thông thuộc địa hình, cộng thêm số súng săn ít ỏi và đao Tây Tạng(8), họ tập trung tấn công người Hoa.

    Cứ mãi như thế, không phe nào chiếm được huyện Đạo Thành.

    Trùng hợp làm sao, nơi Lưu Nghiễn và Trương Dân đang đứng, chính là chiến tuyến tranh chấp của đôi bên.

    Đứa con trai “Ni Mã” của Na Tang hôm qua theo chân đội viện trợ tiếp tế, đem y phục trong nhà đến cho cha, nào ngờ dọc đường trời đổ tuyết lớn nên lạc đường giữa cao nguyên. Hiện giờ dân Tạng đang cử người tìm kiếm suốt đêm, chạy thẳng một mạch đến khu vực lân cận Đạo Thành, ở đó phát hiện quần áo chống lạnh của Na Tang, mà chẳng thấy bóng dáng thằng bé đâu.

    Suy đoán duy nhất chính là, thằng bé đã bị dân lưu vong bắt đi làm con tin mất rồi.

    Chương 74: Pn2(2)

    Ngoại truyện 2: Sông băng – P2

    Ánh lửa hắt lên khuôn mặt của Côn Ni Mã, cậu bé nghi hoặc quan sát người đàn ông trung niên bên cạnh mình.

    Người đàn ông trung niên có dáng vẻ trải đời, rắn rỏi.

    Chân mày của ông tựa như đôi cánh của loài chim ưng, kiêu hùng mà oai dũng; môi giống như vách đá của núi thần Trác Mã Lạp Thố(còn gọi là Pearl Lake), hai mắt sâu thẳm như nước hồ Nạp Mộc Thố(hồ Namtso, nghĩa là Thiên Đường), chiếc mũi cao thẳng như dãy núi Cống Bố hùng vĩ (núi Gongga).

    Vóc người ông cường tráng, cánh tay chắc nịch, vai rộng lưng dài, cao to lực lưỡng. Toàn thân ông khoác bộ quân phục rằn ri màu trắng, cách đây mấy tiếng đồng hồ, chính bộ rằn ri này đã đánh lừa thị giác nhiều người dưới trời tuyết mịt mờ.

    Gia tộc của Ni Mã rất có danh tiếng ở địa phương, mang họ “Côn”. Dòng họ là tượng trưng cho địa vị, là danh hiệu của gia tộc.

    Bé Côn mới lên năm tuổi, thậm chí chẳng biết ông ta từ đâu xuất hiện. Khi cậu bé đang ngồi trên một chiếc xe bò Tây Tạng đến Đạo Thành đưa quần áo cho cha, nửa đường bất chợt nổi gió tuyết lớn, có kẻ địch thình lình nhào ra đuổi bắt họ.

    Lũ bò Tây Tạng bị dọa giật mình, thế là đoàn xe cũng rối loạn theo, con bò kinh hoảng kéo bé Côn lao thẳng về phía vách núi đằng xa, chẳng biết chạy được bao lâu, Ni Mã núp trong thùng xe chẳng dám ló đầu, sợ đến run bần bật.

    Sau cùng có một tiếng súng nổ vang, con bò té ập trong vũng máu, thùng xe lật ngã khiến bé Côn bị hất văng ra ngoài.

    Trên vách núi tuyết có một người nhảy xuống, chính là người đàn ông trung niên này. Ông chạy đến ôm lấy bé Côn, vội vàng trấn an: “Không sao rồi, cháu đừng sợ. May mà còn kịp.”

    Hiện giờ, người đàn ông kia đang ngồi trên tảng đá trong hang núi, bắt đầu nhóm lửa, ba lô ném vào một góc, mới nãy bé Côn thấy ông móc ra một đống đồ vật kỳ quái từ trong cái túi đó.

    Ông đưa tới một miếng chocolate, nhưng bé Côn chẳng chịu nhận.

    “Không ăn à?” – Thanh âm của người đàn ông trầm thấp vững vàng – “Ngay cả chocolate mà cũng không thích, trẻ con kén ăn quá không tốt đâu đó.”

    Bé Côn dè chừng ngó ông.

    Người đàn ông trung niên lại nói: “Không có độc mà, để bác ăn cho cháu xem ha.”

    Người đàn ông chỉ gặm một miếng nhỏ, rồi đưa chocolate cho Ni Mã, bảo rằng: “Bọc lớp giấy để cầm ăn, cho cháu hết đó.”

    Bé Côn cầm miếng chocolate, chần chừ chốc lát, đoạn nếm thử một miếng ngay chỗ người đàn ông vừa cắn.

    Người đàn ông trung niên trầm ngâm nhai kẹo cao su, hỏi: “Cháu tên gì?”

    Bé Côn nghe không hiểu tiếng Hoa, người đàn ông vươn ngón tay chọc chọc vào ngực bé, hỏi lại: “Tên ấy, cháu tên là gì?”

    Bé Côn lúc này đã hiểu, bèn lớn tiếng đáp: “Ni Mã!”

    Người đàn ông trung niên: “…”

    Người đàn ông trưng ra vẻ mặt không biết nói gì hơn, lát sau ông chỉ vào mình, giới thiệu: “Mông Kiến Quốc.”

    Bé Côn gật đầu, cũng chỉ tay vào ngực mình, nói với Mông Kiến Quốc: “Ni Mã.”

    Mông Kiến Quốc gật đầu, bé Côn lại vẽ một hình tròn trên mặt đất, chỉ chỉ vào hình tròn kia: “Ni Mã.” (Phần trước đã chú thích, Ni Mã tiếng Tây Tạng có nghĩa là vầng Thái Dương, cậu bé đang vẽ Mặt Trời đó. Còn ‘ni mã’ tiếng Hoa là ý chửi súc vật.)

    Mông Kiến Quốc chẳng hiểu bé Côn đang muốn nói gì, chỉ đành gật đầu đáp: “Ni Mã, sáng mai bác dẫn cháu đi tìm ba nhé.”

    Mông Kiến Quốc thản nhiên cầm khẩu súng lục đùa nghịch, xoay một vòng quanh ngón tay.

    Bé Côn ăn hết nửa miếng chocolate, phần còn lại cẩn thận cất kỹ. Mông Kiến Quốc lấy chiếc áo khoác lính đắp lên người cậu bé, rồi ôm bé đến bên cạnh đống lửa để ngủ ngon hơn.

    Bé Côn vùi mình trong áo khoác, cảm thấy thoải mái vô cùng, mùi của chiếc áo này rất dễ chịu, cũng rất ấm áp. Cậu bé bị quấn kín mít như kén sâu, bé len lén nhìn người đàn ông kia, thấy ông đang ngồi bên đống lửa ngắm một tấm hình trong bóp tiền.

    Tinh mơ hôm sau, Mông Kiến Quốc bước vào hang núi, đánh thức bé Côn dậy: “Ta đi nào, mau dậy thôi.”

    Bé Côn hẵng còn mơ màng buồn ngủ, Mông Kiến Quốc đành cõng bé lên, ra hiệu cho bé vòng tay ôm cổ mình, sau đó ông trở tay mặc áo khoác lính, gói chặt bé Côn và mình trong chiếc áo, rồi dặn dò: “Nếu cháu thấy lạnh thì ăn một chút chocolate nha.”

    Bé Côn nằm sấp trên lưng Mông Kiến Quốc, ông xách ba lô lên, cõng bé tiến về phía trước.

    Gió tuyết lại kéo tới, nhưng rất nhỏ vụn, hạt tuyết lất phất nhẹ bay giữa đất trời cao nguyên. Bé Côn ăn hết chocolate, xong thì vuốt phẳng lớp giấy gói, úp sát vào người Mông Kiến Quốc gấp đồ chơi.

    Bé Côn nói câu gì đó, vươn tay chỉ về hướng xa.

    Mông Kiến Quốc đứng nhìn tấm bia ven đường một hồi, đoạn xoay người nhắm thẳng hướng Đông. Để bé Côn ngồi chờ sau tảng đá, ông đi tìm chiếc xe máy giấu trong khe núi, chạy về đổ xăng đầy bình rồi ngoắt bé Côn leo lên xe, nổ máy, lao vút đi như điện xẹt.

    Trước đó khoảng nửa tiếng.

    Một khi gió tuyết kéo đến thì chẳng hay biết lúc nào là ngày, thời điểm nào là đêm. Khắp trời đất chìm trong âm u xám xịt, Mặt Trời khuất sau tầng mây. Mông Phong thoáng cảm giác có một bàn tay lạnh buốt áp lên trán mình, hắn mở mắt, bừng tỉnh.

    “Có người đang tới.” – Quyết Minh ra tiếng.

    Mông Phong hỏi: “Ba nhóc về rồi hả?”

    Quyết Minh lấy ra một chiếc máy cảm ứng điện tử, lắc qua lắc lại trước mặt Mông Phong, nói rằng: “Có bốn chiếc xe cách chúng ta khoảng ba cây số, sẽ đến đây nhanh thôi.”

    Mông Phong đánh ngáp một cái: “Chắc Lưu Nghiễn đã tìm được tình nguyện viên về đây.”

    Đầu của hắn vẫn nhức bưng bưng, cảm cúm phát sốt sổ mũi đủ cả, ngồi ngây người một hồi mới tỉnh táo, vớ cái nón chụp lên quả đầu rối như tổ quạ. Hắn bước đến bên cửa sổ xe nhìn ra đằng trước.

    Quyết Minh cũng ghé sát vào cửa sổ, Mông Phong bày trò: “Giờ chú đứng sau lưng nhóc, nhóc giả bộ làm bản mặt kỳ cục một chút, giống như cái đợt nhóc ở sau rèm cửa, vừa ‘chơi đùa’ với ba nhóc vừa tán chuyện với Lưu Nghiễn ấy…”

    Quyết Minh: “Chú Mông à, chẳng bằng chú áp vào cửa sổ, tôi cầm ‘máy nả pháo’ nhắm thẳng vào chú mà đâm rút…”

    Mông Phong: “Thôi đi vậy, chớ có nhắc tới thứ sếch toi kia nữa.”

    Chiếc Jeep dừng bánh, người bên trong đều bước xuống xe, Mông Phong nhíu mày vẻ cảnh giác, hắn không thấy Lưu Nghiễn đâu cả.

    “Nhóc mở lưới rào điện ra đi.” – Mông Phong bảo – “Chú xuống đó xem tình hình một lát.”

    Quyết Minh hỏi: “Ai vậy?”

    Mông Phong đáp: “Có thể là đội tình nguyện viên… Cũng chưa rõ nữa.”

    Bốn chiếc xe, tổng cộng hai chục người, mỗi người cầm súng lục chậm rãi tới gần. Mông Phong đút súng sau túi quần, ngẫm nghĩ một hồi, hắn lại lấy thêm khẩu súng trường.

    “Người trên xe là ai!” – Bên dưới có người quát hỏi, thanh âm bị ngăn cách bởi lớp kính cửa sổ nên nghe thấy rất nhỏ.

    Mông Phong bắt lấy đầu mic của loa phóng thanh trên xe, hỏi vặn lại: “Các người là ai?”

    “Chúng tôi đến từ chùa Trùng Cổ!” – Người bên dưới hô – “Là người Hoa đúng không? Xuống xe nói chuyện đi!”

    Mông Phong đưa mắt ra hiệu, Quyết Minh gật đầu, hắn bèn đi xuống tựa người lên cửa xe. Bên kia nhìn thấy Mông Phong thì cất súng đi, Mông Phong cũng hạ súng.

    “Không phải là lũ chó Tạng.” – Một kẻ thầm nói với đồng bọn của mình.

    Mông Phong như phát giác được điều gì, một người đứng đầu lại ra tiếng: “Đi với chúng tôi nào, sao lại mò đến Cam Tư giữa tiết trời Đông rét mướt như thế? Là dân chạy nạn à?”

    Mông Phong đáp: “Đại dịch zombie chấm dứt rồi, quân đội đã quay về đất liền, các anh đến đây tị nạn hả? Bây giờ có thể trở lại vùng Trung Nguyên được rồi đấy. Tôi là Mông Phong, anh tên gì?”

    Người kia tiếp lời: “Vương Nghị Quân. Đây là Tôn Lỗi, còn đây là…”

    Vương Nghị Quân lần lượt giới thiệu cho Mông Phong, nghe tên nhiều người cùng một lúc làm Mông Phong không kịp nhớ, chợt có người hỏi: “Ngoài kia đã hết nguy hiểm rồi sao?”

    Mông Phong bảo: “Đúng vậy. Các anh tới đây lúc nào? Xe chúng tôi bị hư rồi! Hiện tại không đi được.”

    Vương Nghị Quân nói: “Đến từ tháng Ba năm ngoái, anh chỉ có hai người thôi hả?”

    Mông Phong giải thích: “Ngồi trên xe là thằng cháu tôi, còn có hai người bạn nữa, họ đã vào Đạo Thành tìm bộ ly hợp rồi.”

    Vương Nghị Quân bảo: “Tiểu Hoàng, cậu xem giúp người ta đi.”

