Đao phong dữ thi hành – Chương 61-65

    Thuộc truyện: Đao phong dữ thi hành

    Chương 61

    Tôi cẩn thận đề cập đến những gia đình phụ cận vùng đất Vĩnh Dạ với ông chủ nhà trọ, nhưng bất ngờ là ông ấy lại biết gì nói nấy. Ông nói với tôi rằng vùng đất Vĩnh Dạ cách ngay đây ba mươi dặm, gần đó chỉ có một đống công trình có thể gọi là “nhà cửa”. Trước đây công trình kiến trúc ở đó nhiều hơn bây giờ, không biết là ai ở trong. Song hơn mười năm trước đều đã bị dỡ bỏ, hình như là chuyển nhà, chỉ còn lại một ngôi nhà hiện hữu.

    “Ai mà sống ở gần vùng đất Vĩnh Dạ chứ. Ven khu đầm lầy ấy chỉ có xương trắng, lau sậy và cú đêm thôi”. Ông chủ nhà trọ bảo, “Cậu nhóc, không chừng cái nhà kia cũng đã biến thành nhà ma từ lâu rồi rồi——bác khuyên cháu cũng đừng đi”

    “Cũng?” Tôi bắt được chữ này.

    “Mấy ngày trước cũng có người tới, còn là mấy người tai to mặt lớn mặc áo choàng xám,” ông chủ nói, “Nói tới cũng kỳ, mới đây bác suýt là định ngừng kinh doanh đấy”

    Chim giấy của tôi lượn một lúc lâu trên vùng trời Nhị thành, cuối cùng quyết định chậm rãi đáp xuống một chỗ. Tôi cẩn thận giẫm giẫm——không phải đầm lầy, là nham thạch như dự đoán.

    Chỗ này đúng là chỉ có một ngôi nhà, cũng không lớn, nằm lẻ loi trong vùng đất hoang vu. Đất đai trước nhà hiện màu xanh, sau đó nước, rêu và lau sậy xuất hiện luân phiên, mờ mờ ảo ảo ẩn trong sương mù, lộ ra một vẻ đẹp hoang tàn. Ở giữa trời cao cùng với chim giấy của tôi chỉ có cú kêu. Quan sát từ phía trên, căn nhà kia như thể tọa lạc trên một đường ranh giới——nhân gian và tử địa.

    Gần căn nhà không có một bóng người đúng như tôi đoán, người của Giáo chủ hẳn là đã đi vòng qua từ mấy ngày trước. Tôi cẩn thận chú ý dưới chân mình, vượt qua mấy khối nham thạch được người cố ý sắp đặt, nhảy một mạch tới bè gỗ chống đỡ căn nhà kia. Tôi nín thở gõ cửa, không có ai đáp lại, thế là tôi không nhanh không chậm gõ ba cái. Tại lần thứ năm trước khi tôi giơ tay, cánh cửa kia được người chần chừ mở ra một cái khe nhỏ từ giữa, sâu trong khe lộ ra nửa bóng tối thâm trầm. Tôi cảm thấy có người đang thăm dò tôi từ nơi đó.

    “Ta đã tiễn đợt khách trước đó rồi,” một giọng nữ lạnh lùng nói, khẩu âm rất nặng, có hơi khàn khàn, “Buông tha cho bà già này đi”.

    Cánh cửa kia chỉ lát nữa sẽ bị người đóng lại. Tôi lao tới trước nói:

    “Thưa bà, cháu không phải người của Giáo chủ——cháu là một người đi đường tới xin giúp đỡ”

    “Qủa thực,” người trong phòng kia ngừng một chút, “…Không có áo choàng xám. Là ta hoa mắt. Nhưng mà chàng trai trẻ, ta không biết lòng hiếu kỳ nào thúc đẩy cậu tìm tới nơi hoang phế này, cũng không quan tâm cậu muốn cái gì. Ta khuyên cậu mau chóng rời khỏi nơi này, bởi vì cậu sẽ không nhận được bất cứ sự giúp đỡ nào từ ta đâu”.

