Đao phong dữ thi hành – Chương 41-45

    Thuộc truyện: Đao phong dữ thi hành

    Chương 41

    Hắn không có vẻ là đang chờ câu trả lời của tôi. Hắn nhét một mảnh giấy vào lòng bàn tay tôi, sau đó vội vàng rời đi trong đêm đen.

    “Nếu em muốn cứu cô bé” Hắn nói thế lúc kín đáo đưa tôi mảnh giấy. Tôi dựa vào ánh trăng nhìn nội dung bên trong, phát hiện đó là một bản ma văn vẽ tay, kèm theo một vài bí quyết lúc vận hành ma lực. Cái cảm giác quen thuộc kia một lần nữa tập kích vào lòng tôi——nó khác nhưng lại có hiệu quả y hệt quỹ đạo vận chuyển ma lực Carayon từng dạy tôi lúc mở hồn đao trong trí nhớ.

    Tôi mờ mịt lại luống cuống đứng trong bụi hoa, mảnh giấy bị tôi nhét vào túi áo. Tôi nghĩ có thể Carayon chưa nhìn thấy huân chương thi đấu của mình——tôi không biết mình có còn nên đưa cho hắn nữa không. Tôi nhớ đến Molten của hắn vẫn treo trong áo khoác mình, tôi quên đưa nó cho hắn.

    Tại sao đao của Đao giả có thể đưa cho người khác? Nó không thể coi là một món quà…Nó không thể nào trở thành một món quà. Đó là một phần linh hồn của Đao giả, có thể thu được vào cơ thể bằng tâm niệm. Không có nó, võ học của Đao giả sẽ bỗng dưng khiếm khuyết, bọn họ sẽ không thể sử dụng được hồn đao của mình.

    Tôi rút Molten ra. Lưỡi đao rời vỏ còn hơi nóng, được tôi giơ thẳng lên trước mắt. Cái tay tôi nắm nó hơi bất ổn, nó vẫn rung với biên độ nhỏ, giống như trái tim lỡ dở, thấm đầy đắng ngọt của tôi.

    Tôi cảm thấy mình đang vướng vào một bí ẩn vô cùng to lớn. Tôi không biết ai đang khuấy động sóng ngầm bên dưới Hội ma pháp và vương thất, không biết “dung hợp” là bí mật khiến người ta kiêng kị như thế nào, không biết trong cái bóng phía sau Carayon có liên quan đến âm mưu nào khổng lồ, phức tạp hơn không. Giống như trong nháy mắt tôi không còn điều khiển được vận mạng mình, mà như một kẻ nhỏ bé bị đẩy vào lòng bàn tay của cái thời đại này. Tôi cũng không rõ trái tim của bản thân . Từ trước tới nay tôi đều không chịu thừa nhận——cũng không chịu tin vào sự xuất hiện của tình yêu, có lẽ bây giờ vẫn vậy. Tình thân có sự ràng buộc của huyết thống và công ơn, tình bạn có nền tảng vững chắc, mà tình yêu thì không có căn cứ, nó tự nhiên sinh ra. Chẳng một ai ước lượng trước được độ dài của nó, nó có thể ngắn ngủi đến nỗi trong chớp mắt gặp ánh mắt trời sẽ hóa thành tro bụi.

    Tôi chỉ biết rằng, Carayon tất nhiên là người tôi thích nhất. Nếu tôi có thể nảy sinh tình cảm với người nào đó, thì dĩ nhiên là phải trao cho hắn.

    Thế nhưng hiện tại ——dù tôi có đủ thẳng thắn để thừa nhận sự tồn tại của nó, liệu nó có còn ý nghĩa gì không?

    Tôi nhắm mắt lại, Molten trong tay bị tôi bổ xuống dưới như để trút giận. Những cảm xúc xao động khiến tôi nằm rạp người thở dốc một chốc. Đoản đao kia vẫn đang hướng về mặt đất, mặt trên tràn đầy ánh sáng nhàn nhạt như có thể theo mũi đao nhỏ xuống đất.

    Nhưng mà sau đó hình như tôi nghe thấy vài tiếng tách tách, theo sau còn có một luồng hơi nóng bỏng. Ngay nơi mũi đao chỉ xuống đất, bên chân tôi, có mấy ngọn lửa nho nhỏ đang bốc cháy.

    Tôi không thể tin để sát vào kiểm tra, nhưng lại khiến nhiệt độ của ngọn lửa làm phỏng tay tôi.

    Tôi tin chắc, mới nãy tôi vung lên là Molten của Carayon chứ không phải Caron của mình.

    Tôi lấy tay mơn trớn lưỡi đao màu vàng nhạt, lần đầu thử tập trung trọn vẹn cảm ứng cây đao đến từ Carayon. Tôi để ma lực xuyên qua tay mình đảo quanh thân đao. Tôi có thể cảm thấy trong cơ thể mình là sự vui sướng và cộng hưởng theo——sự cộng hưởng giống như lúc tôi sử dụng Caron. Tôi quá quen thuộc cái cảm giác này. Tôi thuận theo bản năng của mình, gửi một lời kêu gọi nào đó tới nó.

    Tức thì tôi hoảng sợ chú ý, hồn đao của tôi——những cánh hoa kia——đang xuất hiện dưới lưỡi đao của Molten. Bởi chưa được kiểm soát, chúng nó bắt đầu thiêu cháy mảng hoa Caron này, đồng thời dần dần hình thành thế lửa lớn. Tôi sững người tại chỗ ho sặc sụa mấy tiếng, mới vội vàng vẽ chú văn đổ mưa.

    “Làm sao mình có thể dùng đao của Carayon để sử dụng hồn đao của mình được?” Tôi nghĩ.

    Thế lửa nhỏ đi dưới bùa chú mưa, đáng tiếc tóc tôi cũng bị xối cho ướt nhẹp, từng sợi nhỏ nước tí tách. Hoa Caron trên đất bị đốt cho tan tác, làm bạn với một đống tro, có lẽ phải chờ tới hè năm nay mới có thể mọc lại nhiều hơn. Tôi nhìn đống tro tàn, bỗng nhớ ra cái gì đó, thanh đao nằm ngang trong tay, dùng cách cảm thụ Caron truyền đạt cho nó một mệnh lệnh nào đó——đúng như dự đoán, Molten biến mất dưới sự thôi thúc của tôi.

    Đây không phải lỗi giác của tôi: Trong cơ thể tôi giờ tồn tại hai thanh đao bất đồng.

    Tôi đồng loạt gọi nó và Caron ra, tâm tình phức tạp nhìn kỹ chúng.

    “Nghĩ lại thì, nếu như mình có thể triển khai hồn đao của mình trên cây đao này,” Tôi nghĩ, “Vậy Carayon có thể làm được như vậy không——cho dù dưới tiền đề nó cũng không phải đao của hắn?”

    Qua đêm đó tôi đã sao chép lại ma văn một lần, đưa nó cho Coleman. Tôi chỉ đảm bảo với cậu ta cái này có thể tin được, cũng có thể cải thiện tình trạng của Turandot. Tôi không biết Coleman thương lượng với nhân viên khu điều trị như thế nào, nhưng Turandot mỗi ngày một tốt hơn, trên mặt cũng dần dần có thêm huyết sắc. Chờ đến trung tuần tháng ba, cô ấy rốt cuộc cũng mở mắt, ngoại trừ tay chân hơi thiếu linh hoạt, cô ấy trông tràn đầy năng lượng, ôm lấy bọn tôi khóc to một trận.

    Đối với quá trình ma pháp trận phản phệ, cô ấy cũng giải thích không rõ ràng lắm. Cô ấy nói: “Tớ khá là nhạy cảm với những thứ đó. Lúc ấy tớ cảm thấy ma lực ở một góc trên sân thượng tòa nhà chính kỳ kỳ, bèn tự truyền vào không ít ma lực, muốn nó hiện hình thái nguyên bản ——sau đấy tớ cảm giác cả người đau nhức, rồi chẳng biết gì nữa”

    May mà tháng ngày còn lại của chúng tôi trời yên biển lặng. Chúng tôi dùng một chút thời gian để bổ túc chương trình học cho Turandot, sau đó mỗi người bắt tay chuẩn bị việc sau tốt nghiệp. Ode đã chuẩn bị tài liệu để xin vào nội viện, Coleman nghe đâu cũng vào nội viện học tiếp, Turling bảo cậu ta không cần nhọc lòng chuyện bên vương thất. Trong khoảng thời gian ấy, tôi lặng lẽ lấy Molten ra nghiên cứu, phát hiện không ít chỗ kỳ lạ——ngoại trừ có thể coi nó là đao của mình sử dụng thuận buồm xuôi gió, còn có thể điều chỉnh hình dạng và kích cỡ. Tôi có thể co nó lại bằng bàn tay mình.

    Hai lớp văn học trước đây bị sáp nhập thành một, đổi một phòng học rộng lớn hơn. Giáo sư tiếp nhận lớp văn học năm năm khá là tẻ nhạt, có điều đại đa số người vẫn đánh giá thầy tốt. Tôi toàn trốn tiết của thầy, chỉ quy củ có mặt trên lớp mấy tiết cuối cùng. Trong tiết học cuối cùng kia, thầy cởi chiếc mũ tròn màu nâu mình hay đội, dùng nó đựng đầy tờ giấy chúng tôi đưa. Thầy nói bọn tôi có thể viết lên bất cứ cảm tưởng hoặc câu hỏi nào, thầy sẽ đọc lần lượt từng cái một rồi trả lời.

    Trong đó không thiếu mấy nội dung như vầy:

    “Em sẽ nhớ thầy lắm, giáo sư Jude”

    “Thầy có tiếp tục ở lại Hoftas không ạ?”

    “Thầy đánh giá giáo sư Fisri (tên của một cô giáo quyến rũ) thế nào ạ?”

    “Nếu được thầy có thể bật mí đề thi cuối kỳ môn văn năm nay không ạ? Các môn khác cũng được ạ, nếu thầy nói bọn em sẽ biết ơn lắm lắm”

    Tôi tiện tay viết “Theo thầy giáo sư văn học tốt nhất Hoftas là ai ạ?”, câu trả lời của thầy khá là qua loa: “Tôi có rất nhiều đồng nghiệp tuyệt vời”

    Thế nhưng bên trong những câu hỏi đa dạng, chữ viết trên một tờ giấy nào đó vẫn rất độc đáo. Lúc giáo sư Jude nhìn thấy nó thì nở một nụ cười rất tươi, tỏ ý thầy sẽ truyền đạt lời hỏi thăm chân thành thay một người bí ẩn, tiếp đó dùng giọng điệu rất trang trọng thì thầm:

    “Turandot, em có đồng ý gả cho tôi không?”

    Sau khi câu hỏi này được đọc ra miệng trước mặt tất cả mọi người, giáo sư Jude lập tức giơ hai tay lên lấy làm vô tội. Tôi nghe thấy Turandot thốt lên một tiếng kinh ngạc nho nhỏ, sau đấy phòng học lập tức bị tiếng ồn ào và chúc phúc nhấn chìm. Tất cả mọi người đều có thể đoán được tờ giấy kia đến từ tay ai; Coleman ở bên cạnh nhìn cô, vẫn mỉm cười suốt.

    Tiểu vương tử cùng Turandot của cậu ta đính hôn vào đêm trước lễ tốt nghiệp. Giống như những năm trước, trong tân lịch năm 857 không yên ổn này, vũ hội tốt nghiệp của Hoftas vẫn được tổ chức nhộn nhịp. Trong lúc đó tôi nhận được nhiệm vụ đầu tiên của Quân tiên phong, ít nhiều cũng có ý khảo hạch. Trong thư nói sau khi tôi hoàn thành nhiệm vụ đầu tiên có thể tới Hội ma pháp ở đô thành báo danh, bọn họ sẽ phân tôi vào một số hiệu nào đó của Quân tiên phong. Trước đó, tôi có thể tạm liên hệ trước với giáo sư Ryan trong học viện.

    Trong thư viết, cuối tháng năm tôi phải tự đi tới thành thứ chín nào đó của Phổ Quốc để thu hồi thứ gì đấy, địa chỉ cụ thể chính xác đến biển số nhà, đồ vật theo trong thư miêu tả, là một cái hộp đen đóng kín, to bằng bàn tay.

    Tôi cầm thư đi tìm Ryan trước. Lòng tôi biết phục tùng quốc gia vô điều kiện là điều luật luôn luôn phải khắc ghi của Quân tiên phong, nhưng địa chỉ này làm tôi nghi hoặc vô cùng. Trong thư nói quá mập mờ, không đề cập đến bất cứ chi tiết nào sau khi tiến vào nơi đó. Thậm chí tôi còn chẳng biết đây là một cuộc tập kích hay là bàn giao.