    Bên cạnh lập tức có người đáp một tiếng, đi tới kiểm tra chiếc xe của Mông Phong.

    Mông Phong lại trèo lên xe, ra dấu an toàn với Quyết Minh, đoạn cầm hộp thuốc lá xuống phân chia cho mọi người, bắt chuyện hỏi: “Trung tâm vật tư Quốc gia đã cử một đội tình nguyện viên đến đây, các anh gặp họ chưa?”

    Vương Nghị Quân lắc đầu nói: “Lúc này Đạo Thành có lẽ không mấy ổn định.”

    Mông Phong nhíu mày hỏi: “Sao thế?”

    Vương Nghị Quân đáp: “Năm ngoái tôi dẫn các anh em lên Đạo Thành tị nạn, lục tục kéo theo cỡ bốn trăm người từ vùng Tứ Xuyên và Vân Nam, trốn tránh đám quái vật chết tiệt kia. Nhưng dân ở đây rặt một lũ mọi rợ, hồi mới đầu còn tốt, ngờ đâu về sau lại chê bọn tôi chiếm đất của chúng, nên thả chó Tây Tạng cắn xé ăn thịt người, còn vung đao đâm chết người…”

    Mông Phong tiếp: “Vậy các anh không ở cùng họ nữa à?”

    Vương Nghị Quân rít một hơi thuốc lá, gật đầu: “Có thể liên lạc với bạn của anh không? Bảo họ quay về nhanh lên, đừng để bọn chúng tóm được, không thì phiền to đấy.”

    Mông Phong nói: “Còn phải chờ chút đã, hai người bạn đó của tôi không gặp nguy hiểm gì đâu.”

    “Bộ ly hợp của các anh bị hư rồi.” – Một người cười bảo – “Chẳng biết rớt mất chỗ nào, mà con xe này cũng ngầu thật đấy, là của quân đội phải không?”

    Quyết Minh ra tiếng: “Do tôi lắp ráp lại đấy.”

    “Ấy chà, thiên tài.” – Tay thợ máy kia tiếp – “Xem nào, phải nghĩ cách mới được.”

    “Tiểu Hoàng là thợ sửa máy của chúng tôi.” – Vương Nghị Quân cười rằng.

    Tiểu Hoàng nói: “Lão Đại à, cần tìm ít linh kiện cho họ mới được, mà chúng ta cũng không có, chắc phải vào Đạo Thành tìm.”

    Vương Nghị Quân nghe thế bảo: “Thôi, trong xe có con nít mà.”

    Quyết Minh: “Tôi không phải con nít đâu nhé.”

    Vương Nghị Quân cười: “Cháu cùng lắm mới lên cấp ba, vẫn là con nít đó thôi. Tháo bộ ly hợp trên xe tôi cho họ đi.”

    Quyết Minh hỏi: “Kích cỡ có phù hợp không? Chỉ sợ không khớp.”

    Vương Nghị Quân nói: “Thế thì cháu đi tìm thử xem? Nhóc thiên tài?”

    Linh kiện trên xe Vương Nghị Quân tuy nhỏ, nhưng chỉ trong thời gian ngắn Quyết Minh đã chỉnh sửa và lắp xong. Lúc này Mông Phong mới hỏi: “Còn bạn của chúng tôi tính sao đây?”

    Vương Nghị Quân viết một mẩu giấy nhắn kẹp chung với tấm bản đồ lên cần gạt nước của xe anh ta, sau đó nói: “Lên đường thôi, các anh cứ lái xe của mình, chúng tôi đi xe riêng, cẩn thận đường núi trơn trượt đó.”

    Mọi người chia nhau lên xe, chạy về phía núi tuyết Tiên Nãi Nhật. (là một trong ba ngọn núi thần, theo tiếng Tạng có nghĩa là núi Quan Thế Âm Bồ Tát.)

    Cùng lúc đó, tại phía Tây Bắc của Đạo Thành, gió tuyết chợt nổi lên.

    Lưu Nghiễn đuổi theo sau Lạp Mỗ, nói với cô: “Chúng tôi phải tìm bạn của mình trước, đã đi hơn một ngày rồi, máy bộ đàm không thể liên lạc được.”

    Lạp Mỗ xoay người nhún vai rằng: “Tôi cũng đành chịu, phải hỏi ý kiến Na Tang ấy, họ nói bây giờ chưa thể cho các anh đi vì sợ để lộ tin tức. Trừ khi tìm được Ni Mã, mới có thể chứng minh các anh chẳng can hệ gì với bọn người kia.”

    Tìm tìm cái khỉ khô(1)… Lưu Nghiễn như muốn nổi đóa, Trương Dân ở bên cạnh lên tiếng: “Các cô không thể làm vậy được.”

    (1) Câu gốc là ‘tìm ni mã mấy người’, Lưu Nghiễn nói với ý đồng âm khác nghĩa, ni mã ở đây mang nghĩa súc vật.

    Lạp Mỗ đanh mặt nhìn Trương Dân, anh lại tiếp: “Họ giết bao nhiêu người rồi? An ninh trật tự sẽ nhanh chóng được lập lại, hiện giờ cả nước đang cho phân tán dân cư, bắt đầu cuộc sống mới. Phía quân đội sớm muộn gì cũng tới đây tìm các cô, đến khi đó…”

    Lạp Mỗ tức giận gắt: “Không cần anh lo.”

    Lạp Mỗ xoay phắt người bỏ đi, Lưu Nghiễn vội tóm chặt tay cô ta, hỏi: “Đôi bên đã chết bao nhiêu người?”

    Lạp Mỗ đáp trả: “Giết chết kẻ xấu xâm phạm vùng đất quê hương mình, như thế cũng đáng bị trừng phạt hay sao?”

    Lưu Nghiễn nhẹ lời: “Đâu thể nói vậy, khi đường sinh tồn bế tắc, xung đột đổ máu là chuyện hiển nhiên, nhưng bây giờ mọi chuyện đang tốt đẹp hơn, tiếp tục tranh đấu chẳng có nghĩa lý gì hết. Nói tôi biết đi, bên cô đã hy sinh tổng cộng bao nhiêu người rồi, và bị giết hại dưới tình huống nào?”

    Lạp Mỗ nói: “Chưa có người nào chết, nhưng sắp rồi.”

    Lưu Nghiễn và Trương Dân cùng cảm thấy ngạc nhiên, Trương Dân hỏi lại: “Chưa có người chết à?”

    Lạp Mỗ khẳng định: “Phải.”

    Lưu Nghiễn thấy nhẹ cả người: “Ơn trời, thế thì dễ giải quyết hơn nhiều.”

    Lạp Mỗ nhảy dựng: “Cái gì mà dễ giải quyết! Chẳng lẽ anh định giúp phe kia?! Chính bọn chúng bắt cóc Ni Mã đấy!!!”

    Lưu Nghiễn tiếp: “Mọi việc đã qua cả rồi!”

    Trương Dân ngắt lời: “Chờ chút, trước tiên hãy nói cho chúng tôi biết, tại sao vẫn chưa có người chết?”

    Lạp Mỗ quay đầu, ngưng mắt nhìn về ngọn núi thần tuyết trắng ở phương xa, mãi sau mới đáp: “Là nhờ có sư Trát Ba ở chùa Trùng Cổ, sau khi ngài thu nhận dân lưu vong đã ra lệnh, cấm đôi bên tàn sát lẫn nhau.”

    “Cái gì?” – Lưu Nghiễn nhíu mày.

    Lạp Mỗ tiếp: “Năm ngoái, khi bọn họ đến và phát sinh tranh chấp với chúng tôi, một con chó ngao Tạng của người dân đã cắn bọn họ, nên toàn bộ người Hoa bỏ chạy lên núi tuyết Tiên Nãi Nhật, vào mùa hè thì dựng trại quanh chùa Trùng Cổ…”

    Ngay thời điểm ấy, tại chùa Trùng Cổ trên núi tuyết Tiên Nãi Nhật:

    “Lúc ấy.” – Vương Nghị Quân nói – “Chúng tôi đã ở đó lâu quá rồi, mà tiền bạc cũng cạn túi, lại có người bắt đầu gây gổ với dân Tạng. Đôi bên nảy sinh ẩu đả với nhau, Tiểu An suýt nữa bị lũ chó ngao Tạng cắn chết…”

    Mông Phong chầm chậm gật đầu, đón lấy lọ thuốc Hồng cảnh thiên(2) từ tay Vương Nghị Quân, anh ta lại tiếp: “Tôi chẳng thể tiếp tục hòa giải nữa, đành phải mang mọi người rời khỏi Đạo Thành đến tạm lánh ở núi tuyết. Sư Trát Ba đã đón nhận hơn ba trăm người chúng tôi, và dùng thảo dược chữa trị vết thương cho Tiểu An. Sau đó ngài còn viết một bức thư, giao cho thủ lĩnh Na Tang của dân Tạng, căn dặn bọn họ bất kể trong tình huống nào cũng không được giết người.”

    12831161_1(2) Thuốc Hồng cảnh thiên: công dụng chống thiếu dưỡng khí, chống mệt nhọc và giảm đau. Chắc Mông Phong uống cái này để đỡ bị say độ cao ^^

    Mông Phong bèn hỏi: “Thế vị sư Trát Ba nọ đâu rồi?”

    Vương Nghị Quân đáp: “Ngài đã qua đời.”

    Mông Phong nói: “Tại sao lại xích mích với người Tạng, có thể làm dịu xuống được không?”

    Vương Nghị Quân lắc đầu: “Khó lắm.”

    “Tiểu An là một nhiếp ảnh gia.” – Vương Nghị Quân cười bảo – “Vừa tốt nghiệp được một năm, dẫn theo bà xã đến Đạo Thành du lịch. Tiểu An, đây là anh Mông.”

    Vương Nghị Quân đưa Mông Phong và Quyết Minh đi dạo quanh chân núi chùa Trùng Cổ, nơi khuất gió có rất nhiều hang gạch của các vị Lạt ma thời cổ, tránh gió chắn tuyết, dân lưu vong dựng lều bạt trong các hang gạch, nhóm lửa nấu nước sưởi ấm qua mùa Đông.

    Ở nơi này gần cả một năm, nhiều người đã bị phơi nắng ngăm đen, quần áo dơ bẩn, họ ngước ánh mắt hiếu kỳ xem xét Mông Phong và Quyết Minh.

    Trên khuôn mặt tuấn tú lấm lem của Vương Nghị Quân hiện rõ nét cười, anh ta hô lên: “Ngoài kia đã an toàn! Không còn zombie nữa! Chúng ta có thể về nhà rồi!!!”

    Khoảnh khắc đó mọi người đều cảm thấy kích động, tiến đến vây quanh ba người họ.

    “Anh chưa biết đâu.” – Có một người đứng sau lưng giải thích cho Mông Phong – “Khi ấy, trong số người Hoa chúng ta có không ít người nhiễm virus đi cùng, lão Đại chẳng biết phải xử lý ra sao, cứu không được, cũng không thể trơ mắt nhìn họ chết đi. Anh ấy cử người đến đón nhận những đồng bào bị nhiễm bệnh, chúng tôi vòng qua Đạo Thành, tính xây dựng một khu cách ly dưới chùa Trùng Cổ. Nào ngờ khi qua vùng đồng hoang có một con chó ngao Tạng xông ra, cắn trúng người đã bị nhiễm virus…”

    Mông Phong nghe mà không khỏi sợ run, chó ngao Tây Tạng vốn là giống chó hung dữ nhất thế giới, một khi biến thành chó zombie, người thường làm sao địch nổi sức chiến đấu của nó.

    Vương Nghị Quân tiếp: “Con chó ngao Tạng đó sau khi trở về thì đột biến, chó cắn chó, chó cắn người, trong Đạo Thành bùng phát một đợt dịch bệnh quy mô nhỏ. Bọn họ cho rằng chính chúng tôi đã mang bệnh dịch và ma quỷ đến. Xét cho cùng thì, điều đó không sai.”

    Vương Nghị Quân dẫn Mông Phong và Quyết Minh vào ngôi chùa Trùng Cổ tan hoang đổ nát, bên trong có bốn năm túp lều vải, còn có người đang nghe nhạc, Vương Nghị Quân vỗ tay một cái, cất tiếng: “Lão Tôn này, kêu mọi người đến tập hợp để họp. Với lại chuẩn bị ít thức ăn nước uống tiếp đãi khách.”

    Có người bưng bếp lò đến, bắc ấm pha trà. Quyết Minh trước sau vẫn cảnh giác quan sát Vương Nghị Quân, anh ta cũng cảm giác được địch ý của nhóc, bèn cười hỏi: “Cậu nhóc không mấy tin tưởng người lạ nhỉ, nó là cháu của anh à?”

    Mông Phong nhận lấy một chén nước sền sệt, hắn biết Quyết Minh cho rằng Vương Nghị Quân là loại người giống Lâm Mộc Sâm, nên nhóc vẫn còn chút đề phòng với anh ta. Hắn bèn xoa xoa đầu Quyết Minh, thuận miệng bảo: “Tính nhóc này là vậy đấy, nói tiếp đi, sau đó thế nào? Tại sao sư Trát Ba lại chết?”