    “Cháu tên là Vicente”. Tôi nhìn về hướng truyền tới âm thanh, khẩn thiết nói, “Cháu muốn nói với bà một vài chuyện liên quan đến ‘chuỗi mật mã’——“

    “Ta không biết”. Giọng nói trong cửa ngắt lời tôi.

    “…Nó liên quan đến cái chết của cha cháu,” tôi nói, “Cha cháu qua đời vì nó, mà cháu sau nhiều năm thậm chí không điều tra được nó đại biểu cho cái gì. Tất cả những người biết được chân tướng đều im lặng không nói, sau đấy cháu tìm tới đây, hy vọng có kỳ tích xảy ra. Nơi này có lẽ chính là điểm dừng cuối cùng của cháu——cháu không có chỗ để tìm, không có chỗ để đi. Nếu cháu vẫn không tìm được đáp án từ nơi này, bí ẩn đấy có thể sẽ mãi chôn sâu xuống, cho đến khi cháu vào cùng một bãi tha ma”.

    Tôi thấy cánh cửa kia vẫn bất động tại chỗ, thế là thấp giọng nói tiếp: “——Cháu rất cần bà”.

    “Vẫn có đứa trẻ cần một bộ xương già ư?” Người kia hình như xúc động, khàn giọng nói.

    “Tất cả những gì cháu nói đều là thật,” tôi nói, “Xin hãy tin cháu”.

    Người trong cửa trải qua một khoảng thời gian im lặng. Tôi dường như nghe thấy hô hấp mỏng mảnh của một người già.

    “Không được,” bà nói gấp gáp, cao giọng, “Không được. Cậu đi đi”.

    Bà nói xong liền muốn đẩy cửa vào, lúc này tôi giơ tay chặn ở đó.

    “Nhưng mà——“

    “Chàng trai trẻ, phép lịch sự”. Bà trách mắng.

    Tôi rút tay về.

    “Cháu xin lỗi”. Tôi cách ván cửa nói, “Có điều chí ít hãy để cháu đưa cho bà một thứ. Vật này không liên quan đến vấn đề của cháu ——chỉ là có người nhờ cháu mang nó tới”.

    Tôi lấy viên đá màu bạc từ trên người, nhìn cánh cửa kia vẫn đóng chặt, không có bất kỳ động tĩnh gì, cúi đầu ghé sát vào cửa: “Cháu sẽ đặt nó ở dưới cửa, chỉ cần mở cửa ra một chút là có thể thấy. Một lần nữa cháu xin lỗi vì cư xử thiếu lễ phép của mình ——giờ cháu sẽ rời đi. Chúc bà mạnh khỏe ”.

    Tôi nhảy từ bè gỗ xuống nham thạch, nghe thấy một tiếng cọt kẹt vang lên sau lưng. Cánh cửa kia mãi mà không đóng lại lần nữa, lúc tôi đi tới tảng nham thạch thứ ba, giọng nói trước đó gọi tôi lại.

    “Chờ một chút”. Người ở cửa nói, “Là ai bảo cậu mang nó tới?”

    “Alvin Carayon”. Tôi nói, quay đầu lại, “Cháu đoán hai người chắc là biết nhau”.

    Bà lão đứng trước cửa kia có mái tóc ngắn đã hoa râm, mặc chiếc váy chỉn chu màu đen, gương mặt có vẻ đẹp vượt tuổi tác. Khóe môi bị bà mím lại thành một nếp nhăn nhỏ, khóe mắt ửng đỏ, hoặc giả chỉ là một cái bóng mờ. Bà đang cúi đầu nhìn đồ vật trong lòng bàn tay.

    “Đó là ai?” Bà hỏi.

    “Bà cũng không biết anh ấy ạ?” Tôi nói. “Nhưng anh ấy bảo mình là cố nhân của ông Chen Yang”.