    Khi Ryan đọc thư thì nhíu chặt lông mày, nghiêm mặt nói: “Với tư cách là giáo sư ma pháp của em, Vicente, tôi kiến nghị em từ bỏ nhiệm vụ này”

    “Được ạ?” Tôi kinh ngạc nói, “Em nghe bảo nếu nhiệm vụ đầu tiên của lính mới thất bại, bọn họ sẽ không được xếp vào Quân tiên phong”

    “Đúng là như thế” Ryan nói, đồng thời khom người mời tôi ngồi xuống. “Nhưng nhiệm vụ lần này của em rất đặc thù. Tôi không sao tưởng tượng nổi cấp trên lại giao cho em nhiệm vụ như vậy. Tôi chỉ có thể nói rằng, theo tôi độ nguy hiểm của nó rất cao”

    “Là nhiệm vụ bà Heron giao ạ?” Tôi hỏi. Tôi nhớ đến Hội trưởng Hội ma pháp tóc ngắn màu trắng mới nhận chức. Tôi chỉ từng thấy mặt bà ta trên báo.

    “Không, không phải bà ấy. Quân tiên phong tuy nằm dưới danh nghĩa Hội ma pháp, nhưng thực tế vẫn trực thuộc…” Thấy ấy sửa lại cách nói sau đó, nghiêm túc nhìn tôi, “…cao tầng. Nói tóm lại, em nhận nhiệm vụ này không phải lựa chọn tốt”

    “Là bởi tuổi tác của em? Hay là cái khác?”

    Ryan trầm ngâm chốc lát, nói: “Mặt nào cũng có. Tin thầy, không phải thầy xem thường năng lực của em. Nhiệm vụ này không thuộc về chức trách của một người trẻ tuổi, thầy cũng không cho rằng một chiến sĩ mới thật sự có thể hoàn thành nó”

    “Em còn tường thầy làm người liên lạc của em thì nhất định phải thuyết phục em an tâm hoàn thành nó cơ”

    “Đúng là tôi không nên ngăn cản em Vicente” Ryan nói, “Chỉ là kiến nghị của một giáo sư, chứ không phải từ người liên lạc của em”

    Thầy ấy trả lại tôi bức thư, tầm mắt vẫn chờ đợi quyết định của tôi.

    “Thầy Ryan, em biết có lẽ em không nên hỏi,” Tôi nói, “Nhưng mục đích của chuyện này, nó có chính xác không ạ?”

    Nụ cười của thầy ấy nhạt đi. Bên trong hai mắt thầy dường như ẩn chứa đại dương sâu thăm, ở đó tồn tại bí mật chúng tôi đều biết, nhưng hiện tại tôi không có cách nào hiểu thấu. Thầy ấy cũng không nói gì, nhưng gật đầu chầm chậm mà kiên định.

    “Vậy em không có lý do gì để từ chối nó” Tôi nói “Thầy Ryan, hãy để em đi”

    Chương 42

    Có lẽ tôi đã hiểu lầm gì đó, lúc tôi khăng khăng quyết định nhận nhiệm vụ kia, khuyên can nơi đáy mắt Ryan lại giống khẩn cầu hơn. Nhưng thầy ấy khôi phục lại thái độ bình thường rất nhanh, lại trở về là một người thầy giáo tác phong nhẹ nhàng, khiến người ta không thể bới móc ra sai lầm, nói cho tôi những điều cần chú ý trong chuyến đi này, sau đó đứng dậy tiễn tôi.

    “Tính mạng của chiến sĩ là quan trọng nhất” Thầy nói “Nếu em thấy mình không đủ khả năng, thầy sẽ không lấy lý do nhiệm vụ thất bại để trách em”

    Tôi nói với thầy: “Em hiểu. Đất nước sẽ không để chiến sĩ của mình chết uổng, đúng không thầy?”

    Ryan không trả lời câu hỏi này của tôi, dặn dò thêm tôi đi tìm tài liệu có liên quan đến Phổ Quốc.

    Về Phổ Quốc, thật ra tôi đã lật xem không ít sách trong thư viện trường. Ở đó, khả năng tôi có thể tiếp xúc tài liệu thực tế của Phổ Quốc vô cùng ít ỏi, dẫu nó là một trong những nước láng giềng của Gerundnan, gút mắc có liên quan giữa hai nước cũng chỉ là vài nét bút trên sách sử. Thời đại hoàng kim kéo dài đến bảy mươi năm, trong thời gian đó lửa đạn chưa từng chấm dứt, bản đồ các quốc gia trên thế giới đều có biến hóa ít nhiều. Nếu như nói vào lúc ấy Gerundnan từng xảy ra lục đục với Phổ Quốc, vậy cũng chẳng thể coi là chuyện hãn hữu. Gần đây tôi tra được ghi chép còn lại của các chiến dịch, vào Thời đại hoàng kim, tức trong khoảng thời gian từ tân lịch 788 đến 803, Phổ Quốc cùng Gerundnan đã xảy ra chiến sự ——có điều so với tình hình hỗn chiến của các quốc gia vào lúc đó, đoạn ghi chép này trên sử sách rất ngắn gọn, so ra thì sóng gió phẳng lặng hơn nhiều.

    Sau khi được thầy Ryan dặn dò tôi mới nhớ ra mình phải sớm học bổ túc một vài kiến thức của xã hội hiện đại Phổ Quốc. Nhưng thư viện trường lúc này tạm thời đóng cửa vì kỳ nghỉ, tôi lập tức nghĩ tới một địa điểm lưu trữ sách phong phú khác.

    Khi móng trước của ngựa bay đáp xuống mảnh đất bằng quen thuộc kia, lòng tôi ít nhiều cũng có chút xúc động. Đã rất nhiều năm rồi tôi chưa từng trở lại chốn này. Sau khi tôi rời đi năm mười ba tuổi, tôi đã từng lặng lẽ trở về mấy lần, nhìn nó từ xa——chỉ nhìn mỗi trang viên này. Chờ tới khi tôi vào học Hoftas thì không còn trở về nữa.

    Thời tiết rất tốt, tôi bước từ trên ngựa bay xuống, nhảy tới trước mặt cái người chờ bên ngoài trang viên. Hắn cao lớn không ít so với lần trước tôi thấy, giờ đã cao gần bằng tôi.

    “Dạo này em thế nào Redmonton?”

    Tôi nhìn hắn hỏi. Hắn ăn mặc rất chỉnh tề, áo sơ mi màu sợi đay, áo gi-lê và gậy ba-tong, mái tóc quăn xoắn lọn trong gió. Hắn nhìn tôi đầy căm hờn, đột nhiên đi tới cho tôi một cái ôm.

    “Bao năm anh không về rồi đấy!” Hắn nói, cũng đập lưng tôi mấy cái, gậy ba-tong có lúc gõ lên đầu tôi “Lúc em nhận được thư anh còn tưởng có kẻ giả mạo chứ”

    Tôi giãy ra khỏi ngực hắn, chỉ vào con ngựa bay ngủ gà gật, “Không được mang ngựa vào trang viên à?”

    “Không được,” Hắn nhận ra tôi làm khó dễ, vậy nên giọng nói cũng chẳng ngại mà rằng, “Em đã điều động hết tất cả người rảnh rỗi bên này rồi. Nhưng thân ngựa rõ ràng quá, em kiến nghị anh cứ để cho nó ở đây ăn cỏ đi”

    Tôi làm theo cách của hắn buộc ngựa lại, con ngựa nhắm mắt, bắt đầu chậm rì gặm cỏ được cắt sửa bằng phẳng trên đất. Redmonton dẫn tôi vào trong, miệng nói không ngừng: “Em tất nhiên là tốt rồi. Năm nay em sẽ vào học viện, em tính vào Hoftas. Không phải Bowei——mặc dù mẹ muốn em vào Bowei học”

    Tôi liếc mắt nhìn sườn mặt hắn, chợt cảm thấy thời gian chảy ngược, hơi thẫn thờ.

    “Tiếc là em nhỏ hơn anh sáu tuổi,” Tôi nói, “Nếu không anh trai yêu dấu của em nhất định sẽ đặt em bên người để dạy dỗ”

    “Anh sẽ không làm thế đâu,” Hắn dở khóc dở cười lên án, “Hồi bé anh chỉ toàn xúi em làm mấy chuyện xấu thôi, lớn lên rồi cũng chẳng thèm về nhà. Mẹ vẫn luôn không chịu cho em vào thư viện, em phải nhõng nhẽo đòi hỏi mới miễn cưỡng khiến mẹ đồng ý cho em dùng chìa khóa một ngày đấy. Anh phải cảm ơn em đó nha Vicente, nếu không mẹ chắc chắn ——”

    “À này, phu nhân Shawn,” Tôi cúi đầu, bắt cây gậy ba-tong của hắn tạo dáng, “Bà ấy vẫn đẹp như trước kia chứ?”

    Hắn ngừng một chốc, lấy gậy khỏi tay tôi, nói: “Vẫn đẹp lắm”

    Sau đó hắn lại im lặng, dẫn tôi tới trước một tòa lầu gác quen thuộc, dùng chìa khóa mở cổng. Hắn đứng ở phía trước, chỉ bước nửa bước chân vào bên trong, đột nhiên quay đầu lại hỏi tôi, “Trước kia mẹ như thế nào?”

    Tôi ôm cánh tay, đứng cùng hắn ở cửa. Bụi bặm trong lầu không dày, có thể thấy gần đây được quét dọn, song bên trong vẫn bí mùi sách cũ, chúng tôi lẳng lặng chờ không khí mới mẻ tràn vào.

    “Là trước lúc em hai tuổi ấy hả?” Tôi hỏi.

    “Em không nhỡ rõ lúc ấy xảy ra chuyện gì,” Cằm dưới của hắn nhẹ nhàng nhướn về phía cổ áo, “Chỉ có thể nghe từ anh. Mẹ——hẳn không phải kiểu người sẽ kể về quá khứ”

    “Được rồi” Tôi nói “Nhân lúc rảnh rỗi”

    Thật sự thì chúng tôi chưa bao giờ tán gẫu về chủ đề này, hoặc là có lúc nào đứng sóng vai như hôm nay, tâm bình khí tĩnh nói chuyện gì đó. Trước đây hắn còn quá nhỏ, mà trong khoảng thời gian sau khi cha qua đời, tất cả mọi thứ dường như quá vội vàng.

    “Hồi đó bà ấy đẹp danh bất hư truyền” Tôi nói, “Lúc cha còn sống, phu nhân Shawn rất hoạt bát, cũng giống như bất cứ mỹ nhân thâm tình lại vô ưu nào. Khi cha bận công chuyện bên ngoài, bà ấy lại ngóng trông ở trang viên, chăm hoa cỏ, làm bánh, thi thoảng cũng vào phòng thăm anh. Bà ấy là một Ma pháp sĩ không đủ tư cách lắm, nhưng đao pháp của cha rất tốt, có lẽ bà rất sùng bái ông——cũng yêu ông vô cùng. Bà ấy không quan tâm đến thứ khác. Bà chưa từng áp đặt anh điều gì không phù hợp với tuổi thơ ấu, đại khái mỗi ngày bọn anh chỉ gặp mặt một lần, rồi bà ấy tới kiểm tra anh làm bài tập đao pháp”

    “Bà ấy lúc nào cũng nhắc nhở anh, mai sau anh nhất định phải trưởng thành người như cha. Anh cảm thấy lời của bà có lý ——mãi đến khi cha hi sinh vì nhiệm vụ, những dịu dàng giữa anh và bà vốn do cha duy trì, đều bị sự u ám dài đằng đẵng do cái chết của cha mang đến làm hao mòn không còn chút gì. Khi ấy em chỉ mới hai tuổi, chắc cũng chẳng cảm giác được. Năm ấy tính tình của bà thay đổi lớn, đột nhiên giáng trọng tâm duy nhất lên người anh. Bà ấy ra lệnh cho anh hướng tới tầm cao của cha, bắt anh nuôi thói quen và sở thích của ông ấy, tuân thủ pháp tắc ông hết lòng tin theo, bắt anh học một bộ đao pháp đạt tới phong độ của ông. Anh đánh đàn, vẽ tranh, chơi cờ, ném xúc xắc, luyện đao nhiều hơn——khi đó kỳ thực anh rất hâm mộ em có thể nói những lời ngây thơ, tự do đi tới đi lui dưới căn nhà này. Phu nhân Shawn dốc hết tất cả tâm huyết của mình lên người anh, chỉ mong tạo ra một cái bóng hoàn mỹ, còn sống. Chuyện xảy ra sau đó em cũng biết rồi đấy…anh được mười tuổi”

    Redmonton mấp máy môi, bên dưới lớp da mỏng dường như đang kìm nén lời gì đó. Hắn kéo tay tôi lại, nói: “Vicente——”

    Tôi đã từng tranh cãi rất trẻ con với Redmonton. Hồi đó do chịu ảnh hưởng bởi người lớn nên hắn cũng không thích tôi mấy, nhưng vẫn không nhịn được sán lại chơi với tôi. Cái chứng nghĩ một đằng nói một nẻo này của hắn sau năm mười tuổi thì hết, bọn tôi tự nhiên có thể trò chuyện tử tế, nhưng khi ấy tôi đã chuyển ra ngoài mấy năm.