    “Sư Trát Ba là một vị Lạt ma trông coi chùa Trùng Cổ.” – Một cô gái đi tới ngồi xuống, vén mái tóc dài sang bên, cổ tay đeo chuỗi vòng bạc lóng lánh, trên người khoác tấm thảm dày của dân tộc Tạng, cô nghiêng đầu nhìn Quyết Minh, cười hỏi: “Sao em không uống?”

    Quyết Minh nói: “Tôi không muốn uống cái này, mùi nó kỳ lắm.”

    Cô gái kia tự giới thiệu: “Chị là Ninh Ninh, em tên gì?” – Cô ta để ý thấy Quyết Minh vẫn luôn nhìn xuyến vòng Tây Tạng của mình, bèn tháo một chiếc ra đưa cho nhóc, nói – “Em thích không? Chị tặng em đó.”

    “Cảm ơn, tôi là Quyết Minh.” – Quyết Minh đáp.

    Ninh Ninh lại móc một cái hộp nhỏ trong balo vải đặt trước lều, đổ ra ít lá trà Thiết Quan Âm(3), cười tiếp: “Đó là trà bơ(4), uống trà của dân mình vẫn hơn nhỉ.”

    (3) Trà Thiết Quan Âm: là một trong mười loại trà thượng đẳng, thuộc nhóm trà Ô Long của trấn Tây Bình, huyện An khê, tỉnh Phúc kiến

    (4) Trà bơ: Trà được nghiền nhuyễn và đun với nước trong 1 vài phút, sau đó lọc lấy nước trà, cho thêm sữa dê hoặc sữa bò Tây Tạng, một chút bơ yak, cho thêm chút muối và khuấy đều lên. Chén nước mà Mông Phong và Quyết Minh nhận được là trà bơ.

    Lá trà Thiết Quan Âm được đổ vào tách, hương trà thơm ngát dậy khắp túp lều, Ninh Ninh vừa pha trà cho khách vừa giải thích: “Lúc đó ai nấy đều sợ ngây người, có hơn cả ngàn con quái vật, xác sống. Các anh biết không, lần đầu trông thấy lũ quái vật kia tôi đã liên tưởng ngay tới đám xác sống trong phim Resident Evil.”

    Mông Phong đáp: “Phải rồi, còn gọi là zombie.”

    Ninh Ninh mở to mắt, kinh ngạc không thôi: “Các anh làm sao sống sót tới bây giờ?”

    Mông Phong chỉ nói: “Nói về chuyện của mọi người trước đi.”

    Ninh Ninh tiếp: “Đám quái vật kia bao vây quanh chùa Trùng Cổ, tuy có súng trong tay nhưng mọi người rất sợ hãi. Thế rồi sư Trát Ba bước ra, để chúng tôi trốn vào đây ở…”

    “Chùa Trùng Cổ được xây dựng từ mấy trăm năm trước.” – Vương Nghị Quân bổ sung – “Bây giờ đã mục nát gần hết rồi, khi ấy chỉ có mỗi sư Trát Ba ở nơi này.”

    Ninh Ninh gật đầu: “Sư thầy vì cứu chúng tôi đã bước ra lập đàn làm phép, đúng ngay vào tháng Mười, ngài bảo đây là sự trừng phạt của ông Trời đối với con người, dù là người Tạng hay người Hoa đều phải đối xử bình đẳng như nhau. Ngài niệm kinh suốt đêm ngày, để chúng tôi trốn vào hang núi, không ai được phép ra ngoài.”

    Quyết Minh hỏi: “Có tác dụng gì không?”

    Ninh Ninh cười không đáp, Vương Nghị Quân hỏi ngược lại: “Thế nhóc nghĩ sao?”

    Sau Ninh Ninh vẫn nói: “Có tác dụng chứ. Ngài đã cầu xin trời xanh hãy gieo mọi tai họa xuống người mình, đến cuối tháng Mười, một trận tuyết lớn đổ xuống Đạo Thành và khu vực xung quanh ba ngọn núi thần, toàn bộ đám quái vật bị đông cứng, không cách nào cục cựa nổi.”

    Vương Nghị Quân tiếp lời: “Thế là chúng tôi buộc dây vào xác chết, kéo lê tới chân núi để chôn, lúc quay về thì sư Trát Ba cũng viên tịch rồi, sau đó chúng tôi vẫn ở lại nơi này sinh sống. Nhưng thức ăn không còn đủ nữa, lúc trước toàn sống nhờ vào lương thực dân Tạng đem đến cúng dường cho sư Trát Ba và số của cải còn dư lại trong chùa, nên bây giờ phần lớn thời gian tôi phải dẫn anh em vào Đạo Thành trộm đồ ăn.”

    Mông Phong nói: “Vậy càng khiến dân Tạng căm ghét thêm.”

    Vương Nghị Quân phá ra cười ha hả, đã có không ít người tụ tập đến, Mông Phong nhìn quanh một lượt, nghĩ bụng chắc họ là những người đầu não đưa ra mọi quyết định cho tập thể.

    Mông Phong bắt đầu thuật lại những thay đổi của thế giới bên ngoài khi họ còn đang lẩn trốn trong Tây Tạng, hắn kể một cách ngắt quãng đại khái, người xung quanh đều lắng tai nghe chăm chú, cuối cùng Mông Phong nói: “Nếu là bà xã tôi sẽ kể hay hơn nhiều, nhưng em ấy đã đến Đạo Thành rồi. Tóm lại là vậy đó, mọi người có dự định gì không?”

    Sau khi trầm mặc hồi lâu, Vương Nghị Quân chỉ biết thở dài, tiếng thở dài ấy sao mà nặng nề, phảng phất chứa đựng hết thảy nỗi nhọc nhằn và bùi ngùi suốt bao nhiêu ngày tháng qua, tựa như một lữ khách sắp đi đến cuối hành trình, rốt cuộc có thể trút bỏ gánh nặng trên vai.

    “Phải lên kế hoạch trở về vùng đồng bằng ngay mới được.” – Vương Nghị Quân ra tiếng – “Mọi người đồng ý chứ?”

    “Một phiếu.” – Ninh Ninh thống kê – “Hai phiếu, ba phiếu… Toàn bộ tán thành.”

    Mông Phong quan sát những người này biểu quyết, chầm chậm gật đầu, cuối cùng mới thả lỏng cảnh giác.

    Vương Nghị Quân nói với Mông Phong: “Chúng tôi đều là du khách, có người tự đi phượt, cũng có người đi tour cùng đoàn, Ninh Ninh là hướng dẫn viên du lịch ở Tứ Xuyên. Chúng tôi phân chia từng khu vực vùng miền, rồi để họ chọn ra một tổ người đại biểu dân ý, thực hiện thể chế trưng cầu biểu quyết.”

    Mông Phong nhận xét: “Cách này hay lắm, người đồng hương sẽ dễ tạo thành tập thể nhỏ hơn. Lúc trước anh làm nghề gì thế?”

    Vương Nghị Quân cười đáp: “Tôi cũng chỉ là một nhà nhiếp ảnh thôi.”

    Có một người sau khi ngẫm nghĩ chốc lát, ra tiếng hỏi Mông Phong: “Anh Mông, bạn của anh đang ở trong tay đám người Tạng à?”

    Mông Phong nói: “Ngoài trời đang đổ tuyết nên máy bộ đàm sóng ngắn mất tín hiệu, chờ trời quang mây tạnh rồi thử liên lạc mới biết được.”

    Vương Nghị Quân bảo: “Trước mắt phải nghĩ cách gọi bạn của anh đến đây, ở Đạo Thành nguy hiểm lắm, tiếp theo là bàn tính việc rời khỏi vùng này.”

    Cậu trai tên gọi Tiểu Hoàng, là người sửa xe giúp Mông Phong mới nãy, chợt lên tiếng: “Lão Đại, tụi mình chỉ có bốn chiếc xe thôi, mà một chiếc tháo bộ ly hợp ra thì hết xài được rồi, còn ba chiếc sợ không chở được nhiều người vậy đâu.”

    “Ừm.” – Vương Nghị Quân nói – “Chắc phải chia một nhóm người đi xuống trước, đến Tứ Xuyên, nhóm còn lại ở lại đây. Tôi chỉ sợ lúc rời đi sẽ có dân bản địa tới đánh lén, cũng khó thật đấy… Cần rút lui bí mật, phải nghĩ cách đã. Mọi người quay về hỏi bạn bè của mình thử, xem ai đồng ý đi trước, còn ai tình nguyện ở lại bọc hậu. Người nào có ý kiến gì cứ việc đề xuất, tổng hợp xong thì về đây, hai tiếng sau chúng ta sẽ nghĩ ra một phương pháp chu toàn nhất.”

    Những người dự cuộc họp bắt đầu tản đi, Vương Nghị Quân cũng rời khỏi, chỉ còn Quyết Minh và Mông Phong mắt to mắt nhỏ ngó nhau.

    “Người đó sẽ là ‘anh Sâm’ thế hệ hai hả?” – Quyết Minh hỏi – “Hoặc là ‘anh Sâm’ chính hiệu?”

    Mông Phong đáp: “Chú thấy không phải đâu… Nếu có Lưu Nghiễn ở đây thì tốt, mẹ kiếp, sao mãi mà không liên lạc được với em ấy.”

    Chốc sau Vương Nghị Quân đã trở về, cầm theo một hộp đựng thịt bò khô và đồ ăn vặt, anh ta đưa cho Quyết Minh, cười bảo: “Cảm ơn hai người đã mang tin tức tốt đến cho chúng tôi. Ăn chút gì đi này.”

    Mông Phong nói: “Trên xe tôi cũng có rồi.”

    Vương Nghị Quân tiếp: “Chút thành ý thôi mà, mọi người đều đã hiểu ra, muốn cảm ơn hai người đó.”

    Quyết Minh tùy tiện ăn đôi miếng, thấy không bị vấn đề gì, Mông Phong cũng ăn một ít, Vương Nghị Quân thì đi vòng ra sau chùa. Lát sau, Mông Phong đứng dậy, choàng tay lên vai Quyết Minh, một lớn một nhỏ đi dạo lòng vòng, khi ra sau ngôi chùa thì bắt gặp thi thể của lão Lạt ma.

    Vương Nghị Quân đang đứng trước thi thể ấy, lẳng lặng nhìn ông.

    Thi thể vẫn chưa bị phân hủy, lưu giữ nguyên vẹn khuôn mặt lúc sinh thời của vị Lạt ma, tuy vậy làn da vẫn hiện rõ sắc xám đen.

    “Đây là sư Trát Ba sao?” – Mông Phong ra tiếng hỏi.

    Vương Nghị Quân gật đầu.

    Chứng say độ cao của Mông Phong giờ đã đỡ nhiều, và cũng hạ sốt, thỉnh thoảng chỉ ho khù khụ vài tiếng chẳng can hệ gì.

    Mông Phong nói: “Mọi người ở đây được sinh sống rất ổn định, anh quả là một người tốt.”

    Vương Nghị Quân cười: “Chẳng qua tôi chỉ mong muốn dốc hết sức bảo vệ sinh mạng của đồng bào, các anh có từng gặp dân lưu vong kiểu như chúng tôi chưa?”

    Mông Phong đáp: “Rồi, tình trạng của họ còn tồi tệ hơn ở đây, có nhiều lắm.”

    Quyết Minh chen lời: “Sao chú không… Ý tôi là cái đó… Ừm…”

    Vương Nghị Quân hỏi: “Không cái gì cơ? Không cầm súng giết sạch dân Tạng đi à?”

    Quyết Minh gật đầu: “Đa số người đều chọn cách đó mà.”

    Vương Nghị Quân lại hỏi: “Cháu đã xem bộ phim điện ảnh Hồng Hà Cốc(5) chưa? Ninh Tịnh(6) đóng nữ chính ấy.”

    (5) Một bộ phim của đạo diễn Phùng Tiểu Ninh, sản xuất năm 1997. Bối cảnh đầu thế kỷ 20, đế quốc Anh cử một đoàn thám hiểm tiến vào Tây Tạng hòng âm mưu xâm chiếm vùng đất này, song dân tộc Tạng đã đoàn kết nhất trí, liều mình chống giặc xâm lăng.

    (6) Ninh Tịnh: là một trong những nghệ sĩ hạng A của màn ảnh Hoa ngữ vốn nổi tiếng với những bộ phim như Lã Bất Vy – Anh hùng thời loạn, Dương môn nữ tướng, Hán Vũ Đế 2, Hiếu trang bi sử…

    Quyết Minh “ừ” một tiếng, Vương Nghị Quân tiếp lời: “Con gái của vua Tây Tạng cầm trong tay một quả đạn pháo, ném vào đống thuốc nổ, bất khuất liều chết cùng kẻ thù.”

    Mông Phong ngờ nghệch hỏi: “Cái gì cơ?”

    Quyết Minh gật đầu đáp: “Hồi nhỏ từng xem rồi.”