    “Chen Yang không giỏi giao tiếp”. Bà lão kia đáp, nhưng giọng nói ôn hòa hơn lúc trước, “Chúng ta không có cố nhân nào. Cố nhân đều qua đời trước chúng ta rồi”.

    “Người đó không chênh lệch nhiều so với cháu”. Tôi nói, “Tóc đỏ vàng, mắt lam xám”.

    Bàn tay khớp xương rõ ràng của bà lão kia mò mẫm qua lại trong không khí, trở tay nắm khung cửa bên người.

    “À, ta biết rồi”. Bà lẩm bẩm, “Là đứa bé đó——đúng rồi!”

    Bà trông có vẻ khó kìm lòng nổi, như thể lúc này muốn lung lay đi tới chỗ tôi. Tôi chỉ sợ bà sẽ ngã sấp xuống, bèn vọt lên hai bước đỡ bà. Có một giọt nước mắt lăn xuống từ khóe mắt bà, rồi lại một giọt. Bà từ chối tôi dìu, mời tôi vào trong nhà ngồi.

    Sự thất thố của bà lão chỉ là chuyện thoáng qua. Bà đi pha trà cho tôi, mà tôi bó tay bó chân ngồi trước bàn trà của bà. Chai lọ cùng gia cụ nhỏ chen chúc ở góc trên góc dưới căn nhà này, giấy dán tường cũ kỹ mà sạch sẽ, rất có cảm giác như đang ở nhà, cơ hồ khiến người ta khó có thể tưởng tượng nó lại được xây ở biên giới mảnh đất hoang âm u như vầy. Động tác của chủ nhà nhanh nhẹn, rất nhanh trên bàn trà kia đã có thêm ấm và tách sứ. Sau khi thu dọn xong tất cả nhưng thứ này, bà lại ngồi vào chiếc ghế tay vịn đối diện tôi.

    “Thứ đó có ý nghĩa quan trọng với ta, ta rất cảm kích cậu có thể mang nó tới”. Bà nói, “Cậu lại mang đến tin tức đứa trẻ kia còn sống…”

    “Chỉ là cháu được người ta nhờ thôi ạ”. Tôi đáp.

    Bà quan sát tôi: “Cậu là bạn của nó à?”

    “Vâng”. Tôi nói.

    “Với nó mà nói,” bà nói, “Thật sự là tốt quá rồi”.

    Hiển nhiên bà còn nhiều điều nữa muốn hỏi tôi, nhưng lại như đóng lại thiên ngôn vạn ngữ dưới mi mắt rũ xuống.

    “Gần đây cháu hay thấy Alvin cười,” tôi ngẫm nghĩ, chủ động nhắc tới, “Phần lớn thời gian đều vui vẻ nhàn nhã. Khá là thích bánh bích quy gừng, làm đồ ngọt giỏi hơn cháu. Thi thoảng cũng thích đùa dai——nói tóm lại cũng không tệ”.

    “Xem ra đã qua nhiều năm như vậy rồi”. Bà than thở.

    “Bà là gì của anh ấy ạ?” Tôi hỏi.

    Tôi để ý quan sát đặc điểm ngũ quan của bà, câu trả lời của bà lại phủ định suy đoán của tôi.

    “Không là gì cả——ta biết đứa bé đó bởi công việc của ta và lão Chen. Hoặc là như nó đã nói, một cố nhân”. Bà bảo, “Nãy cậu muốn hỏi ta chuyện ‘chuỗi mật mã’ đúng không?”

    Tôi không ngờ bà bỗng nhiên chuyển sang nói về đề tài này. Tôi dằn xuống nhịp tim đột nhiên đập mạnh, nhanh chóng gật đầu.