    “Biểu cảm của bà ấy lúc phát hiện ra anh là Ma pháp sĩ có thể nói là tuyệt vọng” Tôi nhớ lại sắc mặt tái nhợt của phu nhân Shawn, “Bà ấy không hiểu được tâm trạng của anh cũng giống bà, chỉ dùng lời nói chối tai nhất phát tiết sự bi thương của mình, xé mấy quyển sách ma pháp mà anh vất vả lắm mới chịu động đến. Từ đó trở đi bà không còn dành cho anh bất kỳ sự quan tâm nào của mẹ nữa mà quay sang em. Cũng chính khi ấy anh mới hiểu, hóa ra bà chưa từng yêu con trai mình——người bà yêu mãi mãi chỉ có cha anh thôi”

    “Có thể mẹ đã thay đổi…” Redmonton nói.

    “Em có biết trước kia tên em không phải là Redmonton không?” Tôi nói, “Trước hai tuổi em vốn là Scott Shawn”

    “Em không để bụng——em tự hào vì có thể kế thừa tên cha” Hắn thấp giọng nói, “Hơn nữa sau này mẹ không truyền vào đầu em bất kỳ tư tưởng ‘trở thành cha’ nào cả. Con đường trở thành Đao giả sau này là do em chọn”

    Tôi ngắm nhìn tên nhóc to lớn đứng bên cạnh, bỗng nhiên trong lòng dâng trào rất nhiều cảm xúc.

    “Xem ra bà ấy cũng yêu em lắm,” Tôi nói, “Vậy là tốt rồi”

    Vành mắt Redmonton hơi ửng hồng.

    Hắn há miệng, chợt kiên định mà nói ngắn gọn: “Anh trở về đi Vicente”

    Tầm mắt tôi dừng lại ở mũi giày hắn, rồi chuyển lên đỉnh đầu, duỗi tay sờ tóc hắn. Đây là hành động hồi bé tôi hay làm, tuy nói khi ấy thường chọc cho hắn tức.

    “Anh đã xóa tên khỏi gia phả rồi Redmonton,” Tôi bảo, “Năm ấy khi ông nội mất anh đã đoạn tuyệt hoàn toàn với phu nhân Shawn, lúc đó em còn ở bên nhìn vui vẻ lắm”

    Tôi nhìn nước mắt sắp chảy ra ngay khi tôi nói xong của quý ngài này, tức thì thầm luống cuống tay chân, không trêu hắn nữa: “Em không phải sợ anh chết đói bên ngoài đâu, ông nội để lại cho anh không ít di sản, cái thư viện này cũng được tính vào đó——đáng tiếc là thư viện xây trong trang viên của phu nhân Shawn, bà ấy không cho anh về thăm. Chẳng phải anh vẫn có thể tới thăm em thường xuyên đấy ư?” Tôi không nhịn được lắm mồm thêm một câu, “Với cả em cũng mười bảy tuổi rồi còn gì”

    Hắn tức giận xoay người đi, vừa vặn mùi lâu năm trong lầu gác cũng tiêu tan kha khá, hắn liền giẫm chân cộp cộp lên trên cầu thang. Tôi tự biết đuối lý, yên lặng theo phía sau, chờ tới lúc hắn quay đầu lại, tôi cũng chẳng thể nhìn ra được dáng vẻ của người suýt chảy nước mắt.

    Hắn chỉ về phía trước, nói với tôi: “Anh xem”

    Ký ức về khung cảnh trong phòng vẫn còn mới mẻ với tôi: chừng hai mươi giá sách xếp thành đường chéo, hai cánh cửa sổ lớn, một cửa sổ mái, một cái bàn tròn nhỏ bằng gỗ sơn mài, hai chiếc ghế kê đối diện. Tôi cẩn thận vuốt ve mặt ngoài của chúng, phát hiện mặt trên còn mang theo nhiệt độ được chiếu sáng.

    “Em không vào à?” Tôi hô lên với Redmonton ở cửa.

    “Em ở đây chờ anh” Hắn nói.

    “Không cần phải kiêng kỵ di chúc đâu,” Tôi nói, “Nhanh coi, mau tới giúp anh tìm thứ liên quan tới Phổ Quốc——tốt nhất là phong thổ, cơ cấu xã hội ấy”

    Hắn nhẫn nhịn chịu khó lên xuống cùng tôi, mặt xám mày tro. Chỉ trong chốc lát bàn nhỏ đã xếp một chồng sách, tôi nhanh chóng sao chép vào vở, hắn ngồi đối diện nhìn tôi viết chữ.

    “Anh có biết nguyên nhân cái chết của cha năm đó không?” Hắn nhân lúc tôi lật sách thì hỏi.

    “Chỉ biết là hy sinh vì nhiệm vụ” Tôi nói, “Ngay cả chức vụ cụ thể của ông ấy anh cũng không rõ lắm, phu nhân Shawn cũng chưa từng đề cập những thứ này với anh”

    “Di vật của cha đến nay vẫn chưa tìm lại được” Giọng điệu của Redmonton nghe có hơi chán nản, “Em không biết đó là cái gì, mẹ không chịu nói cho em——có thể có di vật nào đó được để lại trong thư phòng không?”

    “Anh cũng không đoán ra được” Tôi nói, “Nó lại không giống tủ trang điểm của phu nhân Shawn”

    Tôi rút một quyển sách khác ra xem, nghe thấy Redmonton lại hỏi: “Anh có biết tên trộm đó về sau như thế nào không?”

    “Cô ta bị bên Shawn tóm được, rồi vào tù,” Tôi vừa viết vừa đáp, “Về sau chết rồi”

    “Không nói ra hướng đi của di vật à?”

    “Ừ” Tôi nói.

    Có lẽ Redmonton ý thức được gì đó nên không truy hỏi vấn đề liên quan đến người kia nữa. Nhưng cho dù thế, gương mặt của Rosalind vẫn không thể ngăn cản hiện lên trước mắt tôi.

    Phải lâu lắm rồi tôi không nhớ tới cô ta. Đó là người gần như trải qua cùng tôi cả thời thơ ấu——lúc tôi sinh ra, cô ta cũng phải mười chín tuổi rồi, đầu óc lanh lợi, hiểu chút ma pháp, làm người hầu bên người và một người bạn, lấp đầy tất cả khoảng trống của từ “mẹ” còn thiếu trong tôi. Cô ta chăm sóc tôi chu đáo tỉ mỉ, gọi tôi rời giường, bện vài món đồ chơi nhỏ thú vị cho tôi, chạy tới nhà bếp làm cơm lúc tôi đói, trước khi ngủ đọc cho tôi những câu chuyện đầy ảo tưởng, thậm chí còn dùng tiền công của mình lén mua cho tôi kẹo. Trong một khoảng thời gian sau khi cha qua đời, tia sáng duy nhất trong cuộc sống của tôi chính là những câu chuyện cô ta đọc trước khi ngủ. Khi đó cô ta không xa lánh tôi vì thái độ của phu nhân Shawn như đại đa số người, vẫn đối xử tốt với tôi như trước đây.

    Lúc tôi tám tuổi thì cô ta hai mươi bảy. Chúng tôi khi ấy đã có tình cảm rất sâu đậm, tôi ỷ lại cô ta còn hơn ỷ lại mẹ ruột——nếu như lúc đó tôi có thể nói là ỷ lại.

    Tôi nói với cô ta: “Sau này cô đừng kết hôn được không cô?”

    Cô ta cười hỏi tôi: “Vì sao vậy?”

    Tôi rất ngây thơ mà rằng: “Nếu như ngày nào đó cô có con trai mình rồi thì sẽ không còn yêu con như bây giờ nữa đâu”

    Cô ta vẫn giữ nụ cười trước mặt tôi, nhưng trong hốc mắt lóng lánh, tựa như ngấn lệ.

    “Được,” Cô ta nói “Cô cam đoan với con, con là đứa con duy nhất của cô”

    Thực tế, khi ấy phu nhân Shawn đang thay máu người làm trong trang viên, có không ít người già làm việc rất nhiều năm bị thuyên chuyển ra ngoài. Tôi chỉ lo Rosalind cũng sẽ rời đi, thường xuyên nói với cô ta về sự lo lắng của mình.

    “Con đừng lo,” Khi ấy Rosalind nói với tôi, “Nhỡ mà cô có bị điều đi hoặc bị đuổi ra ngoài, con vẫn có thể dùng điệp thư liên lạc với cô mà. Con chỉ cần nhớ hình dáng điệp thư của cô, đừng nhầm với của người khác là được”

    Tôi lúc ấy đang lo lắng, làm như có thật vẽ hơn trăm bức hồ điệp của cô ta, như thế mười năm hai mươi năm sau tôi vẫn có thể nhớ như in từng chi tiết nhỏ của hồ điệp. Nó có màu xanh nhạt, cuối cánh điểm vàng nhạt, mỗi bên có ba đường tua rua.

    Chuyện còn lại tôi không muốn nhớ lại lắm. Ví dụ như cô ta làm thế nào cầm chìa khóa cùng một túi đồ từ thư phòng của cha tôi, vẻ mặt kinh hoàng hạ bùa chú mất trí nhớ lên tôi ở ngoài cửa. Hành động này của cô ta vẫn kinh động đến một số người, khiến cô ta không thể không nhanh chóng bỏ chạy ra ngoài. Ký ức của tôi khoảng thời gian đó rất lộn xộn, sự tồn tại của cô ta cùng những gì có liên quan biến mất hoàn toàn. Tôi phối hợp với sự điều trị của thầy thuốc, cưỡng ép mọi ký ức thoát khỏi áp chế của ma chú. Người thầy thuốc kia tóc hoa râm, trán điểm mấy vệt lốm đốm màu nâu, lúc nào cũng thương tiếc mà rằng: “Nhưng vầy cũng tốt, sau lần này, cháu có thể thuộc làu cách giải bùa chú mất trí nhớ…”

    “Vicente? Vicente!” Tôi bị một giọng nói gần ngay bên kéo ra khỏi hồi ức.

    Vẻ mặt căng thẳng của Redmonton lúc này mới hơi dịu đi, dựa vào lưng ghế: “Em thấy anh tự nhiên bất động”

    Tôi ra hiệu không có việc gì to tát, khôi phục tâm trạng, tiếp tục ghi chép. Lúc tà dương lặn về tây, chúng tôi đi tới lui lui cất sách, lần lượt trả chúng về chỗ cũ. Nhưng vào lúc này, tôi lại bất ngờ liếc thấy một cái gáy sách trước đó mình đã bỏ qua, trái tim lộp bộp rơi xuống.

    Tôi cố gắng không biến sắc ra hiệu với Redmonton chờ tôi bên ngoài, dự định quét mắt lại xem có cá lọt lưới hay không. Thế là hắn dựa vào cửa tầng hai, buồn chán nhắm mắt lại.

    Tôi ngừng thở sờ cái gáy sách đó, từng chút một ra rút nó khỏi chồng sách. Gáy sách thuần màu đen, chỉ có hai chữ “Dung hợp” to thiếp vàng ở bìa sách dần dần lộ ra ngoài.

    Tôi nhìn chằm chằm vào khoảng trống trên cái giá phía sau nó, bắt đầu lục lọi trí nhớ mơ hồ nhiều năm trước của mình——tôi gần như có thể xác định, lần cuối tôi vào thư viện này lúc mười ba tuổi, trên giá sách của ông nội tuyệt đối không có quyển《Dung hợp》 này.

    Nội dung của nó giống y hệt quyển sách cấm tôi từng thấy ở năm ba.

    Tôi đang muốn gập nó nhét về chỗ cũ, lại thấy giữa trang cuối với bìa rớt xuống một tờ giấy gấp, màu vàng, mực nước lúc ẩn lúc hiện thấm qua mặt sau giấy, trông khá lâu đời.

    “Anh không sao chứ Vicente?” Redmonton ở cửa giục tôi, “Cẩn thận mẹ tra ra đấy”

    “Tới đây” Tôi nói, lập tức chỉnh lại quyển sách cuối cùng này, qua quýt nhét tờ giấy kia vào trong túi. Tôi có một linh cảm, có lẽ nó không phải một tờ giấy bình thường——nếu nó được kẹp trong quyển sách này, có thể sẽ viết một vài thứ không đơn giản.

    Redmonton đi với tôi một lúc, chúng tôi đội tà dương đi ra ngoài trang viên, hắn cởi ngựa bay ra cho tôi. Mảng cỏ gần nó trụi lủi không ra hình thù gì, bọn tôi đều ngoảnh mặt làm ngơ.

    “Mẹ bảo Phổ Quốc không phải nơi tốt đẹp” Redmonton nói, một tay đưa tôi dây cương, “Em nghe mẹ vô tình nhắc đến. Tóm lại, Vicente, anh phải cẩn thận đấy”

    Tôi kéo dây cương, dùng một tay khác ôm vai hắn.