    Vương Nghị Quân cười xoa xoa đầu Quyết Minh, đoạn nói: “Chú là một nhiếp ảnh gia của Hội bảo vệ động vật hoang dã Trung Quốc, đến Đạo Thành Á Đinh vì muốn vào ba ngọn núi thần tìm kiếm động vật hoang dã. Sao có thể giết người được chứ?”

    Quyết Minh hỏi: “Thế còn những người khác? Họ đều nghe lời chú hay sao?”

    Vương Nghị Quân đáp: “Không người nào nghe lời chú, mà ở đây cũng không có chuyện ai phải nghe theo ai. Người nào đưa ra ý kiến hay thì sẽ làm theo đề nghị của họ. Vốn dĩ chú cũng có chút lo lắng, e sợ trong số du khách sẽ có một vài phần tử tiêu cực. Nhưng khi sư Trát Ba diễn thuyết Kinh văn, và trận bão tuyết ập xuống trước mắt đã loại bỏ mọi ý định xấu trong lòng mỗi người. Có thể nói, chính sư Trát Ba là người đã cứu mạng bọn chú, bởi thế chẳng còn ai có ý định chém giết gì nữa.”

    Ba người họ bước ra khỏi ngôi chùa, thấy Ninh Ninh đang ôm một cây ghita, ngồi trước đống lửa đàn lên một bản nhạc du dương trầm lắng, từng nốt trong veo dịu dàng:

    “Em đã từng ngắm biết bao cảnh đẹp, em đã gặp rất nhiều cô gái xinh, em lạc mất giữa những ngã rẽ trên bản đồ… Mỗi một khoảng tháng năm ngắn ngủi…”

    Mông Phong bảo: “Chúng ta có thể xin trợ giúp từ Tổng bộ, nghe đâu còn có một đội tình nguyện viên được cử tới đây, cũng chẳng biết họ đang ở chỗ nào.”

    Vương Nghị Quân hỏi: “Cần chờ bao lâu nữa? Chỉ sợ phải mỏi mòn chờ suốt mấy tháng, lương thực của chúng tôi đã chẳng còn bao nhiêu…”

    Ngay lúc họ đang nói chuyện, chợt bên ngoài có người hô lên: “Lão Đại! Có người tới gây sự đây này!!!”

    Vương Nghị Quân giương giọng đáp: “Đừng náo loạn! Quay về lều của mình hết đi, tiểu đội Một theo tôi ra ngoài xem tình hình sao.”

    Mông Phong thấy vậy bèn đặt tách trà xuống, nhưng Vương Nghị Quân ngăn lại: “Các anh không cần đi cùng đâu.”

    Mông Phong nói: “Không sao, Quyết Minh này, nhóc ở đây với các dì nhé, chú ra đó xem thử.”

    Nơi đồng hoang trước chân núi tuyết, nhóm du khách lưu lạc đã đắp tường đất đơn sơ dài gần trăm mét làm rào phòng ngự vòng ngoài, những người trực tuần tra đương run rẩy giữa gió tuyết lạnh buốt.

    Nhóm người Tạng thì lăm lăm đao trong tay, vừa chậm rãi áp sát tường rào vừa lớn tiếng kêu gào.

    “Hắn chính là thủ lĩnh của dân Tạng, tên gọi Na Tang.” – Vương Nghị Quân nói.

    Mông Phong dứt khoát: “Vậy chúng ta đi gặp họ cái nào.”

    Mông Phong và Vương Nghị Quân cùng chạy ra chỗ tường đất rồi đồng thời nhào người nhảy qua, người đằng sau vội bảo: “Lão Đại, hai người cẩn thận đấy!”

    Vương Nghị Quân chỉ xua tay như không hề gì, sau đó tay phải đặt khẩu súng lục lên bờ tường đất còn tay trái giơ cao, tỏ vẻ bản thân không có địch ý với nhóm người đối diện.

    “Cố gắng đàm phán một cách hòa bình.” – Vương Nghị Quân khẽ dặn dò – “Chẳng cần thiết phải động tay động chân làm gì, tiện thể hỏi thăm xem họ có gặp bạn của anh không.”

    Mông Phong gật đầu: “Không có người phiên dịch hả?”

    Vương Nghị Quân nói: “Vào đợt dịch bệnh năm ngoái, hầu hết phiên dịch viên đã chết rồi, còn người Hoa và người Tạng có học thức trong Đạo Thành đều bỏ chạy cả. Ninh Ninh là hướng dẫn viên du lịch, cũng biết vài câu tiếng Tạng, hay là gọi cô ấy ra đây?”

    Mông Phong bảo: “Thôi thôi, vầy nguy hiểm lắm, còn phe bên kia thì sao?”

    Vương Nghị Quân đáp: “Bên đó cũng có một cô gái hiểu tiếng Hoa, nhưng hiện tại không có mặt trong nhóm.”

    Mông Phong quan sát Na Tang và đám người hung hăng bặm trợn nọ, đoạn nói: “Có vẻ khó đây, ngay cả phiên dịch viên cũng chẳng dẫn theo, rõ rành rành là họ nổi khùng muốn liều mạng tới nơi rồi kìa.”

    Vương Nghị Quân cũng nhận ra điều ấy, bèn ra tiếng: “Vậy đi, các cậu chuẩn bị bom cay, nếu thấy tình huống bất thường thì lập tức rút ngay.”

    Mông Phong bắt chước Vương Nghị Quân, đặt khẩu súng trong tay xuống rồi một mình bước lên phía trước, Vương Nghị Quân nhanh chân đuổi kịp Mông Phong.

    Mông Phong mở lời: “Chúng ta nói chuyện chút!”

    Na Tang nghe hiểu lời hắn, gã ra hiệu cho thuộc hạ đứng chờ và cũng tiến ra trước. Vương Nghị Quân thấy thủ lĩnh phe kia một mình tới đàm phán, lập tức lùi về sau vài bước nhường cho Mông Phong đi, để tránh bên kia nghi ngờ.

    Vương Nghị Quân lại tiếp tục truyền lời: “Cậu gọi Ninh Ninh tới đây giùm tôi.”

    Mông Phong chỉ vào ngực mình, tự giới thiệu: “Mông Phong.”

    Na Tang đáp bằng ngữ điệu trầm khàn: “Na Tang!”

    Mông Phong gật đầu, khoát tay tiếp lời: “Đừng đánh nữa.” – Vừa nói vừa dùng tay ra hiệu – “Họ sắp rời đi rồi.”

    Mông Phong co ngón tay làm thành hình người đang đi, lặp lại: “Sắp rời khỏi.”

    Na Tang hô: “Ni Mã!”

    Mông Phong: “?”

    Na Tang: “Sắc Lang! Ni Mã!” (‘Sắc lang’ trong tiếng hoa là ý chửi háo sắc)

    Mông Phong: “Ni mã hả?”

    Mông Phong vừa mới đụng mặt đã ăn mắng, không khỏi bực mình gắt: “Mi mới là đồ sắc lang! Ni mã!” (‘Mi mới là đồ háo sắc ấy! Cầm thú!’ – Mình không ghi thẳng ra vì trong ngữ cảnh này Mông Phong đang lặp lại theo ngữ âm tiếng Tạng của Na Tang)

    Na Tang: “?”

    Mông Phong chỉ đành phải thở dài đánh thượt, kéo lấy tay Na Tang, vỗ vỗ vai gã rằng: “Đừng kích động vậy chớ…”

    Đám người Tạng phía xa bỗng nhốn nháo cả lên, xoèn xoẹt rút đao!

    “Ấy ấy đừng có vỗ…” – Có tiếng Ninh Ninh vội hô lên từ đằng sau.

    Mông Phong không làm động tác thân mật này thì còn đỡ, ai dè hắn vỗ vai Na Tang xong, gã liền nổi sùng quát tướng: “Ni Mã!”

    Na Tang không nói không rằng, vung tay là đánh, một đấm dộng thẳng vào má Mông Phong khiến khuôn mặt bảnh trai của hắn lập tức biến dạng, trúng một đòn lật ngửa xuống mặt tuyết.

    Mông Phong lúc này cũng bị chọc điên tiết, hắn rống to một câu “Ni mã!” rồi nhào tới, Na Tang trong khi sơ suất bị lãnh trận đòn nặng. Hai kẻ thi nhau tay đấm chân đạp, hăng máu vật lộn.

    Vẻ mặt của Ninh Ninh đúng là rầu đến không nỡ nhìn tiếp.

    Mặc dù vóc người Na Tang vạm vỡ cao lớn, sức lực cuồn cuộn, nhưng gã làm sao địch lại lính đặc chủng am hiểu đánh cận chiến và võ đối kháng tự do như Mông Phong? Mông Phong chỉ cần đưa chân gạt nhẹ một cái, Na Tang đã té đo đất, tay trái Mông Phong nắm cổ áo gã kéo tới, tay phải tung một quyền, đấm gã xoay tít trên không những ba vòng rưỡi mới rớt phịch xuống.

    Đám người Tạng bị dọa sợ luôn rồi, còn nhóm người lưu vong thì xúm đến xem kịch vui, thấy Mông Phong vừa quát “Ni mã! Ni mã!” vừa rượt đánh Na Tang tơi tả.

    Vương Nghị Quân bấy giờ cả giọng hét lên: “Hay lắm!”

    “Cố lên! Cố lên!!” – Nhóm du khách bắt đầu gào thét cổ vũ, thế là dân Tạng cũng ầm ĩ reo hò, trong khi thủ lĩnh phe mình đang bị nhừ đòn mà chẳng có ai lên đỡ giúp, họ đứng hô hào tiếp sức cho Na Tang, không mảy may nản lòng nhụt chí.

    Na Tang chợt hét to một câu gì đó, vừa cười vừa hô thêm vài tiếng, lảo đảo xoay người định bỏ chạy, Mông Phong quát: “Cười cười cái ni mã!” – Liền sau đó hắn sải chân dí theo, đạp gã bay xa hơn năm mét.

    Ninh Ninh ra tiếng can ngăn: “Đừng đuổi nữa! Gã vừa nhận thua rồi…”

    Na Tang xoay mình, cặp mắt trợn ngược, rống lên một tiếng như muốn liều mạng, gã toan rút đao thì bị Mông Phong xông tới túm cổ áo, tay còn lại bốc tuyết đập vào mặt Na Tang, lại nhấc chân đạp vào giữa ngực khiến gã văng tít ra ngoài.

    Chính lúc đó cả đám người Tạng đều phát cuồng, ai nấy căm giận gầm rú đồng loạt vung đao, Vương Nghị Quân vội hô to: “Mau quay về đây!”

    Mông Phong thẩy lại một nụ cười khiêu khích, đoạn xoay phắt chạy về chỗ tường đất, Vương Nghị Quân lập tức ném bom cay, quang cảnh hỗn loạn rối beng. Nhóm dân Tạng cứu được thủ lĩnh của họ, nhanh chóng đưa Na Tang rời đi.

    Chương 75: Pn2(3)

    Ngoại truyện 2: Sông băng – P3

    Vào thời điểm ấy, tại Đạo Thành.

    “Nếu cô không chịu đưa bộ ly hợp ra đây, đừng trách tôi dùng bạo lực ép buộc đấy nhé.” – Lưu Nghiễn dằn mặt.

    Lạp Mỗ ương ngạnh: “Có nói với tôi cũng bằng thừa. Na Tang sẽ không thả các người rời đi.”

    Trương Dân cũng phụ họa: “Một khi cậu ấy bạo lực lên, dù các cô kéo mấy ngàn người đến cũng chẳng đủ cho cậu ấy luyện tay đâu.”

    Lưu Nghiễn chống nạnh đứng dang chân giữa đường: “Hiển nhiên rồi.”

    Lạp Mỗ tiếp: “Nhưng mà, mắc mớ gì họ phải đưa bộ ly hợp cho các anh chứ?”

    Lưu Nghiễn nói: “Các cô hễ mở miệng là chê bai người Hoa gian xảo thế này, ích kỷ thế nọ, rồi thì tự khoe khoang ca ngợi dân tộc thiểu số của mình thành thật chất phác. Vậy những lời vừa rồi chẳng y hệt như loại người mà các cô vẫn thường lên án đó sao? Hay dân tộc thiểu số các cô đối xử với khách khứa như vậy?”

    Lạp Mỗ lập tức nghẹn lời.

    Lưu Nghiễn tiếp: “Tôi cần phải mau chóng quay về xe để xin viện trợ đến Tổng bộ, nhóm tình nguyện viên chẳng biết đang ở nơi nào. Sau khi thu xếp xong chuyện ở đây rồi, Quốc gia sẽ cử quân đội tới trợ giúp mọi người xây dựng lại quê nhà, giải quyết tất thảy mọi vấn đề. Mà cô cứ ở đây trì hoãn dây dưa mãi, chỉ tổ khiến tình hình càng thêm rắc rối.”

    Sau rốt Lạp Mỗ đành bảo: “Được rồi, để tôi đi nói chuyện với Na Tang.”

    Lưu Nghiễn cảm thấy phen này đụng chuyện phiền phức nhất từ trước tới giờ, bạo lực không dùng được, nói lời cũng chẳng xong.