    “Nói cho đúng thì, ta cũng không hay biết chuỗi mật mã là cái gì,” bà chậm rãi nói, “Ta chưa thật sự tiếp xúc với nó bao giờ. Chỉ là về sau ta suy đoán được, nó nhất định có liên quan đến chồng mình và đứa bé đó. Ta có thể kể cho cậu một câu chuyện, tin tức hữu dụng trong đó thì phải do cậu lựa ra”.

    “Cảm ơn bà”. Tôi nói.

    “Không cần phải cảm ơn ta,” bà nói, “Ta đã chôn vùi chuyện này rất nhiều năm, giờ e là đã đến lúc để nó nổi lên mặt nước rồi”.

    Trong nụ cười nhã nhặn của bà có sự nghiêm nghị nào đó, khiến cho căn phòng đầy phiền muộn. Hai tay bà đặt trên chân, hơi ngả ra sau.

    “Ta và Chen Yang được gọi về vị trí công tác sau khi về hưu một thời gian, năm ấy chúng ta cùng được chọn vào một kế hoạch quốc gia”. Bà kể, “Thật ra chủ yếu là mời ông ấy. Trước đây chúng ta đều là nhân viên thí nghiệm, mà trình độ và vốn tích lũy của ông ấy đều sâu hơn ta, mục tiêu cũng phù hợp hơn. Ông ấy dùng năm năm, tiếp xúc được nội dung nòng cốt trong đó, mà ta thì phí hoài bên ngoài. Chúng ta đều kí hiệp nghị bảo mật, cho dù là ngày thường cũng không thể trao đổi chi tiết công việc với nhau”.

    “Lúc ấy ta cảm thấy tình trạng thân thể không tốt, xin chuyển việc, sau đó được phê chuẩn. Nhưng Chen say mê nghiên cứu trước sau như một, ông ấy vẫn muốn công tác thêm mấy năm nữa. Ông ấy nói với ta, bọn họ đang tới gần thành quả đó, đây là tâm huyết tích lũy gần một thế kỷ của những người đi trước——ông ấy muốn chứng kiến sự xuất hiện của nó”

    “Nhờ vào lý lịch từ trước, ta được điều đến làm một vài việc vặt trong khu vực thí nghiệm của ông ấy, bình thường có thể ăn cơm trưa với ông ấy trong phòng nghỉ, rồi về nhà ăn tối. Tòa nhà thí nghiệm đó từng được xây ở gần chỗ này, giờ đã bị phá hủy. Có điều khi ấy đó là một tòa nhà rất lớn, bên trong chứa gần nghìn người, ai ai cũng bận rộn”

    “Công việc mới xin của ta rất nhàn hạ, không có bảo mật gì, đều là việc rất cơ bản. Nhưng Chen thì khác, từng điều khoản cứng nhắc của hiệp nghị trói buộc ông ấy, cho nên ông ấy chưa bao giờ nói tỉ mỉ ngày hôm đó mình làm cái gì. Chỉ là vào một ngày nọ ông ấy tỏ ra rất vui vẻ như trẻ con, nói với ta có một tốp thí nghiệm mới tới, bọn họ rốt cuộc có thể thực hiện lối suy nghĩ mới của mình, lần này hi vọng thành công rất lớn”

    “Hình như là vào khoảng năm 832. Cùng một thời điểm, trong công việc của ta có thêm một hạng mục rất kỳ lạ: đo lường dữ liệu thân thể của một nhóm trẻ con”

    “Đám trẻ đó có cả thảy mười chín đứa——đến bây giờ ta vẫn còn nhớ con số này. Độ tuổi của chúng đều trong khoảng từ ba đến năm tuổi, được đưa ra từ mười chín phòng riêng biệt trong tòa nhà thí nghiệm. Sau khi làm xong kiểm tra ở chỗ ta, thì sẽ được đưa vào khu vực chồng ta công tác, rồi lại vào một chỗ chỉ định đặ biệt trong tòa nhà tiếp thu giáo dục cố định, ăn cơm, cùng với một đoạn hành trình ta không quan sát được, đến tối thì được đưa về căn phòng ban đầu. Ta phụ trách kiểm tra hạng mục chức năng cơ bản của cơ thể chúng, nộp báo cáo thống nhất cho phòng thí nghiệm ở tầng cao nhất của Chen”