    “Lúc nào cũng ‘Vicente’, ‘Vicente’,” Tôi chọc hắn, “Chẳng phải em nên gọi anh là anh trai yêu dấu sao?”

    Hắn hất tay tôi, ra vẻ muốn dùng gậy oánh tôi, nhưng thay vào đó lại cho tôi một cái ôm ấm áp.

    “Rồi, anh trai yêu dấu,” Hắn nói, “Em lại chúc anh lên đường bình an”

    Chương 43

    Cuối tháng năm, tôi thành công ngồi lên xe hồng bì (1) tới Phổ Quốc. Phổ Quốc có lệnh cấm trên không, mà xe hồng bì là phương tiên giao thông duy nhất có thể đi từ Gerundnan tới thẳng thành thứ chín của Phổ Quốc. Dạo gần đây việc xếp hàng xét duyệt ra vào biên giới đã trở nên nghiêm ngặt hơn, tôi nghĩ nếu không phải giấy chứng nhận Quân tiên phong có chút tác dụng, có lẽ bên Gerundnan không cho tôi mau lấy được vé tàu dễ vậy đâu.

    Toa xe có tổng cộng mười chín khu, tôi chọn một chỗ trống ngồi xuống, nghe vỏ xe cành cạch ù ù khởi hành. Ở túi ngoài chiếc áo khoác mỏng của tôi có nhét ít tiền Phổ Quốc, trong túi để cuốn tập viết thơ, mấy viên kẹo, thêm chiếc nhẫn tôi nhặt được trong bài kiểm tra. Ống tay áo sơ mi của tôi có đính một chiếc huân chương nho nhỏ, đặt song song với một cái khuy áo không mấy nổi bật khác. Tôi còn mang theo bên người cái túi lớn để chút đồ ăn nước uống, chuẩn bị cho bất cứ tình huống nào.

    Tôi tìm được rất nhiều ghi chép quý giá trong thư viện của ông nội. Tuy rằng tài liệu lịch sử mấy năm gần đây trống không chưa được bổ sung thêm, nhưng những lưu trữ ngày trước của nó đã đủ để tôi có cái nhìn khái quát về Phổ Quốc.

    Theo tôi thấy, nội dung của những tài liệu lịch sử này khá là phiến diện trên một vài quan điểm. Một vài tư liệu cơ bản——ví dụ như Phổ Quốc là nước láng giềng phía tây của Gerundnan, quốc thổ rộng bằng một phần tư, thành thứ chín nằm ở giữa được bao quanh bởi tám thành——ở vài địa phương khác thực sự rất là vô lý. Trong một bản kỷ (2) lịch sử có viết, quốc vương Phổ Quốc vào năm 797 chọn Đại giáo chủ Garuno vào vị trí đầu não của quốc gia, tiếp đó ca tụng tín ngưỡng Tân thần giáo trên toàn quốc, mở rộng hết nhóm tín đồ trung thành này đến nhóm khác. Nhưng đến năm 803, các chính sách phổ biến quan trọng trong nước đều cần qua tay vị Đại giáo chủ mới nhậm chức này, đia vị của quốc vương và quốc hội chỉ còn trên danh nghĩa.

    Riêng đoạn này đã có không ít mâu thuẫn. Ngay khi đó quốc vương nắm quyền, lại khiến cho làn sóng thần học của thời đại cũ lưu hành hai bên; thân tín được quốc vương tuyển chọn và bổ nhiệm, trong vòng mấy năm ngắn ngủi thâu tóm thực quyền của vua. Người dân Phổ Quốc trước đây vốn cũng không có bất kỳ tín ngưỡng tông giáo nào, mà Tân thần giáo thậm chí còn chẳng phải tông giáo lâu đời gì trong lịch sử——nhìn từ cái tên mới này, giáo điển có khi mới được biên soạn trong năm mươi năm gần đây, nhưng người dân Phổ Quốc lại vẫn cứ tiếp nhận, tin tưởng và nghe theo nó.

    Những điều kỳ lạ ở trên, có lẽ lúc tôi tới thành thứ chín có thể nghiệm chứng mấy phần thật giả. Nhưng sự hoang mang quẩn quanh không đi trong lòng tôi kia, vẫn lưu lại trong căn phòng của tôi ở Hoftas, giấu trong một quyển sách cũ.

    Tờ giấy trượt ra từ quyển 《Dung hợp》 ngày ấy thực chất là giấy viết thư. Tôi không biết chữ viết bên trên, nhưng đầu thư có nhắc tới một cái tên tôi vô cùng quen thuộc.

    “Thân gửi Redmonton:

    Ta đã xem qua nghi vấn cậu đặt ra. Nhưng ta vẫn muốn nói với cậu: Đừng nghi ngờ tính chính xác của mục tiêu. Tất cả nhấp nhô rồi sẽ qua, bởi vì chúng ta đang hướng tới một thời kỳ vĩ đại nhất——mà nó sẽ trở thành sự phân cách của một thời đại. Trước khi nó xuất thế, rất nhiều người đều đang đi nửa bước; mà sau khi nó xuất thế, tất cả sự hy sinh đều sẽ ảm đạm trên những trang giấy con chữ để lại ở quá khứ. Thời đại hoàng kim! Nó sẽ mang tới một thời đại hoàng kim. Hoán nhiên nhất tân (3), trời đất xoay vần, có ý nghĩa phổ thế hơn cả những thay đổi trước đó, đáng để chúng ta đánh đổi tất cả.

    Ta mong, thời đại đó có thể xuất hiện đương lúc chúng ta sinh thời.

    Chúc hành trình tới Phổ Quốc của cậu thuận buồm xuôi gió.

    Bạn của cậu,

    T”

    Dựa vào độ cũ của giấy viết thư, người nhận thư chắc chắn không phải quý ngài tiểu Redmonton tôi mới tới thăm kia. Bọn tôi đều tin cha mình là một người vĩ đại, nhưng tôi không hề hay biết, cha tôi từng tham dự chuyện nào đó——có thể như trong thư viết, có ý nghĩa vượt thời đại.

    Phong thư này được kẹp trong quyển《Dung hợp》, thật chỉ là một sự trùng hợp thôi ư?

    Tôi tựa vào cửa kính xe hồng bì ngủ một đêm, cho tới khi tiếng chuông kêu truyền đến từ đầu xe, tôi mới thu dọn đồ đạc nhảy xuống xe. Nhiệt độ bên ngoài khá thấp, thời tiết cuối tháng năm giống như đã vào thu, hà hơi mạnh sẽ có khói. Bức tường ngoại thành rất sạch sẽ, có mấy người khoác áo choàng màu xám vừa mới đi qua đó, từ cổng thành mở tôi còn có thể thấy thấp thoáng cỏ dại ngoài thành.

    Đây chính là trung tâm của Phổ Quốc——thành thứ chín.

    Quang cảnh dưới chân tường thành thật sự hoang vu. Tôi nhớ lại địa chỉ được nhắc tới trong nhiệm vụ, hỏi thăm người qua đường. Gã thanh niên kia có vẻ hơi cảnh giác, lắc đầu rồi vụt đi. Trái lại hai đứa nhỏ choai choai ôm đàn đi qua rất là nhiệt tình, sán tới nói rõ với tôi, hỏi xin tôi ít tiền lẻ. Tôi thế mới biết địa chỉ kia hướng sâu vào trong thành thứ chín, không thể làm gì khác hơn là đi một đoạn, đáp một chiếc xe mộc.

    Chủ xe rất khéo nói, dăm ba câu đã hỏi được mục đích chuyến này của tôi. Tôi còn chưa kịp mở miệng quanh co, chú ta đã tự nói trước đến khí thế ngất trời:

    “Giọng cậu không giống người bản thành, từ vùng khác tới đúng không?” Chú nói, “Khu vực trung tâm của thành thứ chín có thể không nhộn nhịp bằng bên ngoài. Cậu xem quanh đây tiểu thương, họa sĩ trên phố pha thuốc màu, còn có trẻ lang thang ca hát với bọn móc túi——những cảnh như vầy chờ tới lúc cậu vào trong rồi sẽ không thấy nữa đâu. Mấy dặm quanh đó đều rất yên tĩnh, lính tuần tra của Hội lễ nghĩa ngày nào cũng có, cậu có thể thấy mọi lúc mọi nơi. Nhưng có một ngoại lệ——chính là số 30, đường 28 mà cậu bảo đấy”

    Chú ta ngâm nga một làn điệu, điều khiển bánh xe ngoặt sang một hướng, đi qua hai dãy nhà trắng xanh thấp bé, rồi vòng qua mấy bụi hoa chuông xanh trên đất trống. Đây là lần đầu tiên tôi đi loại xe này, cảm giác rất mới mẻ, không nhịn được nhìn trái nhìn phải ngó trước ngó sau không yên. Tôi để ý thấy, xe mộc dưới thân tôi không phải do ngựa kéo đằng trước, mà hình như cũng chẳng phải do ma lực điều động. Chủ xe chỉ cần thi thoảng gạt mấy cái tay cầm cơ khí sang trái sang phải, mấy cái bánh xe bên dưới sẽ chuyển động cuồn cuộn.

    “Tại sao chỗ đó lại không giống những nơi khác hả chú?” Tôi tiếp tục câu chuyện của chú ta, ngầm thừa nhận lời giải thích là người vùng khác.

    “Ồ, cậu không biết à——tôi cũng đoán được” Chủ xe huýt sáo vang, “Bên ngoài số 30 đường 28 có bố trí một điểm cứu tế. Nghe nói gần đây ngoài bánh mì với trái cây ra, hai ngày trước người của giáo hội còn bắc một cái bếp lò mới bên ngoài nhà. Trời lạnh, người tới sẽ nhiều hơn”

    “Điểm cứu tế?” Tôi lặp lại, đột nhiên thông suốt, “Là——một vị giáo chủ của chúng ta sao?”

    “Chính là đề xuất của Đại giáo chủ Garuno” Phạm vi câu chuyện của chủ xe dường như đã mở rộng ra, ngay cả xe của chú ta cũng chạy nhanh hơn, “Cũng chỉ có nơi ở gần đây mới có thể cảm nhận rõ được, giáo chủ đại nhân là người hảo tâm đến nhường nào! Tôi chưa thấy ai từ bi hơn ngài ấy——lại còn vô tư và lương thiện nữa chứ. Có ai lại đi thương cảm cảnh ngộ của những người đói bụng, không nhà để về không? Nếu để tôi nói, những việc đó chẳng liên quan gì đến ngài ấy hết. Ngài ấy là con dân quan tâm Thần nhất, cũng là tín đồ thành kính nhất của Thần. Không những thế, thế hệ tiếp theo của chúng tôi…”

    Giọng điệu của chú ta tức thì chìm xuống, thay vào đó niệm một câu cổ ngữ giống lời cầu nguyện. Tôi thấy người ở ven đường thưa thớt dần, có một đội ngũ khoác áo choàng xám, nửa mặt giấu trong bóng của chiếc mũ trùm rộng, vòng ra từ phía sau góc đường. Sự xuất hiện của họ như thủy triều quét sạch âm thanh của mọi người xung quanh, lúc nhìn thấy họ, người đi đường hai bên phố đều đứng yên bất động. Xe của chúng tôi cũng dừng lại, sau khi đội ngũ kia biến mất khỏi tầm nhìn mới tiếp tục lên đường.

    “Là lính tuần tra à?” Tôi nhớ đến cái tên ông chú nhắc tới trước đó, hỏi dò.

    “Là lính tuần tra” Người chủ xe trang trọng nói.

    Sau đó chú ta không nói nhiều nữa, bốn phía cũng trở nên yên tĩnh, người ven đường đều kiệm lời ít nói. Mãi đến khi chú ta thả tôi xuống đường 28, mới có tiếng cãi cọ ồn ào từ xa truyền vào lỗ tai tôi.

    Tôi đưa tiền xe cho chú ta, chú cất vào trong túi tiền, nói với tôi: “Thần yêu con dân của ngài”

    “Đúng vậy” Tôi thuận miệng đáp. Trong nháy mắt đó biểu cảm của chú ta hơi kỳ lạ, tôi ý thức được có thể mình đã nói sai gì đó ——nhưng cái người chủ xe lúc trước miệng lưỡi lưu loát không nghiên cứu cặn kẽ, đã đổi hướng đi rồi.

    Không khí mát rượi, tôi hít sâu một hơi, đi về phía số 30.

    Bên ngoài căn nhà số 30 có hai bà bác trùm áo choàng lộ mặt, đang phân phát đồ ăn cho đám nhỏ chen chúc gầy còm. Đám đông chờ đợi ngoài trẻ con còn có một vài thanh niên quần áo chỉnh tề cùng mấy người phụ nữ xách giỏ, đang mong mỏi nhìn về phía căn nhà tỏa hơi nóng màu trắng. Tôi lặng lẽ đeo “Mặt nạ linh hồn” vào ngón tay, vò áo khoác mỏng cho nhiều nếp nhăn rồi ôm vào ngực, cởi một cái khuy măng sét ra, cũng chen vào phía sau đám người.