    Nửa tiếng sau Lạp Mỗ trở lại, nói: “Na Tang đã dẫn người ra ngoài tìm Ni Mã rồi, chắc xế chiều mới về được. Các anh nghỉ ngơi trước đi đã.”

    Lưu Nghiễn quả tình bó tay toàn tập, cậu lại thử kết nối máy bộ đàm, vẫn truyền lại tiếng rè rè đứt đoạn, gió tuyết bên ngoài lớn dần làm ngắt quãng đường truyền sóng.

    Lưu Nghiễn: “Lạp Mỗ, sao cô lại thế…”

    Lạp Mỗ ngắt lời: “Tôi hiểu! Tôi hiểu rồi được chưa! Chờ khi Na Tang về, tôi dẫn hai người đi gặp anh ta!”

    Lưu Nghiễn rốt cuộc nổi đóa, hét sa sả vào mặt Lạp Mỗ: “Cái con khỉ ấy! Gặp hắn ta thì ích gì! Ngồi nốc rượu với vương tử Tây Tạng à?! Tôi cần một bộ ly hợp! Bộ ly hợp đó biết chửa! Bố khỉ! Xe của tôi đang mắc kẹt giữa gió tuyết, trên xe lại còn hai người bệnh đang bị say độ cao nữa, mất bộ ly hợp thì tôi không thể lái xe, không thể lái xe thì làm sao tìm đội tình nguyện viên của Quốc gia! Tìm không được đội tình nguyện viên sẽ không biết khẩu lệnh cứu viện! Không biết khẩu lệnh thì tôi chẳng thể xin Tổng bộ cử quân đội đến điều giải! Cô mau nghĩ cách liền cho tôi!!”

    Lạp Mỗ đáp: “Được rồi, lát nữa chúng ta sẽ bình tĩnh bàn chuyện, anh phải nhớ rõ mấy điều quan trọng sau đây.”

    Lưu Nghiễn vò quả đầu rối bù, gắt gỏng: “Nói đi, trông cô có vẻ là người rất hiểu chuyện, mà sao lại hồ đồ thế hả?”

    Thế rồi Lạp Mỗ thình lình quát to: “Một cô gái dân tộc Nạp Tây như tôi sống giữa nhóm người Tạng bộ dễ dàng lắm hả?!”

    Lưu Nghiễn giục: “Mau nói đi nói đi…”

    Lạp Mỗ: “Khi gặp Na Tang phải nói chuyện đàng hoàng, người Tạng sẽ gọi anh là ‘sắc lãng’! Ý như khen bảnh trai vậy đó, anh chỉ cần cười đáp lại là được. Người Tạng cho rằng, trên vai mình có hai vị thần Võ, nên không thể tùy tiện vỗ vai được đâu, bằng không họ sẽ nghĩ anh đang sỉ nhục, hoặc muốn so tài, thi đấu với họ.” (Tới đây đã hiểu, Mông Phong nghe nhầm thành ‘sắc lang’ rồi tưởng mình bị chửi, còn vỗ vai người ta để bị ăn đập =)))

    Lưu Nghiễn nói: “Rồi, hiểu rồi, thế tôi phải nói gì đây?”

    “Phần còn lại tôi sẽ phiên dịch cho anh, bây giờ cứ kiên nhẫn chờ thêm chốc đã.”- Dứt lời Lạp Mỗ liền rời đi.

    Lưu Nghiễn đứng giữa trời gió tuyết buốt lạnh, có loại cảm giác như lâm vào cùng đường bế tắc.

    Trương Dân đề nghị: “Hay tụi mình đi trộm một bộ ly hợp.”

    Lưu Nghiễn bảo: “Vậy thì dạo lòng vòng tìm xem, khỏi nhùng nhằng với đám người kia nữa, trộm được thì đi ngay. Ở phía Nam thành phố hình như có cửa hàng phụ tùng, qua đó nhìn thử.”

    Cũng trong lúc đó, Na Tang bị đập te tua tơi tả kéo theo đám bộ hạ nước mắt nước mũi tèm nhèm vì sặc bom cay trở về.

    “Ni Mã!!!” – Na Tang ngồi trong lều trướng phẫn uất đến chảy lệ nóng.

    Dân Tạng lục tục tiến vào, cảm thông nói đôi câu gì đó, thế là Na Tang thoắt cái trợn trừng mắt, đứng bật dậy lao vọt ra khỏi lều, trông thấy một chiếc xe máy đậu ở phía xa.

    Một người đàn ông trung niên đứng đó, ôm bé Côn thả xuống đất, cậu bé vui sướng gọi to, chạy nhào tới ùa vào lòng Na Tang.

    Na Tang: “ Ni—Mã—!!!”

    Bé Côn: “Ba—!!!”

    Mông Kiến Quốc khẽ cười, tháo kính râm đi tuyết xuống, nói với nhóm người phía trước: “Có người nào biết tiếng Hoa không? Tôi thuộc đội viện trợ hậu chiến của Quốc gia…”

    Dân Tạng nhìn Mông Kiến Quốc với ánh mắt không mấy thân thiện, họ rỉ rả thầm thì, tụ tập chỉ trỏ.

    Mông Kiến Quốc chẳng hiểu ra làm sao, trong khi Na Tang và con trai đang bận ôm ấp khóc lóc, Mông Kiến Quốc đành phải đi lên vài bước, lễ độ cất lời: “Xin hỏi, anh là người đứng đầu nơi này phải không?”

    Na Tang đưa mắt ngó Mông Kiến Quốc một cái, phút chốc bày ra vẻ mặt kinh sợ, cộng thêm chút oán hận, thế rồi cười sang sảng trong nỗi rối rắm phức tạp. Gã ôm con trai mình, đưa Mông Kiến Quốc tiến vào căn lều Tây Tạng.

    Mông Kiến Quốc vốn biết rõ người Tây Tạng rất nhiệt tình hiếu khách, nên không hề từ chối mà bước vào lều ngồi sưởi ấm. Lát sau có người bưng thịt dê quay lên, Mông Kiến Quốc thầm nhủ nhập gia tùy tục, rồi ăn luôn.

    Lại có người bưng thêm rượu và khoai tây, Mông Kiến Quốc ngừng ăn, đưa tay ra dấu muốn hỏi: “Người Hoa, ở đây có người Hoa không?”

    Na Tang vỗ vỗ lên tay Mông Kiến Quốc, đưa ly rượu lên ý bảo ông uống đi, Mông Kiến Quốc hết cách, đành phải ngồi uống rượu cùng gã.

    Ngày mai hẵng điều tra chuyện ở đây cũng chưa muộn, xem tình hình này, chắc trong Đạo Thành cũng có khá nhiều người.

    Na Tang liến thoắng nói luôn mồm, ấy mà Mông Kiến Quốc nghe chả hiểu mô tê gì cả, chỉ còn nước cười trừ cho xong. Hai người cứ thế chén tạc chén thù, tu rượu ừng ực, mãi đến khi Na Tang say trước, gục đầu xuống chiếc bàn thấp.

    Mông Kiến Quốc ra tiếng gọi: “Người anh em.” – Ông đẩy Na Tang một cái, nhưng gã say đến không biết trời trăng gì rồi.

    Mông Kiến Quốc ngẩng đầu nhìn quanh, phát hiện ngoài lều có rất nhiều người Tạng đang đứng, vẻ mặt ai nấy đều căng thẳng như gặp kẻ thù, chằm chặp dán mắt dè chừng ông.

    Chuyện gì thế nhỉ? Mông Kiến Quốc cũng ngà ngà say, rượu làm từ lúa mì Thanh Khoa mới uống vào thơm ngọt mát lành, nhưng lại thấm men từ từ. Mông Kiến Quốc day day ngón tay lên trán, đeo cặp kính râm gọng to, định bụng ra ngoài tìm chỗ ngủ qua đêm. (Lúa mì Thanh Khoa là loại lương thực chỉ có ở Tây Tạng, người dân Tạng thường dùng rượu làm từ loại lúa mì này để tiếp đãi khách.)

    Ông còn chưa kịp ngồi dậy thì có một cô gái dân tộc Tạng bước vào trong lều, khẽ giọng nói một câu: “Trát tây đức lặc(1).”

    (1) “Trát tây” (tashi, bkra shis) mang ý cát tường, “Đức lặc” (delek, bde legs) có ý tốt đẹp, kết hợp lại có thể phiên dịch thành “Hoan nghênh” hoặc “Cát tường như ý”.

    Mông Kiến Quốc cũng chắp tay, từ tốn lịch sự đáp lời: “Trát tây đức lặc.”

    Cô gái dân tộc Tạng mắt ngời sáng, Mông Kiến Quốc lại tiếp: “Có nơi nào để tôi nghỉ tạm một đêm không?”

    Cô gái làm một động tác “mời”, rồi dẫn Mông Kiến Quốc ra khỏi lều trướng. Trời gần vào đêm, gió lạnh vù vù thốc tới, Mông Kiến Quốc đảo mắt nhìn đám người chung quanh, họ tự động tách ra một lối đi cho ông.

    Mông Kiến Quốc vẫn cảm thấy nơi này có chút bất thường. Cô gái nọ đưa ông vào căn lều khác, bưng nước ấm đến cho ông rửa mặt rửa tay, lại còn hầu hạ ông cởi quần áo.

    Mông Kiến Quốc không chối từ, tùy ý để cô gái lau tay cho ông, rồi hỏi: “Chẳng có lấy một người biết tiếng Hoa sao?”

    Khuôn mặt cô gái ửng đỏ, khẽ giọng nói đôi câu.

    Mông Kiến Quốc thở hắt ra một hơi dài, bắt lấy bàn tay cô gái đang sờ tới bên hông mình: “Để tôi tự làm, cảm ơn.”

    Cô gái ngồi sang một bên nhìn Mông Kiến Quốc, ông làm một động tác tay, tỏ vẻ cô có thể ra ngoài được rồi. Song cô gái vẫn chưa rời đi.

    Thế là Mông Kiến Quốc cũng để mặc cô, tự cởi áo khoác, trên mình chỉ mặc áo len sát nách và chiếc quần dài rằn ri, để lộ cánh tay trần cường tráng, ông khom người tháo giày lính và nằm duỗi mình trên giường.

    Cô gái bèn đứng dậy thổi tắt đèn bơ(2) rồi xoay người bước ra, tiếp đó bên ngoài vọng tới tiếng quát nạt tức giận, sau trận mắng chửi hồi lâu, cô gái lại vén rèm cửa đi vào, ngồi thu lu trong một góc lều.

    (2) Đèn bơ:productphoto

    Mông Kiến Quốc nghe thấy tiếng cô gái rấm rứt khóc giữa màn đêm, chân mày khẽ giần giật, đoạn ông ra tiếng: “Tới đây đi.”

    Cô gái kia lọ mọ đến bên chiếc giường, Mông Kiến Quốc nhường ra một chỗ trống cho cô nằm xuống cạnh mình. Sau mấy ngày liên tục bôn ba vất vả, giờ thì cơm no rượu say, nên chẳng mấy chốc ông đã chìm vào giấc ngủ.

    Nhưng chưa được bao lâu, Mông Kiến Quốc cảm thấy cô gái ở bên cạnh khẽ khàng cử động, ông lập tức tỉnh ngủ.

    Cô ta muốn gì?

    Cô gái Tây Tạng phát run, trở mình ôm lấy thắt lưng Mông Kiến Quốc rồi chồm lên người ông, nhẹ hôn lên môi ông, thấp giọng nói một câu.

    Mông Kiến Quốc vờ như đang ngủ say, lại nghe tiếng động loạt xà loạt xoạt, cô gái ngồi trên giường rút ra một sợi dây.

    Mông Kiến Quốc: “?”

    Cô gái kéo sợi dây vòng xuống dưới giường, nức nở khóc thầm trong bóng tối, dùng sợi dây đó trói Mông Kiến Quốc vào chiếc giường.

    Mông Kiến Quốc: “…”

    Ông tiếp tục nằm bất động, để cô gái quấn sợi dây hết vòng này đến vòng khác trói ông thật chắc chắn, xong xuôi cô mới bỏ ra bên ngoài.

    Mông Kiến Quốc mở mắt, nghiêng đầu ngó quanh căn lều tối om, nhíu mày đầy nghi hoặc, đoạn ông dùng một tay móc ra chùm chìa khóa trong túi quần rằn ri, đè nó xuống mép giường bắn ra một lưỡi dao găm, bắt đầu chầm chậm cắt sợi dây.

    Còn lúc này ở bên kia Đạo Thành,

    Lưu Nghiễn ôm bộ ly hợp gỡ xuống từ một chiếc xe, giấu xuống ven đường rồi làm ký hiệu, bảo rằng: “Ngoài này tuyết lớn quá, mà quãng đường về còn xa lắm.”

    Trương Dân nói: “Vậy để tôi chôm một chiếc xe, cậu chờ ở đây nhé.”

    Lưu Nghiễn tiếp: “Thôi cứ đi cùng nhau.”