    Xếp hàng trước tôi là một người trung niên, dáng ngươi hơi lọm khọm, một cái cột sống nhô ra khỏi lớp vải che phần lưng. Bà bác phân phát thức ăn hình như đưa đồ ăn cho ông ta, hai người nói với nhau câu gì đó, sau đấy tới lượt tôi.

    Trước người hai bà bác kê một cái bàn, bên trên có mấy cái sọt lớn, mùi thơm của thức ăn và hơi nóng tỏa ra từ đó. Một bà bác trong đó đưa tôi một cái bánh mì, một người khác múc cho tôi một bát canh nhỏ, dịu giọng chỉ tôi nơi trả lại bát.

    “Cảm ơn” Tôi ngước mắt, nhìn thật nhanh ra phía sau các bà. Lúc này tình hình chung của nhà số 30 rõ ràng hơn rất nhiều——vẻ ngoài của nó tương tự nhiều nhà dân tôi từng thấy trước đó, thậm chí còn đơn giản hơn, tổng thể mặt trước đều là màu xám trắng, trên cột nhà làm bằng đá không có hoa văn trang trí gì. Cả căn nhà chỉ có một tầng nho nhỏ, một cái cửa mở toang rộng bằng một người——không có cửa chính. Cửa chính đáng lẽ phải có hình như đã bị dỡ ra, nhìn từ đây, chỉ có thể thấp thoáng thấy được một cái hành lang ngắn sạch sẽ.

    Tôi cầm bánh mì và bát canh trên tay, lại nghe bà bác kia nói: “Thần yêu con dân của ngài”

    Lúc này tôi lưu tâm, cũng thử đáp lại: “Thần yêu con dân của ngài”

    Có lẽ tập tục là vậy. Bà bác kia nở nụ cười dịu dàng, ra hiệu người phía sau tôi tiến lên. Một đống đồ vật linh ta linh tinh xếp chồng trong lòng tôi, tôi đi tới cuối đội ngũ, cầm bánh mì chấm canh như rất nhiều người.

    “Tôi mới tới đây lần đầu,” Tôi nói nhỏ với một người ăn như hổ đói bên cạnh, “Có thể cho tôi biết bình thường cứu tế lúc mấy giờ không?”

    “Từ trưa đến tám giờ tối” Người nọ hình như bị hỏi mà nghẹn một cái, nghi ngờ giương mắt nhìn tôi.

    “Vậy thì, vào những giờ khác chỗ này không có một bóng người à?”

    “Trừ lính tuần tra” Người kia nói. Tiếp đấy tập trung vào đồ ăn của mình, không đáp lời tôi nữa.

    Chiếc nhẫn màu bạc kia vẫn được tôi đeo bên tay phải. Tôi tìm một quán trọ nhỏ phụ cận đường 29, thanh toán tiền thuê bảy ngày, bắt đầu lưu ý thời gian và tuyến đường lính tuần tra qua lại——trong đó có thông tin tôi quan sát được, cũng có cái được người lang thang buột miệng tiết lộ. Tôi phát hiện nhà 30 dường như cũng không đặc biệt, lúc ở ngoài cửa không tổ chức cứu tế, cánh cửa kia vẫn mở toang, giống như không đề phòng kẻ xâm nhập ngoại lai. Mấy lần tôi đi ngang qua đều không thấy có người ra vào chỗ đó, cho rằng nó có thể là căn nhà bỏ trống.

    Xuất phát từ cẩn thận, vào tối ngày thứ bảy tôi theo thường lệ lẫn vào đám người nhận cứu tế, sau đó rúc qua một bên góc tường ngồi xuống đất. Tôi dùng cơ thể che động tác ngón tay, đứt quãng vẽ một cái trận pháp ẩn nấp quanh người. Chờ đến lúc cứu tế chấm dứt, đám đông tản ra, mà đội lính tuần tra cũng vừa vặn đi qua trước mắt tôi, tôi lập tức chui vào cửa nhà số 30. Hành lang trong căn nhà kia không có đèn sáng, có điều liếc cái là nhìn được đến cuối. Mỗi bên trái phải có một cái cổng tò vò, giống nhau cũng không có cánh cửa.

    Tôi bước vào cửa bên trái trước, vẽ vào tay một phù văn tiểu đăng để chiếu sáng.

    Đó là một căn phòng không lớn, nhìn qua như dành cho một người ở, bày biện hết sức giản dị: một cái bàn học chân rộng dựa vào tường, một cái ghế, một cái giường kê dưới cửa sổ, ga trải giường màu be, to bằng mặt giường. Trong căn phòng này hoàn toàn không có chỗ để giấu đồ——ngay cả sàn nhà dưới chân cũng đặc ruột. Tôi nhớ lại nội dung yêu cầu trong thư hết lần này đến lần khác, quyết định đi xem căn phòng bên phải rồi quyết định sau.

    Lúc phù văn tiểu đăng lần nữa được thắp sáng trong chớp mắt, tôi suýt thì tưởng chặng đường trước đó đều là ảo giác của mình. Căn phòng bên phải nhìn như một bản sao hoàn hảo của căn phòng bên trái, bất kể là vị trí kê giường, bàn học chân rộng hay là ghế dựa đều giống hệt. Nhưng căn phòng này có thêm hai cái cửa sổ, khảm trên hai mặt tường đối diện. Một cái hướng về nơi cứu tế; tôi tới nhìn, phát hiện khung cửa sổ chỗ đó bị đóng đinh—— cánh cửa ở một đầu khác thì mở toang. Tôi ló đầu ra ngoài cửa nhìn thử, phát hiện phong cảnh bên ngoài rất tốt, trồng cây cối sẫm màu, cách đó không xa còn có một hồ nước.

    “Chỗ này gần như chỉ có bốn bức tường,” Tôi buồn nản nghĩ, “Nên cũng chẳng cần bảo vệ”

    Tôi gõ gõ vách tường, không từ bỏ ý định tìm kiếm lần nữa, nhưng lúc rũ mắt xuống thì thấy một điểm khác biệt: dưới bàn của phòng này giấu một cái tủ thấp. Trước do hai bên chân bàn quá rộng nên tầm nhìn của tôi bị chắn mất.

    Tôi không khỏi đánh giá một vòng xung quanh, nằm sấp người xuống chạm cái cửa tủ kia. Mặt trên của nó không có tay cầm, chỉ có một chỗ lõm nhỏ, lúc tôi đẩy kéo không hề nhúc nhích.

    Lúc tôi đăm chiêu, tiếng bước chân từ xa tới gần trở nên rõ ràng vô cùng. Nó thong thả vững vàng, chỉ cách có một bức tường, hướng về phía cửa phòng chỗ tôi. Vào thời khắc ấy tôi theo bản năng bóp tắt phù văn trong tay, lăn xuống gầm bàn, cố hết sức co người vào chỗ hổng giữa tủ thấp, chân bàn và tường đá. Một giây sau người nọ đã bước vào phòng, hình như đứng ở cửa một lát, sau đó bật đèn, dịch ghế tới trước bàn học, bắt đầu viết gì đó sột soạt.

    Góc nhìn của tôi đủ để thấy giày và ống quần người nọ. Nó mang đến cho tôi một cảm giác gì đấy quen thuộc, giống như bộ đồ của lính tuần tra. Dựa vào kích cỡ, là chân của một người đàn ông——chắc là hộ gia đình ở đây. Có thể là một vị giáo sĩ bận rộn, tình nguyện ở trong hoàn cảnh kham khổ này.

    Vị giáo sĩ kia viết chữ một lúc, sột soạt cất giấy bút đi, đứng dậy khỏi ghế. Tôi nín thở, không dám thở mạnh, liền nghe tiếng bước chân của người nọ xa dần, sang đầu kia căn phòng. Tôi nhớ hướng đó, đại khái là cánh cửa sổ hướng tới cây cối và hồ nước.

    Tôi không nhúc nhích, tính toán thời gian, ảo tưởng chân hắn mọc rễ tại chỗ. Lại nghe giáo sĩ kia đột nhiên thở dài, phát ra tiếng nói nhỏ đến mức không thể nghe thấy: “Người từng nói với con, cửa phòng của người luôn rộng mở với tất cả mọi người, như thế thì những linh hồn cần cứu vớt mới không phải vất vả bôn ba…”

    Đó là giọng nói của một người trẻ tuổi.

    Tôi xuất thần nghe cậu ta nói xong, cậu ta lại im lặng, có tiếng ma sát của vài cuộn giấy, rồi tiếng đế giày cậu ta giẫm nhẹ xuống đất. Sau đó người nọ rời đi, căn phòng này đột nhiên quay về với bóng tối ban đầu.

    Tôi im lặng chờ một lúc mới chui ra khỏi chỗ hổng. Tôi đã chuẩn bị cho nhiệm vụ thất bại——tôi thật sự không có tí manh mối gì về vị trí của cái hộp đen, cũng không thể gióng trống khua chiêng phá cái tủ này được. Thông tin được tiết lộ cho tôi trong thư quá ít, chỉ nhìn vào tình huống hiện giờ của tôi, thông tin ít ỏi như thể người ra lệnh không trông ngóng tôi có thể hoàn thành nó vậy. Nếu nó không phải là một “nhiệm vụ” mà là bài “kiểm tra”, tôi thậm chí sẽ cho rằng đây là cố gắng gây khó dễ cho thí sinh.

    Nhưng tôi vẫn không cam lòng, áp sát tay phải lên cửa tủ, suy nghĩ có nên dùng một phù văn nào đó thử một lần không. Có lẽ phải là ma văn mới mở được tủ——chứ không phải phương pháp phong tỏa đồ vật kiểu cũ.

    Tôi vuốt nhẹ qua lại ván cửa trơn nhẵn mà nặng trịch, nhưng phút chốc cảm thấy cánh cửa nảy nảy nảy ở lòng bàn tay tôi. Tôi rút tay lại theo bản năng, cửa kia đã tự động bật ra, để lộ một xấp giấy cuộn chất kín bên trong.

    Đầu óc tôi mơ hồ, ngón tay di chuyển theo logic hướng vào trong tìm kiếm. Ở tận sâu trong tủ tôi chạm phải một vật có góc cạnh, bèn dời chồng giấy cuộn ở tầng cao nhất đi, lấy cái vật cứng phía sau giấy ra.

    Dựa vào ánh sáng của phù văn tiểu đăng, tôi nhìn thấy một cái hộp màu đen, dẹt, dài hơn chút so với lòng bàn tay, đang lẳng lặng nằm trên tay tôi.

    Điều bất ngờ này thật sự quá khó tin, cũng quá chấn động. Tôi thẫn thờ đóng cửa tủ lại, rồi thử kéo mấy lần nhưng không có kết quả. Tôi đối chiếu những tình tiết trong trí nhớ, trầm ngâm chốc lát, cởi chiếc nhẫn bên tay phải ra, dán lên chỗ lõm trên cửa. Đúng như dư đoán, cái tủ kia mở ra một lần nữa.

    “Hình dáng của hốc cửa, quả thật có thể khớp với kích thước phần nhô ra của một viên bảo thạch, có lẽ thuộc sở hữu của chủ nhân nó” Tôi nhìn nó chằm chằm, nghĩ, “Nhưng nhẫn của mình——mình tới từ một đất nước khác, nhẫn không khảm bất cứ bảo thạch nào, tại sao cũng có thể mở được cánh cửa này? Cấp trên không thể nào biết được sự tồn tại của nó. Bọn họ dựa vào gì mà có lòng tin mình có thể lấy được cái hộp đen này?”

    Tôi không kịp nghĩ nhiều. Sắp tới thời gian luân phiên đợt lính tuần tra tiếp theo, sau đó chính là giờ giới nghiêm. Nghe đâu vào lúc này thành viên của “Hội lễ nghĩa” tuần tran ban ngày sẽ đổi với thành viên của “Hội cứu rỗi”, mà khi mọi người nói đến “Hội cứu rỗi” cũng kiêng kị ít nhiều. Tôi không muốn chạm mặt họ, bèn cấp tốc nhét hộp đen và nhẫn vào túi, cầm trong tay tập thơ trước để ở đó——túi hơi phồng, nhưng không nhìn kỹ cũng không dễ bị phát hiện——rón rén chạy ra ngoài. Chân trước tôi vừa bước ra khỏi cửa thứ nhất, chợt cứng đờ tại chỗ.

    Đèn hành lang lúc ấy bỗng sáng lên, có người đứng ở đối diện tôi.

    Hắn mặc áo choàng màu xám, mặt giấu dưới bóng mũ trùm, chỉ lộ nửa cái cằm và vài lọn tóc rũ xuống bên ngoài. Đỉnh đầu chúng tôi là ánh đèn u ám, tôi không thấy rõ vẻ mặt hắn.

    “Xin chào” Người tôi cứng ngắc, cố duy trì biểu hiện tự nhiên. Tôi nhịn không cúi xuống nhìn chiếc áo khoác giấu hộp đen có đủ phẳng hay không.

    Hắn mở miệng nói: “Anh là ai?”

    Hắn hỏi rất ngắn, với giọng điệu bình thường nhưng lại giống như đang kìm nén cơn giận——đó là giọng của chủ nhà tôi nghe thấy trước đó.

    Giờ phút này tôi chỉ có thể cầu nguyện hắn không tận mắt thấy động tác của tôi, có lẽ chỉ vừa mới vòng qua.

    “Tôi chưa quen chỗ này, chỉ mới tạt qua,” Tôi hạ thấp giọng, “Xin lỗi, tôi làm sai gì sao ạ? Tôi mới được nhận cứu tế. Nghe bà bác ở đây bảo, giáo hội mở cửa với tất cả mọi người nên hôm nay tôi mới tới nhìn”

    Đương nhiên là tôi nói bừa, phát huy một chút trí tưởng tượng kết hợp với tình huống thực tế——nhưng giọng nói đối diện tôi dịu xuống như phép màu.

    “Anh nghe nhầm rồi,” Hắn nói, “Câu kia là chỉ giáo đường. Nơi này là chỗ ở tư nhân của tôi”

    “Lúc trước tôi không biết, thật sự xin lỗi,” Tôi nói, “Tôi chỉ liếc mắt vào trong, phát hiện ra đó không phải nơi giảng đạo”

    Tầm mắt của người nọ chắc đang quan sát tôi dưới bóng mũ trùm.

    “Trong tay anh cầm gì vậy?” Hắn hỏi.

    “Tập thơ tôi sáng tác” Tôi mở nội dung bên trong ra cho hắn xem “Tôi có thể đảm bảo không phải lấy ra từ giá sách ở trong——nếu có”

    Hắn giở qua loa, hình như đang xem xét tiếp theo phải xử lí như thế nào.

    “Cảm ơn ngài đã tha lỗi cho tôi,” Tôi nói tiếp, nhớ lại những lời hoa mỹ các tín đồ hay nói, “Thần sẽ rất yêu ngài, đại nhân”

    Hắn không nói gì nữa, trả cuốn tập lại cho tôi, hơi nhường đường, như thể đang ra hiệu tôi có thể đi qua bên cạnh hắn. Tôi có thể cảm nhận được ánh mắt hắn không ở trên người mình nữa, tôi chầm chậm đi vào màn đêm xa xăm.

    Chương 44

    Sau khi đi được một đoạn tôi bắt đầu chạy như điên——tôi không rõ câu nào của mình chạm vào đầu người nọ, khiến hắn bỏ qua những điểm khả nghi của sự kiện, ví dụ như tại sao tôi phải lẻn vào nhà trong bóng tối——chờ hắn phát hiện bài trí trong phòng có dấu vết bị người dịch chuyển, tiếp đó mở tủ ra kiểm tra, tôi có lẽ sẽ phải bắt đầu kiếp sống bị toàn thành truy bắt.

    Vả lại gay go nhất còn có một điểm: trong lúc kích động, tôi ra cửa quên không đeo nhẫn, để người nọ thấy được diện mạo ban đầu không bị che giấu.

    Tôi thu dọn qua loa đồ đạc còn lại của mình ở nhà trọ, thay mới quần áo toàn thân, tiêu hủy bộ trước đó đi. Lại lấy dao cắt mấy lọn tóc mái hơi dài, vò thành kiểu tóc lôi thôi lếch thếch thường thấy của mấy người lang thang. Tôi nhớ lại con đường đi tuần của lính tuần tra, chạy một mạch ra phạm vi trung tâm thành thứ chín, chôn chiếc hộp đen xuống dưới gốc cây nào đó trên đoạn đường không người.

    Tôi cảm thấy bầu không khí trong thành có chút khác biệt không thể giải thích được, nhưng tin tức chiếc hộp bị mất trộm vẫn chưa lan đến chỗ ở hiện tại của tôi, ngoại thành vào ban đêm vẫn bị sương khói bao phủ. Mấy kẻ lang thang đang cúi đầu ngồi vòng tròn cạnh bụi hoa, đằng sau đặt mấy cây đàn, trong vòng là bài sao, xúc xắc và một xấp tiền.

    “Sắp thua rồi” Tôi quan sát canh bạc này một lúc từ xa, tới phía sau một đứa bé nói.

    Nó không khách khí quay đầu lườm tôi một cái, hai đứa bạn của nó cười hì hì đẩy nó.

    “Đồ ngốc, đừng có xen vào việc của người khác” Nó gào lên một cậu, giật tay bạn mình ra, ném hai lá bài trong tay. Qua mấy hiệp rút chia bài, trên trán nó đã lấm tấm vài giọt mồ hôi, ngón tay cầm bài chặt hơn, số bài còn lại trong tay càng lúc càng ít. Hai người bạn của nó thỉnh thoảng nhìn về phía tôi. Cuối cùng thằng nhóc kia chán nản nện một quyền xuống đất, quăng hết bài đi.

    “4 Fock,” Bạn của nó dốc hết sức cười nhạo nó trắng trợn, “Bài vận của mày bị tên sao chổi đằng sao nói trúng rồi”

    Tôi chỉ nó, nói: “Nhóc thua thứ hai”

    Đứa kia nuốt lại lời, tiếp tục chơi bài với đứa còn lại. Tới khi bắt đầu vòng thứ ba, thằng nhóc đó kề cà mãi cuối cùng mới lộ bài, sau đó cũng tiu nghỉu gục đầu xuống. Hai đứa thua lúc này chắc có cùng tâm trạng, hơi không vui trừng tôi.

    Tôi móc một đồng lẻ ném vào trong vòng, nở nụ cười với tụi nó: “Không bằng thêm anh ha?”

    “Anh chơi được không đó?” Đứa thắng kia do dự nhường ra một chỗ cho tôi.

    “Anh cược là thắng” Tôi nói, đúng lúc liếc về đóa hoa chuông xanh bên cạnh——phần gân dưới phiến lá của nó đang phát ánh sáng nhàn nhạt từ gốc, ánh sáng màu lam kia sắp lan đến ngọn lá, “Anh cá đóa hoa kia sẽ nở trong vòng mười giây”

    Ba tên nhóc kia nhìn nó chằm chằm, sau đó đồng loạt há to miệng.

    “Bọn tui có bảo cược cái này đâu” Một đứa trong đó tự nhiên lầu bầu bảo, gom xấp tiền về phía mình.

    “Biết,” Tôi nói, “Anh chỉ tới chơi bài thôi”

    Từ khi còn rất nhỏ tôi đã bắt đầu chơi bài sao, sớm nhất là đấu với Redmonton, về sau thì chơi với Ode. Về tổng thể, quy tắc là tổng số sao của người giữ bài phải đạt tới một giá trị, mà giá trị đó được quyết định bởi số sao do tất cả người chơi ném ra. Nguyên lý hơi phức tạp chút nhưng người đã mày mò ra thường có thể dựa theo một quy luật.

    Đánh bạc thắng mấy đứa nhóc choai choai này chẳng vẻ vang gì, nhưng lúc này tôi không thể không ném cái mặt già đi, cố tỏ vẻ mình là một con bạc ngứa tay, dứt khoát chơi thêm mấy ván với tụi nó. Ban đầu tôi cân nhắc thắng thua, số tiền ra vào nhỏ, lập tức khiến cái lời khoác loác “cược là thắng” tuyên bố phá sản. Bọn nó cười cợt xoay quanh cái chủ đề này, nhưng sau cũng tập trung vào bài. Tiền cược mấy ván sau của bọn tôi càng lúc càng lớn, tầm mắt bọn nó mấy lần lơ đãng lướt qua bên người tôi, hình như đang phỏng đoán trong túi tôi còn bao nhiêu.

    “Thắng ván này, tất cả cho bọn em” Tôi nói, “Anh muốn một cây đàn”

    “Lục huyền cầm đáng giá hơn cái này nhiều,” Ánh mắt của đứa trẻ lóe lên nói, “Em không cược cái này với anh”

    “Nhưng anh chỉ còn ngần này tiền mặt thôi, không ít đâu. Đánh tới đánh lui mấy đồng tiền trinh thì chán quá, mỗi ngày trong lòng bàn tay nhiều như vầy nè——anh không phàn nàn gì về việc thua nhiều thắng ít! Vận may của anh đa số rớt sạch theo dũng khí của mấy đứa rồi” Tôi nhỏ giọng nói, “Cược không? Không cược thì thôi”

    Tôi xác định mấy ngày gần đây trạm gác ra khỏi thành sẽ kiểm tra rất nghiêm ——cho dù số tiền còn lại đủ để tôi mua một chiếc vé tàu nhưng tôi vẫn định chờ đến khi đầu gió qua đi mới lên đường về. Lính tuần tra có lẽ sẽ lần lượt kiểm tra nhà trọ và dân cư, thân phận của những người lang thang không đáng chú ý ở ven đường ngoại thành lại là một lớp ngụy trang tốt hơn. Nhưng tới đây, có thứ vào lúc này tôi không thể nào đi mua được, nhưng mấy người lang thang ai cũng có.

    Tôi cầm một cây đàn rời khỏi vòng bài bạc, phía sau còn mơ hồ truyền tới vài tiếng oán giận nhau của lũ trẻ. Tôi vừa đi vừa nghĩ chỗ ngủ ngoài trời tối nay, tiện tay gảy nhẹ cây đàn trên người một cái. Dây đàn rung lên giai điệu mềm mại, tiêu tan trong đêm sương mù dày đặc này.

    Trong mấy ngày này, tôi nghe được tin đồn khắp đường, khu vực trung tâm thành thứ chín giới nghiêm. Lính tuần tra ngoại vi cũng dần dần nhiều hơn, tôi thấy họ dán chân dung tôi. Những chi tiết nhỏ trong bức vẽ đó quả thật rất sinh động, ngũ quan của tôi gần như y hệt, quần áo cùng ngày, bên dưới viết lý do truy nã bằng chữ nhỏ: “Trộm vương miện”

    Nhưng mà trong lòng tôi biết rõ, bất kể nhìn từ phương diện nào, thứ trong chiếc hộp dẹt kia không thể là một vật nặng như vương miện.

    May là tôi vẫn còn chiếc nhẫn này, đủ để mặt tôi thi thoảng được tiếp xúc ánh mặt trời trên phố. Tôi vượt qua mấy ngày này dựa cả vào túi lương khô, dần dần mò ra được chợ đen và chợ trắng (1) ở đây, không dám thăm dò bừa thêm. Sau giờ giới nghiêm ban đêm tôi đã học được hành vi của của hầu hết đàn ông lang thang, rúc dưới tường gạch của “Hẻm xám” chầm chậm ngủ. Trong lúc đó có đồng liêu tới tán dóc với tôi, phần lớn đều trêu đùa vô nghĩa về thời tiết.

    Số tôi cũng không nát lắm, đến buổi tổi ngày thứ ba mới không cẩn thận đụng phải “Hội cứu rỗi” đi ra ngoài.

    Ngày đó tôi tới hẻm xám như thường lệ. Có lẽ bởi lúc sớm hơn từng có mưa, hôm đấy chân tường xám không có quá nhiều người tụ tập. Vẫn chưa tới giờ ngủ, tôi chỉ dựa vào tường ngủ gà gật. Lúc này tôi bỗng nghe thấy tiếng hàm răng khép mở, lập tức phát hiện nó đến từ cô nàng bên cạnh mình. Mái tóc vàng hơi xoăn của cô ta dán vào cái cằm nhọn run run, mơ hồ lộ nửa gò má xinh xắn tái nhợt.

    Tôi nhìn thẳng theo tầm mắt cô nàng, trông thấy một đội trùm áo xám đi tới từ xa. Bọn họ giống lính tuần tra của Hội lễ nghĩa vào ban ngày, nhưng đi chậm hơn, nhịp chân nhẹ hơn, trên đỉnh đầu như phủ một đám mây đen dày đặc. Thoạt nhìn thứ họ cầm trên tay là quyền trượng giảng đạo, nhưng lại rất giống đao kích. Bên hông họ cột nhiều dây thừng, là mấy sợi dây thừng thô to vặn lại, quấn sơ thành một cái nút, đuôi dây thừng thòng xuống mu bàn chân họ.

    “Sao vậy?” Tôi hỏi.

    Đôi môi cô gái kia trắng bệch, mãi mà chẳng nói được lý do, thay vào đó lại có người trong hẻm xám trả lời thay cô ta: “Là cứu rỗi sẽ tới”

    “Cứu rỗi thì sao?” Tôi hỏi. Tôi vẫn chưa rõ ý nghĩa đại biểu của từ này.

    “Bọn họ thẩm phán, giết người. Hoặc là không thẩm phán” Gã lang thang kia nói tiếp, “Quyền lợi của Thần”

    Tôi nhìn gã nhắm hai mắt lại, hình như đang ấp úng cầu nguyện gì đó.