    Hai người rời khu Nam thành phố tiến về nơi dân Tây Tạng cư ngụ, Lạp Mỗ nhác thấy họ thì vội vàng chạy tới bảo: “Na Tang đánh nhau bị thua nên tâm trạng giờ rất tệ. Hôm nay không thể gặp anh ta được.”

    Lưu Nghiễn hỏi: “Bên kia đang làm gì thế?”

    Theo tầm nhìn của Lưu Nghiễn, trông thấy rất nhiều phụ nữ đang khóc lóc, dân Tây Tạng gây ồn ào náo động cả lên.

    Lạp Mỗ giải thích: “Ni Mã quay về rồi, tôi đảm bảo, chắc chắn ngày mai có thể giải quyết chuyện của các anh.”

    Lưu Nghiễn đã chẳng thèm bận tâm nữa, chỉ hỏi: “Ừm, làm sao thằng bé về được?”

    Lạp Mỗ đáp: “Cũng không rõ lắm, nghe nói họ bắt được một tù binh và nhốt trong căn lều đó. Giờ tôi đi tìm chỗ ở cho các anh, nhớ đừng tới gần đằng kia nha.”

    Chờ Lạp Mỗ xoay người rời khỏi, Lưu Nghiễn dứt khoát bảo: “Trương Dân, mình đi nào. Bên kia có chiếc xe.”

    Trương Dân khom mình núp sau căn lều, kéo Lưu Nghiễn chạy dọc theo rìa khu lều trại, vòng qua tay lính tuần tra người Tạng, thấy một chiếc mô tô quân dụng trên bãi đất trống.

    “Hàng quân đội sao?” – Trương Dân nhíu mày hỏi – “Lấy nó chạy luôn hả?”

    Lưu Nghiễn: “Lại còn là thiết kế được sửa đổi bởi nhà xưởng Khu số Sáu nữa chứ… Tôi biết rồi, đây chính là chiếc mô tô của tình nguyện viên! Họ bắt được một người thì phải? Đi ngó thử.”

    Trương Dân bảo: “Cậu xem cái lều kia kìa.”

    Lưu Nghiễn dõi mắt theo hướng Trương Dân chỉ, trông thấy hai gã đứng canh bên ngoài căn lều Tây Tạng nhỏ.

    “Tôi đánh phủ đầu, anh yểm trợ nhé.” – Lưu Nghiễn nói.

    “Cậu cẩn thận đấy.” – Trương Dân đảo họng súng bắn tỉa.

    Lưu Nghiễn đút hai tay vào túi áo khoác, thong thả đi lên trước.

    Tay lính canh vừa phát hiện người lạ đã cao giọng quát to, đe dọa Lưu Nghiễn chớ đến gần, nhưng cậu vẫn bình tĩnh như thường, gật đầu chào: “Trát tây đức lặc!”

    Lúc tay lính canh còn bận kinh ngạc thì Lưu Nghiễn mau lẹ chen qua, người Tạng vội nhào tới, Lưu Nghiễn lách mình né đi, rút dùi cui điện trong túi chích vào hai người khiến họ co giật ngã đụi ra đất, mắt trợn tròng.

    “Có ai không?” – Lưu Nghiễn cất giọng hỏi dò trong bóng tối.

    Lưu Nghiễn ấn nút, đèn pin gắn ở đầu dùi cui điện bật sáng, cậu lia đèn chung quanh một lượt, rồi đổi thành kiểu phát quang phân tán, chiếu sáng khắp căn lều Tây Tạng. Khi ánh đèn soi rõ người ở trên giường, khóe môi Lưu Nghiễn không khỏi giần giật run rẩy, bắt gặp Mông Kiến Quốc lỏa lồ nửa thân trần rắn rỏi, đang nằm trên giường cắt dây trói.

    Mông Kiến Quốc: “…”

    Lưu Nghiễn: “…”

    Lưu Nghiễn mặt không đổi sắc: “Đồng chí tình nguyện viên, quý ngài ở đây chụp album đặc tả trai đẹp trói khỏa thân à.”

    Mông Kiến Quốc: “Gọi tôi là ba… Coi chừng sau lưng kìa…”

    Lưu Nghiễn xoay lại giơ tay chặn một người vừa xông lên, đổi đầu dùi cui điện chích người nọ ngã giật xuống đất.

    Mông Kiến Quốc: “Chuyện này quả thực rất khó giải thích.”

    Lưu Nghiễn: “Con hiểu mà… Mới nãy sém chút con đã tưởng ba là Mông Phong, còn sững sờ mất nửa giây.”

    Lưu Nghiễn chớp thời cơ lấy máy chụp hình trong balo ra, hướng về phía Mông Kiến Quốc đương trần trụi nửa người trên bị dây trói quấn chặt, đèn flash chớp nhá liên hồi.

    Sau rốt Mông Kiến Quốc cũng cắt đứt sợi dây, vội vã cởi bỏ ném đi, ông cáu giận hét: “Đừng có chụp!”

    Chỉ phút chốc ngắn ngủi, sự việc trong lều đã đánh động nhóm người bên ngoài, Trương Dân đang dựa lưng vào vách lều vung tay đánh nhau với người Tạng. Mông Kiến Quốc mặc đồ đàng hoàng thì lao nhanh ra như gió, đeo kính râm quát hỏi: “Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì vậy hả?! Đừng đánh nữa!”

    Người tụ tập mỗi lúc một đông, Lưu Nghiễn thò tay kéo áo Trương Dân, hai người núp sau lưng Mông Kiến Quốc. Lại có hơn chục người xông đến, Mông Kiến Quốc bẻ khớp tay kêu răng rắc, liền sau đó vọt vào đám người hệt sư tử vồ mồi, trổ các ngón nghề quyền cước, thoáng cái là quét ngã hơn nửa số người. Lạp Mỗ sốt sắng chạy tới hô to: “Khoan hẵng đánh!”

    Lưu Nghiễn nhiệt tình cổ vũ: “Ba! Đừng dừng lại! Cố gắng lên!!”

    Tốc độ của Mông Kiến Quốc nhanh như chớp, linh hoạt di chuyển giữa rừng đao Tạng sắc loang loáng, không ai có thể đến gần ông, người vây đánh chỉ mới chạm được vạt áo đã bị đập gục. Một lát sau Na Tang siết chặt thanh đao Tây Tạng, gầm lên một tiếng rống giận dữ, kéo khuôn mặt bầm dậm sưng vù lao đến, vung đao bổ thẳng xuống đầu ông!

    Mông Kiến Quốc bật lùi ra sau, quay chân đá vào cổ tay Na Tang, khiến thanh đao Tây Tạng vuột khỏi tay gã xoay tròn bay tới, Mông Kiến Quốc chụp lấy cán đao, múa vun vút hai chiêu vẽ thành một vòng trước người.

    Ai nấy đều lui bước, Na Tang đứng thở dốc hồng hộc.

    Bé Côn bỗng ào ra từ trong đám người, cao giọng nói gì đó với Na Tang, thế rồi chạy ngược về phía Mông Kiến Quốc, ôm cứng lấy chân ông.

    “Ni Mã!” – Na Tang tức giận gắt.

    Mông Kiến Quốc đưa thanh đao Tây Tạng cho bé Côn, để bé trả lại cho cha, ông trầm giọng cất lời: “Hiện giờ có thể nói chuyện rồi đấy, này cô, xin hãy giải thích rõ ràng sự việc đi.”

    Lạp Mỗ chầm chậm thở dốc, trên mặt đất có gần hai chục người nằm sóng soài, những người còn lại cầm đuốc vây thành một vòng.

    “Họ nói trong đám du khách lưu vong, phát hiện một người giống hệt ông.” – Lạp Mỗ nói – “Đoán chắc hai người là anh em ruột, nên Na Tang mới ngờ vực ông là gian tế đến nằm vùng, định bắt giữ ông lại.”

    Mông Kiến Quốc đeo găng tay hở ngón vào, không ngẩng đầu lên mà đáp: “Nó là con trai tôi, trước khi đến đây tôi chưa hề chạm mặt bọn nó.”

    Lưu Nghiễn khẽ thậm thụt với Trương Dân: “Nghe người khác bảo ba và Mông Phong là anh em trai, chắc mẩm trong bụng sướng rơn luôn.”

    Mông Kiến Quốc: “…”

    Trương Dân: “Đúng mà, ông ấy nhìn còn trẻ lắm. Sao chẳng có ai tưởng tôi và Quyết Minh là anh em nhỉ.”

    Lưu Nghiễn: “Mới nãy tôi chụp được một thứ hay ho lắm, anh coi nè…”

    Mông Kiến Quốc tiếp: “Nơi này không có tín hiệu, cần phải tìm một tháp phát sóng để truyền thông tin đến Tổng bộ xin trợ giúp hậu chiến. Tiện thể đưa các du khách xuống núi… Lưu Nghiễn! Xóa sạch mấy tấm hình kia ngay, tôi nghiêm túc đấy nhé!”

    Lúc này ở chùa Trùng Cổ:

    Mông Phong hỏi: “Gã cứ kêu ‘ni mã, ni mã’, đó là cái quái gì?”

    Ninh Ninh giải thích: “ ‘Ni mã’ trong tiếng Tạng có nghĩa là ‘Thái dương’.”

    Mông Phong vỗ đùi cái đét: “Hèn chi! Mẹ kiếp! Thì ra gã đang chửi ‘Nhật’.” (Chữ ‘Nhật’ đồng nghĩa với ‘Thái dương’, ngữ cảnh này đang nhắc tới nước Nhật, thì là, vốn dĩ hồi xưa phát xít Nhật đánh Trung Quốc, nên người Hoa giờ vẫn… ừm…)

    Ninh Ninh: “Không phải thế… khả năng trong số họ có người tên là Ni Mã.”

    Mông Phong khoát tay: “Khỏi giải thích lằng nhằng, nhất định là mắng chửi người khác rồi.”

    Quyết Minh đang đứng bên ngoài cầm bộ đàm điều chỉnh tần số, Vương Nghị Quân ra tiếng: “Có thấy phản hồi gì không?”

    Quyết Minh: “Tín hiệu chỗ này yếu quá, phải đến tháp phát sóng mới được.”

    Vương Nghị quân nói: “Vậy chúng ta đi, có một tháp phát sóng ở khu bảo tồn thiên nhiên chùa Trùng Cổ, cũng gần đây thôi.”

    Tuyết đã ngừng rơi, khắp mặt đất phủ màu trắng mênh mang, Mông Phong thử máy bộ đàm, hỏi: “Lưu Nghiễn, em có đó không? Nghe được trả lời.”

    Giọng Lưu Nghiễn truyền đến từ đầu bên kia: “Có đây, các anh đang ở đâu thế? Em vừa lấy được bộ ly hợp, tìm thấy tình nguyện viên luôn.”

    Mông Phong đáp: “Bọn anh gặp một nhóm du khách, đang trên đường đi đến tháp phát sóng, người của họ đã sửa xe giùm chúng ta.”

    Lưu Nghiễn: “Đúng lúc bọn em cũng định tới đó, vậy tập hợp ở tháp phát sóng nhé, lấy được khẩu lệnh rồi.”

    Mông Phong tắt bộ đàm, bảo rằng: “Bạn tôi tìm được tình nguyện viên rồi, chúng ta có thể ở lại chỗ tháp chờ người của quân đội đến. Theo như tốc độ lúc trước, sẽ không vượt quá mười hai tiếng đâu.”

    Vương Nghị Quân thở một hơi nhẹ nhõm, nói: “Mọi người cùng đi một thể, cõng theo lều bạt, còn vật dụng không cần thiết cứ bỏ lại! Gọn nhẹ hết mức có thể!”

    Nhóm du khách ồ lên reo hò mừng rỡ.

    Đến nửa đêm, mọi người đã thu dọn xong hành trang, đeo balo du lịch, bắt đầu rời khỏi chùa Trùng Cổ. Vương Nghị Quân và Mông Phong đi bộ dẫn đầu đoàn người, Quyết Minh thì lái xe chạy men theo đường cái ở phía trước.

    Đội ngũ hơn bốn trăm người rồng rắn bước đi, mãi lúc bình minh mới đến được tháp tín hiệu.

    Mặt Trời dâng lên, ánh nắng cao nguyên chói chang mà bợt bạt, chiếu rọi cả vùng đất tĩnh lặng.

    Hai nhóm người tụ hợp dưới chân tháp phát sóng, dân Tây Tạng và các du khách chia thành hai phe rõ rệt.

    Mông Phong chợt hỏi: “Còn bom cay nữa không?”

    Vương Nghị Quân đáp: “Hết sạch, hôm qua đã xài quả cuối cùng rồi.”

    Mông Kiến Quốc phanh thắng mô tô, Trương Dân và Lưu Nghiễn lần lượt xuống xe.

    Quyết Minh hô gọi: “Ba ơi!”

    Trương Dân bảo: “Ừa! Con chờ một chút, xong liền đây.”

    Mông Kiến Quốc gỡ kính râm xuống, Mông Phong trợn tròn mắt kinh ngạc kêu lên: “Sao ba lại ở đây?”