    Người ở hẻm xám lẳng lặng rời đi một nửa, còn lại rất ít đều là mấy người uể oải dựa vào chỗ cũ, điệu bộ phó mặc cho số phận. Giờ tôi mà rời đi thì lộ liễu quá, khoảng cách của lính tuần tra Hội cứu rỗi không xa bằng ban đầu.

    Cô gái bên cạnh tôi vẫn cứ run lẩy bẩy, như là đang bị nỗi sợ hãi vây tại chỗ. Tôi đoán có lẽ cô nàng có quan hệ nào đó với giáo hội, thế là đụng nhẹ cô một cái, nói: “Ra đằng sau tôi đi”

    Tôi dịch sang một bước, để lộ cái khe rộng bằng nửa người phía sau——tôi có thói quen lúc ngủ chất đống đồ vật vào đó, rồi dùng lưng chặn lại để ngừa chúng hôm sau không cánh mà bay, không ngờ hôm nay cũng có thể phát huy tác dụng.

    Cô gái kia hình như lúc này mới chú ý tới tôi, nghiêng đầu về phía tôi. Nhưng nỗi sợ hãi trong mắt cô vào thời khắc này dường như sâu hơn, dáng vẻ kia cứ như một con thú non rúc tất cả vào ổ. Tôi lập tức ý thức được cô ta không chịu tin tưởng mình.

    “Nói thật nhé” Tôi khẽ nói thật nhanh với cô ta, “Nếu cô có mẫu thuẫn gì với đám người áo xám kia, tôi khuyên cô tạm thời tránh khỏi tầm mắt họ——chí ít thì giờ tôi sẽ không làm hại cô”

    Tôi hơi nghiêng người sang, ra hiệu cô ta vẫn kịp mượn tôi để che. Cô gái kia do dự một chốc, cuối cùng trốn vào trong bóng sau lưng tôi.

    May mà những người của Hội cứu rỗi chỉ dùng ánh đèn đảo qua mặt chúng tôi lúc đi qua, đối chiếu với bức chân dung hình thần kiêm bị (2) của tôi, chưa dừng lại lâu đã chuyển sang lối khác. Khi đuôi đội ngũ kia biến mất sau góc đường, tôi nghe thấy có một lão lang thang thở dài, trước ngồi cứng ngắc dưới đất nay sụp vai xuống.

    Tôi để cô gái đi ra, cô nàng kề sát trên vách tường cạnh tôi, thoạt trông đã bình tĩnh hơn, chí ít không còn run rẩy nữa.

    Lúc này tôi có có thể cẩn thận đánh giá cô ta một phen. Cô nàng hình như có đôi mắt xanh lá, khuôn mặt hết sức xinh đẹp, tuổi không lớn lắm——có điều trang phục rất quái lạ, mặc một cái áo cánh khá rộng cùng một cái quần không vừa vặn cho lắm, tổng thể không bẩn thỉu. Lưng không đeo đàn, nhìn đường nét hai tay cũng chẳng phải người làm công việc nặng nhọc. Tôi đoán, có thể cô nàng chạy khỏi nhà hoặc chỗ nào đó, vội vàng kiếm bộ đồ cải trang này.

    “Cô có cần giúp không?” Tôi hỏi.

    Vốn tôi định nhanh chóng rời khỏi đây. Mới nãy Hội cứu rỗi đi tuần mang tới cho tôi cảm giác chẳng lành, giống như bên ngoài tường của hẻm xám đều nhuộm một tầng bi thương u ám vậy. Nhưng nhìn bộ dạng sợ hãi không thôi của cô gái, tôi lại không nhịn được nghĩ mình phải nói gì đó rồi hãy đi.

    “Nếu cô không cần thì tôi phải đi đây” Tôi nói.

    Hai mắt cô nàng nhìn tôi vẫn đầy ngờ vực. Sau khi trút bỏ lớp vỏ sợ sệt kia, tất cả động tác, cảm xúc, suy nghĩ của cô ta đều giống như đang co rút trong xác thịt yếu ớt kia, bị sự phòng bị và kiên quyết trói chặt lại với nhau. Tôi nhún vai một cái, cảm thấy mình vừa làm điều thừa, đeo túi đi ra ngoài.

    “Khoan đã” Bỗng có người nói đằng sau tôi.

    Tôi quay đầu lại nhìn, chần chờ quét mắt tới lui. Phần lớn người trong hẻm xám đều đã nhắm mắt, chợp mắt, hoặc đang ngủ say. Trong đám người tỉnh táo, chỉ có một người nhìn tôi. Tôi rốt cuộc có thể xác định cái người nãy ở bên cạnh mình là người mở miệng.

    Tôi quả thật không thể tin nổi——giọng nói tôi vừa nghe được lại là của một thiếu niên.

    “Cô là nam——” Tôi buột miệng, tiếp đó thấy vẻ mặt cậu ta u ám, “——à ờ, hiếm khi ra ngoài một chuyến hả?”

    Tôi sờ mũi. Cậu ta bỏ qua câu hỏi vô nghĩa của tôi, hoàn toàn không có ý định trả lời. Tôi có thể cảm nhận cậu ta muốn hỏi tôi gì đó, nó quanh quẩn ở miệng cậu ta, chần chừ mà sa vào chán nản.

    Cậu ta nhìn tôi không chớp mắt, chân hơi lùi về sau một bước.

    “Anh có thể dẫn tôi đi không?” Cậu ta hỏi.

    Chương 45

    Sự nghi ngờ bất định trong mắt cậu ta dường như đã nói rõ, đề nghị này cũng chẳng phải sự ỷ lại sinh ra sau hoạn nạn. Nhưng ngữ điệu của cậu ta lại kiên quyết bất ngờ, giống như đang sợ bản thân đổi ý.

    Vốn tôi định từ chối thỉnh cầu này, nhưng nghĩ đi nghĩ lại, dù sao sau khi rời khỏi đây, tôi cũng cần có người cùng đường có thể yểm hộ lẫn nhau, giảm đi một ít phiền phức mà thẩm tra mang đến.

    “Được rồi” Tôi nói, dẫn cậu ta ra khỏi hẻm xám.

    Cậu ta bảo tôi gọi mình là Lindsey, tôi kêu cậu ta gọi tôi là “Vic”. Chúng tôi đồng hành rất nhiều ngày, vẫn từ tốn hướng về phía tường thành. Càng ngày tôi càng chắc chắn rằng cậu ta trốn ra từ chỗ nào đấy mà không có kế hoạch chu toàn, thậm chí trên người cậu ta còn chẳng có lấy một xu——May mà tôi còn một ít, trừ phần chuẩn bị để mua vé xe, số còn lại vẫn có thể miễn cưỡng lấp đầy cái bụng của chúng tôi.

    Mới đầu lòng cảnh giác của cậu ta rất nặng, có sự chống cự với việc người khác tặng đồ ăn cho, chỉ nắm chặt cái bánh mì tôi đưa, nhìn nó một lúc lâu. Có một khoảng tôi không nhìn cậu ta, cố gắng ăn thật chậm. Chờ tới lúc tôi quay sang thì thấy cái miệng nhỏ của cậu ta đang cắn miệt mài, tóc xõa, không biết trong lòng đang nghĩ gì.

    Trong mấy ngày đầu Lindsey không giao lưu với tôi, duy trì một khoảng cách không xa không gần với tôi. Dù cậu ta có tới bên cạnh tôi, phần lớn cũng là tôi mở miệng. Tôi cứ thế dẫn cậu ta tới chân tường thành, làm như tùy tiện hỏi thăm tình huống bán vé xe, lại biết được một tin tức ngoài ý muốn: trạm gác của Thành thứ chín đã bị hạ lệnh giới hạn xuất nhập, trừ những người có giấy chứng nhận đặc thù, hiện tại không có ai được phép thông hành ở Cửu thành.

    “Đây là chuyện bình thường” Người thủ thành nói, “Ngắn thì ba, năm ngày”

    Nhưng thực tế, mãi đến tận trung tuần tháng sáu, tôi cũng không nghe được bất kỳ tin đồn bãi bỏ lệnh. Tôi từng trốn Lindsey gửi điệp thư cho mấy người bạn, có điều có thể là bởi khoảng cách quá xa, làm cho chúng thường đang bay được nửa đường thì tiêu hao hết ma lực mà vỡ nát, tôi không thể nhận được bất kỳ hồi âm nào từ Gerundnan. Xuất phát từ suy xét khả năng bị đánh chặn, tôi cũng không dám dùng bồ câu đưa thư. Chiếc hộp đen vẫn chôn ở xa, tôi không lo nó bị người đào lên, nó được chôn rất sâu, phía trên còn đính kèm phù văn tôi làm.

    Thời tiết ở đây ấm dần lên trên con đường chờ đợi này, trong Thành thứ chín tăng thêm chút không khí giao thoa xuân hạ. Để duy trì kế sinh nhai đơn giản, tôi và Lindsey tới chợ đêm rao bán ít hàng hóa linh tinh. Chúng thường là mấy món đồ nho nhỏ như dây buộc tóc, hạt châu giả ——loại tượng thần điêu khắc thô sơ cũng bán rất khá, nhưng lúc bán ra phải tránh tầm mắt của lính tuần tra.

    Có một hôm đồ bán xong từ rất sớm, tôi bèn thử làm nghề chính của kẻ lang thang, ôm đàn ca hát ở ven đường. Lindsey ở một bên nhìn chăm chú, khuôn mặt lẫn vào đám người chung quanh. Sau khi kết thúc một bài cậu ta sẽ cầm mũ giúp tôi, đi một vòng quanh mấy người dừng chân.

    Ban đầu tôi chỉ nghe một bài hát mấy người lang thang thường chơi, thế là đâu đâu cũng đàn đi đàn lại cùng một bài. Không nghĩ chưa tới mấy ngày, Lindsey đột nhiên cắt ngang lúc tôi đang tập luyện, lần đầu tiên chủ động nói chuyện với tôi.

    “Anh chỉ…chỉ biết mỗi bài này thôi à?” Cậu ta hỏi.

    Tôi hơi xấu hổ thừa nhận. Cậu ta duỗi tay qua, im lặng hỏi mượn đàn của tôi. Cậu ta cũng ngồi dựa vào tường ở góc đường, ôm nó trên đầu gối gảy một cái, nhẹ giọng mở miệng hát:

    “Chú chim nhỏ trong rừng ngậm cành xương

    Chiếc thuyền con lái vào đầm lầy về đêm

    Điều đó đã xảy ra rất lâu về trước

    …”

    Tôi nghe cậu ta hát xong một đoạn, không nhịn được vỗ tay bảo hay.

    “Tôi cảm thấy nên đổi thành cậu lên hát, tôi sẵn lòng quơ mũ xin tiền thay cậu” Tôi đề nghị, “Nếu thu nhập của chúng ta tăng gấp đôi, có lẽ rất nhanh có thể ở nhà trọ——Ở nhà trọ rồi có thể cố định địa điểm diễn——Cố định địa điểm diễn rồi có thể từ từ bay lên siêu sao thời đại——Sau đấy chúng ta mặc kệ quá khứ thế nào, tóm lại là có thể ăn ở không lo cả đời. Trình tự này có logic không, cậu tới nhìn thử đi”

    Cậu ta bỗng nở nụ cười, giơ tay lau cái mặt bẩn thỉu một cái.

    “Thích hợp lắm” Cậu ta nói.

    Cậu ta đặt đàn lên tay tôi, nụ cười cũng không phai nhanh. Lúc này hai gò má cậu tắm mình dưới trời quang, nhìn như một cậu học trò trẻ tuổi không lo nghĩ, chỉ thi thoảng buồn rầu về bài tập.

    Đây là lần đầu tiên tôi thấy cậu ta cười, cũng là lần đầu tiên nghe thấy cậu nói đùa. Từ hôm ấy trở đi, cậu ta nói nhiều hơn, thường xuyên nhẹ nhàng vỗ mặt đàn dạy tôi một vài bài hát địa phương. Cậu ta không chịu hát một mình trước mặt mọi người, thỉnh thoảng sẽ ngồi cạnh tôi hòa âm. Tôi vẫn nhớ lúc bọn tôi hát một bài hát hài hước dưới hình thức đối thoại, cứ mỗi lần tôi hát vài câu cậu ta lại đáp “Ừ” hoặc “Không”, thú vị cực. Cậu vừa mở miệng đã chọc cười người vây xem.

    Sau tôi phát hiện cậu ta còn biết cả hội họa. Ngày mưa lúc chúng tôi tránh mưa dưới mái che, cậu ta dùng ngón tay chấm nước vẽ người qua đường. Ngón tay tôi lặng lẽ chỉ ai, cậu ta liền nhanh chóng vẽ một bức trên phiến đá——bao giờ cũng có thể vẽ xong trước khi nước khô ráo, hơn nữa trông vô cùng sống động. Tôi khen cậu ta vẽ các chi tiết nhỏ sinh động, cậu ta liền giải thích cho tôi: “Anh xem, đôi mắt là nhân tố quyết định truyền tải thần thái của một người, mỗi một đôi mắt đều có điểm khác biệt” Nói rồi tô khóe mắt kia, giọt nước mới phủ lên cái cũ, nhợt nhạt không đều chồng lên nhau.

    Có lẽ cậu ta nhận ra được gì đó thông qua sự kỳ lạ của tôi đối với Cửu thành, tôi cũng phát hiện cậu ta không quen thuộc khu vực chúng tôi du đãng, nhưng lại biết rất nhiều chuyện mà chưa chắc mọi người đều biết. Chúng tôi chưa từng hỏi thân phận của nhau, lại chung sống vô cùng hài hòa. Tôi chỉ để ý, cậu ta từng một lần nhắc đến chuyện nhà mình, có vẻ không được hạnh phúc, nói cậu ta là một trong rất nhiều đứa con.

    Tính toán đâu ra đấy, tôi ở lại Phổ Quốc gần một tháng. Lệnh giới hạn đi lại vẫn chưa được xóa bỏ, trên các tờ báo gần đây, Phổ Quốc đã gia nhập vào một liên minh nào đó do Yinsha dẫn đầu, tình hình chính trị với Gerundnan mơ hồ trở nên căng thăng. Tôi cố hết sức không bộc lộ sự lo lắng trước mặt Lindsey, song đã bắt đầu tính toán một cách khác để về nước. Giấy chứng nhận ở chợ đêm với tôi mà nói quá đắt, quân đồn trú ở cổng thành lại rất nghiêm ngặt, nghe bảo hoàn toàn không có cách trốn vé xe hồng bì——Tôi bất chấp nguy hiểm hỏi thăm Lindsey về phương diện này, có điều không thu hoạch được biện pháp hữu dụng. Cậu ta hỏi tôi: “Sao thế?” Tôi chỉ có thể đáp lại bằng cái lắc đầu.

    Cuối tháng sáu chúng tôi đi ngang qua một điểm giao giữa trong và ngoài thành, Lindsey gọi chỗ này là “Cung Aling lúc hoàng hôn” ——Cái tên được phóng đại so với hiện thực hoa lệ lộng lẫy, song đúng là một nơi rất đẹp. Vừa khéo hôm ấy chúng tôi rao bán xong sớm, bèn an vị dưới cây cột của tòa kiến trúc, nhìn những bậc thang thật dài phía dưới.

    “Một lát nữa, dàn hợp xướng hát thánh ca sẽ qua đây” Lindsey nói, “Vào thời điểm này hàng tháng, họ sẽ biểu diễn trên bậc thang”

    “Có nhiều người tới xem không?” Tôi hỏi.

    “Tất nhiên không nhiều như anh tưởng đâu” Lindsey nói, “Ngày nào họ cũng hát, chỉ là lúc này sẽ tới đây”

    “Tôi tưởng tín đồ toàn thành sẽ chen tới chỗ này đến độ nước chảy không lọt chứ”

    “Toàn thành ấy hả?” Lindsey nói, bỗng nở một nụ cười lộ thái độ chế nhạo.

    “Chẳng nhẽ không đúng?” Tôi nói, “Tôi tưởng Tân thần giáo là tín ngưỡng——toàn quốc của Phổ Quốc”

    “Không phải” Lindsey nói, lông mày dường như nhíu lại, “Những kẻ lưu lạc ở tầng ngoài cùng không tin Thần, những quý nhân yên ổn trong khu giàu có cũng không tin. Bàn về giáo hội, người của Hội lễ nghĩa căn bản chẳng tin——về phần người của Hội lễ nghĩa, bọn giết người thì có gì để nói? Kẻ giàu nhất và người tự do nhất không tin thuyết từ của Tân thần giáo, tin thì chỉ có tuyệt đại đa số tầng lớp trung lưu nghèo, hy vọng không thiết thực nó có thể mang tới cho họ tháng ngày tốt đẹp hơn”

    Tôi nhìn cậu ta lộ vẻ mặt chế giễu, ngữ ý cực đoan, lén lén lút lút liếc mắt nhìn quanh thay cậu ta: “Này, cậu coi chừng lính tuần tra đi qua đấy”

    Cậu ta dùng tay hất mái tóc vàng ra sau, rầu rĩ gục cổ.

    Lúc này tôi nhớ tới một vấn đề vẫn luôn tò mò: “Vậy Giáo chủ Garuno rốt cuộc là kiểu người như thế nào?”

    Lindsey bĩu môi, ẩn trong nụ cười không rõ là căm ghét hay là khen ngợi.

    “Tôi quên mất không nhắc đến gã” Lindsey nói, “Gã là kẻ duy nhất thật sự tin Thần trong đám người đó. Năng lực tuyệt vời, lạnh nhạt ngoan đạo, bình dân ăn chay——”

    Trái tim tôi bỗng chốc nảy một cái.

    “Tôi biết ông ta có một điểm cứu tế ở đường 28” Tôi nói, Lindsey bị tôi hấp tấp ngắt lời, quay sang nhìn tôi, “Thế có phải ông ta cũng ở gần đây không?”

    “Gã không ở gần đây——vừa khéo tôi biết cái này” Lindsey nói, cụp mắt “Gã ở trong cái nhà tại điểm bố thí kia”

    Tôi còn muốn hỏi cậu ta nhiều hơn, nhưng đã thấy dàn hợp xướng đi về phía này.

    Lindsey nói: “Đi thôi, chúng ta ra đối diện đường ngồi”

    Thế là chúng tôi đi xuống bậc thang, qua một con đường đá vụn, ngồi ở bên lề đường đối diện “Cung Aling”. Chúng tôi ngẩng đầu nhìn một hàng thiếu niên thiếu nữ, bọn họ mặc áo choàng ngắn màu xám, nhưng không trùm mũ, lộ ngũ quan tràn trề tuổi xuân. Bọn họ hát hết bài thánh ca này đến bài khác, giọng ca trong trẻo lại rung động lòng người, giống như giai điệu kia có thể bay lên chân trời xa xôi từ thế gian sắp chìm vào màn đêm. Ánh tà dương bị Cung Aling che ở phía sau, nhìn qua Cung Aling như đang tỏa ánh sáng nhàn nhạt.

    Có rất nhiều người ở đằng sau và đối diện chúng tôi tới rồi lại đi, có vài người dừng chân quan sát. Tôi tình cờ nghe được một đoạn đối thoại, giọng rất nhỏ, không lẫn vào tiếng thánh ca, chỉ bay vào lỗ tai tôi. Tôi nghe xong rất nhiều bài, nghe được vài tiếng bước chân mới tới, đứng phía sau tôi và Lindsey.

    “Thánh ca?” Có người nói, “Tự nhiên cậu có hứng nghe vậy?”

    “Chỉ là hưởng thụ giai điệu thôi” Một người khác bảo, “Nếu đã tạt qua”

    Giọng nói của người phía sau vang lên cùng lúc, toàn thân tôi không thể nhúc nhích, giống như có một dòng điện chạy từ đỉnh đầu tới cột sống. Tôi chỉ biết ngồi cứng ngắc tại chỗ, sống lưng mất cảm giác, sợi tóc nhỏ bé nhất lại lướt lên nhè nhẹ. Tôi suýt nữa đã quên mất nên đặt tay chân ra sao. Có trời mới biết tôi muốn quay đầu lại nhìn đến nhường nào, nhưng xuất phát từ một nỗi sợ nào đó, tôi không thể làm bất cứ hành động gì khiến người ta sinh nghi. Lindsey cũng không để ý tới sự khác thường của tôi. Hai người phía sau vẫn đang nói chuyện.

    “Đã đạt được sự đồng thuận với những người liên minh kia chưa?” Người ban đầu hỏi.

    “Không tính là công lao của tôi,” Giọng nói tôi biết kia bảo, “Tôi chỉ phơi bày sự tồn tại của mình với những người đó thôi”

    “Ý nghĩa phi phàm” Người ban đầu kia nói tiếp, “Đây chính là điều Giáo chủ muốn đạt được”

    Người sau im lặng một lúc. Những tiếng ca kia lại nhân cơ hội truyền vào tai tôi——Có lúc tôi nghe thấy tiếng hát, có lúc lại nghe thấy tiếng nói chuyện. Thời điểm giọng nói của hắn lấp vào, nghe giống hệt những tiếng nhạc kia.

    “Nghe nói cậu vào nội thành nộp báo cáo xong thì suốt đêm trở lại Thành thứ hai,” Người trước nói, “Tôi còn tưởng cậu sẽ ở lại thêm hai ngày. Thành thứ chín cũng đâu tệ lắm——nhất là nội thành, cậu muốn lấy gì cũng có cách, hơn nữa còn an toàn”

    “Không được” Người sau nói, “Thành thứ chín không phải nơi tôi nán lại”

    Người lúc đầu kiến nghị họ qua bên kia đường để nghe tiếp, như vậy sẽ gần Cung Aling hơn, tầm nhìn cũng tốt. Theo đó tiếng bước chân phía sau tôi xa dần, hai mắt tôi nhìn đám người chung quanh thật nhanh, nhưng nhất thời không chớp được bóng họ.

    Dàn hợp xướng đang hát một bài thánh ca trầm lắng sầu muộn, tôi bỗng cảm thấy giai điệu của nó quen quen. Tôi chưa từng nghe bài hát giống thế trọn vẹn, nhưng chắc chắn từng nghe một đoạn quen tai. Rồi qua câu này tới câu khác, qua nhịp này đến nhịp khác, tôi rốt cuộc chờ được phần trùng với đoạn trong trí nhớ.

    Đó là đoạn bốn nhịp. Nó vừa khớp với một đoạn đã khảm sâu trong kí ức tôi, khiến cho dòng máu đông đặc trong đầu tôi cũng bắt đầu chảy tùy ý.

    Ánh mắt tôi ngơ ngẩn dừng lại ở bên kia đường, xuyên qua hai người trong đám người thưa thớt, lúc này đều đứng ở bên bậc thang. Một người trong đó cột mái tóc đỏ vàng, đuôi tóc nhuộm sắc trời chiếu rọi phía sau Cung Aling.

    “Mà tình yêu dư thừa đó, khiến ta đau khổ

    Ta biết nó bách chiết thiên hồi (1), tất không đền đáp

    Chỉ có hòa linh hồn ta

    Nhấn chìm thể xác ta…”

    Người kia vẫn không nhúc nhích. Có thể hắn cũng đang ngẩn người giống tôi. Tôi từng nghe hắn đàn đoạn này ——lộn xộn, muôn ngàn nỗi sầu, đàn đi đàn lại trong bóng tối ở đại sảnh. Giờ tôi không thấy được mắt hắn, nhưng tôi vẫn có thể thấy đôi mắt đó của quá khứ, khi ấy sao hắn lại có ánh mắt như vậy nhỉ? Là bởi hắn đang đàn đoạn này, cánh cửa phòng ở Vũ trấn mở ra, vận mệnh như trêu đùa để hắn gặp được người mình yêu sao?

    Tôi nhìn bóng lưng Carayon, hắn lại quay đầu làm tôi bất ngờ không kịp chuẩn bị, tầm mắt trong chớp mắt hướng về phía tôi.

    Những thiếu niên thiếu nữ mặc áo xám vẫn hát tiếp: “Ta nguyện dựa vào cổng tường của người, thiếp đi trong khát khao chân lý, dội lửa tình xuống…”

    Nhưng mà đốm lửa trong giây lát này đủ khiến tim tôi đập nhanh hơn, những bài thánh ca không có cách truyền vào lỗ tai tôi. Tôi không thể nhìn hắn được nữa. Tôi chuyển sang nhìn mặt đất chằm chằm, mãi sau mới nhớ mình nên nhìn dàn hợp xướng.

    Có lẽ Carayon không biết hiện giờ tôi ở ngay Thành thứ chín——hơn nữa không biết tôi ở ngay đối diện hắn. Chân dung truy nã của tôi vào trung tuần tháng sáu đã được gỡ khỏi đại lộ vào thành, chỉ có một vài con đường nhỏ vắng vẻ vẫn còn giữ vết tích từng dán chúng. Dù thế nào, chắc hắn tưởng mình nhận lầm người.

    Qủa thật hắn không nhìn về phía này, con đường đá rộng ngăn cách bóng lưng hắn với tôi ngồi ôm đầu gối. Tôi dời tầm mắt về lại phía hắn, muốn soi sự thay đổi về ngoại hình của hắn mấy tháng này. Tiếng hát kia rất hay, làm cho Cung Aling dưới hoàng hôn ngắn ngủi cũng trở nên đẹp vô cùng.

    “Lâu rồi chưa thấy ai nghe chăm chú như anh” Lindsey nói bên tai tôi, “Hay không?”

    “Đẹp cực” Tôi lẩm bẩm.

    Thuộc truyện: Đao phong dữ thi hành