    Mông Kiến Quốc đáp: “Ba là tình nguyện viên phục vụ hậu chiến, còn mấy đứa thì sao? Đến du lịch à?”

    Nhất thời Mông Phong thiệt không biết nên trả lời kiểu gì.

    Mông Kiến Quốc lại cùng Lưu Nghiễn, Trương Dân mở balo lấy máy liên lạc, sau đó ông đến chỗ tháp tín hiệu, chuẩn bị leo lên đó.

    Trương Dân nói: “Hay để tôi làm cho.”

    Mông Kiến Quốc từ chối: “Chuyện nhỏ.”

    Mông Phong đứng ngó một chặp, ngoắt bảo: “Lưu Nghiễn, qua đây.”

    Lưu Nghiễn bực mình: “Sao không phải là anh tới đây?”

    Mông Phong: “Em phải qua đây chứ, bên này toàn là người mình cả.”

    Người dân Tạng tức giận hú hét, Lưu Nghiễn ngoái đầu nhìn một cái, lại nói với Mông Phong: “Anh nên qua chỗ em mới đúng, ba của anh đang ở đây cơ mà!”

    Vương Nghị Quân ra tiếng: “Nếu các anh quen nhau thì đỡ rồi, cùng thương lượng chút nào, người đại diện bên kia đâu?”

    Na Tang bước ra, đi đến vùng đất trống giữa hai nhóm người, cao giọng nói mấy câu, Lạp Mỗ cũng đi theo thuật lại: “Các người làm ô uế chùa Trùng Cổ, cướp bóc lương thực, lại còn bắt cóc trẻ em dân tộc tôi! Hôm nay sẽ thanh toán rõ ràng! Không ai được phép bỏ đi!”

    Vương Nghị Quân nói: “Đây là chuyện bất đắc dĩ thôi, sư Trát Ba đánh đổi mạng sống của mình để bảo vệ chúng tôi, mọi người đâu phân biệt lẫn nhau chứ, cũng vì các người đuổi chúng tôi khỏi Đạo Thành trước.”

    Lạp Mỗ phiên dịch xong, Na Tang lại kích động thốt vài câu, Lạp Mỗ nói: “Các người mang bệnh dịch tới, hại chết rất nhiều người nhà chúng tôi!”

    Mông Phong dài giọng như kiểu rất đáng tiếc: “Thấy chưa, bọn họ căn bản đâu thèm nói lý.”

    Lưu Nghiễn phản bác: “Anh thôi đi, ngay cả việc nhập gia tùy tục anh còn chẳng hiểu, mới nãy trên đường đến đây em có nghe họ kể, anh dư hơi quá đi vỗ vai người ta, chưa biết không được phép vỗ vai người dân tộc Tạng hả…”

    Mông Phong: “Em không bước sang đây mà nói được à?”

    Lưu Nghiễn: “Mắc mớ gì em phải qua! Ba anh vừa cứu con trai Na Tang đó, đáng lẽ anh mới là người qua đây…”

    Mông Phong: “Em học theo Quyết Minh người ta đi, ngoan ngoãn nghe lời một chút thì chết sao?”

    Lưu Nghiễn: “Xin thưa Trung Úy Mông Phong, Trương Dân đang ở bên này nè, anh ấy cũng đâu kêu Quyết Minh đi qua! Anh có nói vậy không hả Trương Dân?”

    Quyết Minh ở đằng xa gọi vọng tới: “Ba, tới đây!”

    “Ừa.” – Trương Dân tủm tỉm đáp – “Tới liền tới liền.”

    Trương Dân nhanh chóng đi đến.

    Na Tang cáu giận đến đỏ mặt tía tai.

    Lạp Mỗ phiên dịch tiếp: “Anh ta cho rằng các người đã hại chết sư Trát Ba…”

    Vương Nghị Quân ngắt lời: “Vô lý!”

    Lạp Mỗ nói thêm: “Ừm… tôi cũng thấy chuyện đó hơi vô lý.”

    Mông Phong tức tối hét: “Em coi kìa, mấy tên không biết lý lẽ này toàn chụp mũ vu khống người khác, nghe thấy chưa?”

    Na Tang cũng điên tiết mắng to, Lạp Mỗ tiếp: “Nếu không tại các người mang bệnh dịch đến, thì sư Trát Ba đã không chết vì bảo vệ mọi người.”

    Lưu Nghiễn nói: “Anh nghe thủng chưa? Họ đang sinh sống yên lành ở đây, cách biệt với thế giới bên ngoài, rồi đột nhiên có một đám người lạ xâm nhập quê hương họ. Giống như anh đang ở nhà mình, vui vẻ ăn lẩu hát ca, mà tự dưng có người bị bệnh truyền nhiễm chạy xồng xộc vào nhà anh, không những giật mất nồi lẩu bên miệng anh mà còn đánh lộn với anh nữa…”

    Mông Phong: “Khách du lịch cũng góp phần phát triển kinh tế vùng này cơ mà! Đừng bảo với anh là, em mở rộng cửa chào đón người ta vào tham quan nhà rồi thu tiền vé cho đã, đến khi mắc bệnh thì đổ trách nhiệm lên đầu khách, đó là chi phí phát sinh.”

    Lưu Nghiễn: “Ồ, anh còn biết cả chi phí phát sinh cơ á? Thế đã hiểu chưa? Vấn đề ở đây là đứng ở lập trường nào để nhìn nhận sự việc mà thôi, chẳng có ai là đúng sai tuyệt đối hết, đồ gấu – chó – ngốc!”

    Mông Phong: “Ê Lưu Nghiễn! Láo vừa thôi nhé!”

    Lưu Nghiễn: “Em nói sự thiệt thôi chứ bộ…”

    Mông Phong quả tình tức đến nghẹn họng. Bấy giờ Mông Kiến Quốc đã leo lên cao, giọng nói của ông vọng lại từ phía xa: “Gọi Tổng bộ hậu chiến của Quân khu Tây Nam Thành Đô, gọi Tổng bộ…”

    Mông Phong: “Coi chừng bọn họ thả chó ngao Tây Tạng cắn em… Lưu Nghiễn! Tới đây ngay cho anh! Đừng nhập bọn hùa theo họ nữa! Bằng không thì…”

    Lưu Nghiễn: “Anh hết bị say độ cao rồi chứ gì? Thừa sức lực dọa nạt người khác đúng không? Anh đừng bước qua đây, tôi cảnh cáo anh đó.”

    Mông Phong hùng hổ xắn tay áo: “Coi chừng anh đập em à nha.”

    Lưu Nghiễn: “Tới luôn đi! Dám đánh bà xã ngay trước mặt ba, để rồi xem ông ấy nói sao…”

    Mông Kiến Quốc: “Đây là tình nguyện viên Mông Kiến Quốc, đã phát hiện hơn bốn trăm người trú ẩn ở vùng Cam Tư, họ đang nảy sinh xung đột với dân địa phương, xin mau chóng cử quân đội tới hòa giải, đưa mọi người về…”

    Mông Phong nổi khùng thét: “Lưu Nghiễn!”

    Lưu Nghiễn: “Ngon nhào qua! Lần nào cũng giỏi bô bô cái mồm, đợt trước có cái khung ảnh trong phòng làm việc không tự tìm được còn bày đặt mạnh miệng bảo phải chia tay…”

    Mông Phong: “Rõ ràng tại em cất trong ngăn kéo…”

    Lưu Nghiễn: “Nhưng tôi đã nói với anh còn gì! Tại anh không nhớ thì có…”

    Mông Phong: “Em… Ni mã!”

    Lưu Nghiễn: “???”

    Na Tang và Vương Nghị Quân ngừng tranh cãi, họ trố mắt ngó Lưu Nghiễn và Mông Phong càng tiến càng gần, chuẩn bị sống mái một trận với nhau.

    Lưu Nghiễn cũng xắn tay áo, móc ra dùi cui điện, phe dân Tạng đằng sau lao nhao ầm ĩ, lớn giọng gào rú.

    Còn bên Vương Nghị Quân có kẻ nhận ra quan hệ của hai người, đứng từ xa cười bảo: “Ê này, chiều vợ riết quen thói đấy! Biết chửa? Phải dạy dỗ mới được!”

    Mông Phong và Lưu Nghiễn đồng thanh quát: “Nín ngay! Liên quan gì nhà ông!”

    Mọi người phá lên cười váng.

    Mông Kiến Quốc vừa liên lạc với Quân khu Thành Đô xong, khi xuống tới nơi bèn cất giọng: “Lúc trước tôi nghe kể, bởi vì một vụ mâu thuẫn mới dẫn đến xung đột sau này.”

    Mông Kiến Quốc tháo kính râm, ngồi lên một tảng đá, tiếp lời: “Tóm lại đã nảy sinh mâu thuẫn thế nào?”

    Lạp Mỗ phiên dịch lại, Na Tang sau khi nghe xong thì hít một hơi thật sâu, đoạn quay sang phe mình hô gọi một tiếng.

    Lưu Nghiễn trừng mắt nhìn chằm chặp Mông Phong như có thù ba kiếp, Mông Phong dịu giọng: “Thôi mà thôi mà, đi mau lên, chuẩn bị lên xe.”

    Mông Phong đón lấy bộ ly hợp, rồi túm Lưu Nghiễn kéo qua một bên.

    Từ trong nhóm người Tạng có một chàng trai cao to anh tuấn đi ra, Na Tang đưa mắt nhìn Mông Kiến Quốc nói mấy câu, Lạp Mỗ dịch: “Người này tên là Ninh Cổ Nhân Ba Thiết.”

    Mông Kiến Quốc gật đầu, Vương Nghị Quân lại nói: “Tiểu An, tới đây!”

    Mông Kiến Quốc liếc mắt xem đồng hồ đeo tay, bảo: “Đội trực thăng tiếp viện của Quân khu sẽ đến sau hai tiếng nữa, trong khoảng thời gian này không nên kéo bè đập lộn, chờ khi quân đội đến thì các anh muốn đấm đá kiểu nào cũng được. Nói đi, là mâu thuẫn gì?”

    Tiểu An nom vẻ thanh tú trắng trẻo, đứng bên cạnh Vương Nghị Quân, ra tiếng: “Tôi là một nhiếp ảnh gia, năm ngoái tới Đạo Thành Á Đinh, quen biết khá nhiều bạn bè dân tộc Tạng.”

    Ninh Cổ Nhân Ba Thiết lầu bầu gì đó, nét mặt toát ra vẻ căm giận hòa lẫn thất vọng.

    Tiểu An nói: “Trong số đó có anh Nhân Ba Thiết này. Một lần tôi đi chụp ảnh trên thảo nguyên thì lạc đường rồi bị bầy sói vây đuổi, không tìm được đường về. Anh ấy đeo cung tên chạy đến cứu tôi, còn đưa tôi về nhà anh ấy mời uống rượu, tuy rằng ngôn ngữ bất đồng, nhưng chúng tôi vẫn tin tưởng lẫn nhau.”

    Nhân Ba Thiết nói: “Mi không phải, không phải người tốt!”

    Mông Kiến Quốc hơi nhướn mày. Trương Dân và Quyết Minh cũng xuống xe đi tới, lắng nghe câu chuyện tranh chấp giữa đôi bên, quan sát Mông Kiến Quốc xem ông giải quyết bằng cách nào.

    Mông Kiến Quốc hỏi: “Tại sao? Các cậu đều không là người xấu, đừng nên nói thế.”

    Lưu Nghiễn thấp giọng bảo: “Nhìn nè Quyết Minh, có hình chụp trói khỏa thân…”

    Quyết Minh hớn hở xáp vào: “A! Đẹp trai quá đi mất! Cơ bắp chắc nịch hà!”

    Mông Kiến Quốc: “Lưu Nghiễn!!”

    Tiểu An tiếp lời: “Lúc đó hai chúng tôi đều uống say cả, tôi say mèm chẳng biết trời trăng gì luôn, Nhân Ba Thiết lại nói muốn kết nghĩa anh em với tôi.”

    Mông Phong chen ngang: “Đấy chẳng phải chuyện tốt sao? Thế đã kết nghĩa chưa?”

    Nhân Ba Thiết nhìn Tiểu An đầy bất mãn, Tiểu An đáp: “Kết nghĩa rồi… chắc vậy, anh ta còn bảo muốn tặng quà cho tôi. Sáng hôm sau, tôi tỉnh rượu mà đau đầu kinh khủng, anh ta kéo tôi vào một căn lều, kêu tôi cởi quần áo… xông hương cho tôi…”

    Mọi người: “…”

    Nhân Ba Thiết lại nói vài câu, Tiểu An lùi xuống một bước, Lạp Mỗ dịch ra: “Nhân Ba Thiết muốn tặng vợ mình cho… cậu anh em kết nghĩa Tiểu An này.”

    Hai mắt Mông Phong trợn tròn, khóe miệng Mông Kiến Quốc giựt giựt, cả nửa buổi không bật ra nổi một chữ.

    Tiểu An lập tức phân bua: “Tất nhiên tôi đã từ chối… rồi anh ta tiễn tôi về Đạo Thành. Có một hôm anh ta đến Đạo Thành tìm tôi uống rượu, tôi vui vẻ cầm tiền đi mua rượu chiêu đãi anh ta, thứ gì tốt nhất cũng đưa ra chia sẻ, vậy mà… anh ta cứ mê mẩn dán mắt vào bạn gái tôi.”

    Lưu Nghiễn và Quyết Minh phá ra cười lăn lộn, Mông Kiến Quốc cũng đoán được chuyện tiếp diễn thế nào, ông nói: “Anh ta đòi cậu đưa bạn gái cho mình chứ gì, đúng không?”

    Tiểu An gật đầu: “Đương nhiên là tôi không chịu, thế là anh ta nổi giận muốn đoạn tuyệt quan hệ với tôi. Về sau có lần tôi bị chó ngao Tạng đuổi cắn, do chính anh ta bày trò…”

    Nhân Ba Thiết tức tối lớn tiếng chửi bới, toan rút đao Tạng chém người, Lạp Mỗ vội vàng can ngăn anh ta, lại nói: “Nhân Ba Thiết nghĩ rằng, anh ta lấy thứ tốt nhất của mình ra làm quà cho Tiểu An, nhưng Tiểu An vốn dĩ không thèm coi mình là anh em tốt, nên rất hối hận vì đã cứu cậu ta.”

    “Việc này.” – Mông Kiến Quốc thiệt không biết nói sao cho phải – “Đúng là có chút khó xử.”

    “Không.” – Mông Phong một tay ôm Lưu Nghiễn, một tay định vỗ lên vai Nhân Ba Thiết, Lưu Nghiễn và Lạp Mỗ cuống quýt hô – “Ấy!”

    Mông Phong rụt tay về theo phản xạ, đổi thành nắm tay đập nhẹ một cái vào ngực Nhân Ba Thiết, bảo: “Chúng tôi định nghĩa khái niệm ‘người vợ’ khác với các anh.”

    Lạp Mỗ bắt đầu phiên dịch, Mông Phong tiếp: “Các anh xem ‘vợ’ là tài sản của mình, còn chúng tôi thì không, chúng tôi tôn trọng ‘vợ’ như chính bản thân mình. Đâu phải không muốn chia sẻ với anh em, mà không nhất thiết phải…”

    Lạp Mỗ thuật lại cả một đoạn dài, song Nhân Ba Thiết vẫn chẳng hiểu mô tê gì. Mông Phong bèn khoác vai Lưu Nghiễn, một tay kéo Trương Dân qua, giải thích: “Tôi và người này cũng là anh em tốt của nhau, còn là đồng đội vào sinh ra tử nữa.”

    Trương Dân cười khẳng định: “Đúng thế.”

    Mông Phong lại ôm Lưu Nghiễn đẩy ra trước người, rồi chỉ tay vào Trương Dân, tiếp tục nói: “Nhưng chúng tôi chẳng đời nào đổi bà xã cho nhau. Tôi có thể đè bà xã của anh ấy được không? Không thể. Mà hiển nhiên tôi cũng không cho phép anh ấy ngủ với bà xã của mình rồi.”

    Lưu Nghiễn và Quyết Minh bị chọc điên lên: “Nói nhảm gì thế hả?!”

    Mông Phong nghiêm túc bảo: “Bởi vì ‘vợ’ là một phần thân thể chúng tôi, nhường vợ cho người khác, cũng giống như… tự tay chém đứt một phần cơ thể mình vậy.”

    Mông Phong lại nhắm xuống đũng quần Nhâm Ba Thiết làm động tác “thiến”, hỏi: “Có cần phải thế không? Đâu nhất thiết phải… dùng kiểu hành động này để chứng tỏ tình nghĩa anh em chứ! Chúng ta nên biểu đạt một cách quý trọng hơn, tỷ dụ như, trả giá bằng toàn bộ sinh mạng của mình.”

    “Đúng đó đúng đó.” – Nhóm du khách đứng bên đồng thanh ủng hộ.

    Nhân Ba Thiết dường như đã vỡ lẽ điều gì, Mông Kiến Quốc lúc này mới hỏi: “Vợ của cậu đâu?”

    Lạp Mỗ quay sang hỏi anh ta, Nhân Ba Thiết lắc đầu đượm thoáng buồn đau, Lạp Mỗ nói: “Người yêu của anh ta đã nhiễm bệnh và qua đời.”

    Mông Kiến Quốc tiếp: “Vậy được rồi, cậu thương nhớ người vợ đã mất, và xem cô ấy như một người bạn đời đáng tôn trọng. Thế còn bạn gái của Tiểu An thì sao?”

    Tiểu An ửng đỏ đôi mắt, nghẹn ngào đáp: “Cô ấy đã chết, cũng vì nhiễm bệnh.”

    Mọi người xung quanh không thốt ra một lời, lát sau Mông Kiến Quốc đứng dậy cất tiếng: “Hiện giờ đất nước đã an toàn, nhưng tôi nói thật, trận dịch bệnh này đã cướp đi hàng triệu mạng người, dù các bạn có trở lại quê hương, cũng rất khó tìm được bạn bè và người thân còn sống sót…”

    Đề tài này hết sức nặng nề, không khí chìm vào lặng thinh.

    Mông Kiến Quốc lại nói: “Nếu vợ cũng đã qua đời, thì cứ cho qua mọi chuyện, quên đi tất cả, nào, hai người bắt tay một cái.”

    Mông Phong đi đến cầm tay Tiểu An và Nhân Ba Thiết, để họ bắt tay nhau.

    Mông Kiến Quốc thuận miệng bảo: “Mặc dù là chỉ là quan hệ anh em kết nghĩa, nhưng biết đâu hai cậu chính là người thân duy nhất của nhau thì sao. Hãy sống cho thật tốt, thế nhé.”

    Mông Kiến Quốc đeo kính râm vào, ra hiệu cho mọi người giải tán.

    Không người nào dám làm trái lệnh của Mông Kiến Quốc, đều lũ lượt kéo đi. Na Tang dẫn người của gã ngồi tụ tập ở đằng xa, còn Vương Nghị Quân thì sắp xếp cho nhóm du khách nghỉ ngơi tại chỗ, chờ quân đội tới.

    Mông Phong hỏi: “Ba có về Quân khu Thành Đô luôn không?”

    Mông Kiến Quốc đáp: “Chưa được, ba còn phải tới một nơi.”

    Lưu Nghiễn nói: “Lên xe uống ly trà nào. Hay là ba buộc xe máy vào sau xe tụi con, cùng du lịch một thời gian rồi hẵng đi.”

    Mông Kiến Quốc suy nghĩ một chốc, đoạn gật đầu đồng ý. Quyết Minh lên xe pha trà, Trương Dân thì chơi đàn ghita, họ ngồi bên nhau uống trà nóng và nhấm nháp điểm tâm, Mông Kiến Quốc nằm duỗi mình lim dim ngủ trên chiếc ghế dài.

    Lưu Nghiễn đi vào phòng kết nối máy ảnh kỹ thuật số, Mông Phong bước vào thay quần áo, tò mò hỏi: “Em chụp hình gì đấy? Cho anh xem chút… Ơ đệt… Em làm cách nào mà chụp được tài thế?”

    Lưu Nghiễn bật cười đắc chí, trong máy tính là hình chụp Mông Kiến Quốc trần trụi nửa mình trên, bị sợi dây trói rịt xuống giường, tổng cộng có mấy tấm như vậy. Lưu Nghiễn chỉnh sang tông màu vàng, sợi dây đó trườn quanh cơ ngực săn chắc và cơ bụng rắn rỏi của Mông Kiến Quốc, phô bày hình thể cực kỳ sệch xy.

    Làn da của Mông Kiến Quốc có màu đồng nam tính đầy gợi cảm, ngó vị binh sĩ tráng kiện bị trói chặt trong tấm hình, Mông Phong chỉ biết câm nín.

    “Cái này quá đồi phong bại tục rồi, mau mau xóa sạch… Mà khoan, copy thêm một bản phòng hờ đi.” – Mông Phong hỏi – “Ba có biết không?”

    Lưu Nghiễn: “Tất nhiên, chắc chắn ba đang vắt nát óc tìm cách xóa mớ ảnh này đấy.”

    Mông Phong xem một chặp, tự dưng lại dở thói ghen tỵ phân bì: “Dáng người của ba đâu có đẹp bằng anh.”

    Lưu Nghiễn: “Chưa hẳn à, người ta rèn luyện những bốn chục năm trời…”

    Mông Phong túm Lưu Nghiễn kéo tới: “Em có muốn ngắm anh thử không? Đẹp hơn ông ấy nhiều lắm đó…”

    Lưu Nghiễn: “Nè đừng lộn xộn… Giờ không được đâu.”

    Mông Phong quay đầu liếc nhìn màn hình laptop một cái, lại xoay sang ôm ấp đùn đẩy Lưu Nghiễn áp xuống giường, thân thiết hôn môi cậu, bắt đầu cởi áo khoác, chừa lại áo ba lỗ, nhanh tay tháo nốt thắt lưng quần.

    Lưu Nghiễn khẽ giọng: “Ưm, giờ không được mà, ba anh còn ở bên ngoài đó, sẽ nghe thấy mất… cách âm không tốt… Ngừng đi.”

    Mông Phong thầm thì vào tai Lưu Nghiễn: “Ba xuống xe rồi, em nhìn kìa.”

    Lưu Nghiễn ngẩng đầu lên cửa sổ xe ở đầu giường, vén rèm nhìn ra ngoài, thấy Mông Kiến Quốc đeo kính râm đi tuyết, vận bộ rằn ri màu trắng, tiến về chỗ người Tạng đang tập trung.

    Tiếng cánh quay trực thanh ầm ĩ vọng tới từ phương xa, đội viện trợ hậu chiến đã đến nơi. Nhóm người Vương Nghị Quân tạm biệt Mông Kiến Quốc, lại hướng về phía xe căn cứ mà vẫy tay chào.

    Trên người Lưu Nghiễn giờ còn sót mỗi chiếc áo lông, Mông Phong đang ôm Lưu Nghiễn từ đằng sau, thứ trong quần hắn cắm vào thật sâu, nhấp nhấp, thúc giục cậu tạm biệt với người ta.

    “A.” – Lưu Nghiễn bối rối thở dốc, miễn cưỡng đưa tay lên vẫy chào qua cửa sổ.

    Nhóm du khách tuần tự trèo lên trực thăng bay đi, Mông Kiến Quốc còn trò chuyện đôi câu với đội trưởng đội viện trợ, ký vào một tờ danh mục, tiếp đó ngoắt tay với bé Côn ở đầu kia.

    Bé Côn nhanh nhảu chạy tới, ôm chầm lấy bắp đùi Mông Kiến Quốc, ông cũng nhẹ nhàng xoa xoa đầu bé. Lát sau bé Côn chạy đi rồi mau chóng quay về, cầm trong tay một chiếc khăn Hada(3).

    (3) Khăn Hada: Một loại khăn của người Tạng, làm bằng tơ hoặc sa, đa số có màu trắng, xanh lam, cũng có màu vàng.p3425232a202054596

    Mông Kiến Quốc tươi cười, khuỵu một chân xuống đất, để bé Côn quàng khăn Hada lên cổ ông.

    Bé Côn vòng tay ôm cổ Mông Kiến Quốc một cái, hai người tạm biệt nhau, thế rồi Mông Kiến Quốc xoay người rời đi. Mông Phong hẵng còn ở sau lưng Lưu Nghiễn mà hăng hái bộp bộp bộp.

    “Anh rõ là… xấu xa.” – Lưu Nghiễn áp người vào cửa sổ, lớp kính thủy tinh phản chiếu đôi mắt thất thần của cậu, Lưu Nghiễn thốt – “Em không chịu nổi…”

    Mông Kiến Quốc đeo balo dã chiến, cưỡi xe máy lượn một vòng chạy đến, đứng dưới cửa sổ xe vặn ga một phát, ống bô rú lên tiếng nổ ầm ầm như sấm dội.

    “Đi đây!” – Mông Kiến Quốc hô to, khép hai ngón tay trước chân mày rồi phất lên một cái.

    “Sao không ở chơi thêm đã?” – Trương Dân bước xuống xe hỏi.

    Mông Kiến Quốc xua tay. Mông Phong vừa đâm rút thật mạnh từ sau, vừa nói: “Mau, chào tạm biệt ba đi.”

    Lưu Nghiễn mím chặt môi, nghẹn đỏ mặt cất tiếng: “Ba! Tạm…”

    Mông Phong lại đẩy sâu tận cùng, Lưu Nghiễn lắp bắp: “Tạm… tạm biệt, nhớ liên lạc thường xuyên.”

    Mông Phong cũng chào: “Ba! Thuận buồm xuôi gió nhá!”

    Mông Kiến Quốc gật đầu, bẻ tay lái, chiếc mô tô phát ra một làn điệu du dương, nhắm thẳng đến cuối con đường mà phóng như bay, mất hút giữa núi tuyết trùng điệp và chân trời xanh xám mịt mờ.

    Thuộc truyện: 2013