    “Vào một ngày đo lường nào đó sau đấy, ta phát hiện trên người của rất nhiều đứa trẻ đồng thời xuất hiện phản ứng xấu của vòng tinh thể -30——đó là một loại thuốc, hạn chế với người lớn và tuyệt đối cấm chỉ với trẻ em. Ta cảm thấy rất nghi hoặc với phát hiện bất ngờ này, nhưng trách nhiệm công việc nói ta không được hỏi, sẽ không có trả lời ta, Chen cũng không——Ông ấy rất cứng nhắc, sẽ không vi phạm thỏa thuận chính ông ấy đã ký. Ta không thể làm gì khác là giả bộ không nhìn thấy hiện tượng lạ này, vẫn nộp báo cáo của mình lên trên như cũ”

    “Sau hôm ấy lục tục xuất hiện rất nhiều tình huống tương tự. Có một lần ta nghĩ: ‘Việc kiểm tra đo lường này thật ra cũng có thể xem là chuyện thường thấy, những con chuột bạch hay thỏ cũng hay được đưa tới như vậy’——Nhưng nghĩ thế xong ta lại cảm thấy một nỗi sợ hãi sâu thẳm. Dường như trong chớp mắt ấy ta hiểu ra, những ‘vật thí nghiệm’ mà Chen nhắc tới rốt cuộc là cái gì”

    “Trong lúc ta công tác, con số ‘mười chín’ kia cuối cùng giảm còn ‘chín’. Một phần là mắc bệnh do thuốc, một phần là chuyển biến xấu do tiếp nhận phản ứng ma pháp, một bộ phận khác là ‘tự nhiên’ biến mất. Con số trên báo cáo ta tự tay viết kia không ngừng thay đổi, cố hết sức phân tích lý do ngoài cùng một cách chuyên nghiệp””

    “’Chín’ trong một khoảng thời gian rất dài trở thành một con số cực kỳ ổn định. Từ đó về sau, ta hoàn toàn thoát khỏi công tác kiểm tra thân thể cho chúng, trở lại quỹ đạo. Ta rất tò mò số phận của chín đứa bé kia——nhưng ta hầu như không còn nhìn thấy chúng nữa, chỉ có lần nào đó đi qua ‘phòng đào tạo’ thì thoáng thấy, vẻ mặt của chúng đờ đẫn, hình như đang viết chữ”

    “Một buổi trưa năm 837, ta chuẩn bị cơm trưa cho mình và Chen trong phòng nghỉ như mọi khi, vừa mới quay người lại thì thấy ông ấy dắt một đứa bé vào. Ông ấy chỉ nói úp mở: phần thưởng cho đứa bé có biểu hiện xuất sắc nhất trong hạng mục thí nghiệm của ông ấy, nó được cho phép rời sự quản thúc của phòng thí nghiệm vào thứ sáu hàng tuần, cùng ăn cơm trưa với bọn ta”

    “’Hạng mục thí nghiệm’ gì chứ? Nó vẫn chỉ là một đứa bé——không bằng nói là ‘vật thí nghiệm’ tuân thủ quy củ nhất! Nhưng đứa bé đó rất đáng yêu. Ta mất một lúc mới nhận ra, nó là đứa từng được ta đánh số hiệu Alpha lúc đo lường trước đây. Nhưng chồng của ta không đề cập tới chuyện này, đứa bé kia hình như cũng không nhớ rõ ta. Ta ân cần nói chuyện với nó, hỏi nó thích gì, muốn gì——mặc dù trong lòng ta biết rõ, mộng đẹp ta thêu dệt cho nó không thể trở thành sự thật”

    “Ban đầu đứa bé kia rất ngoan, lúc nào cũng nói cảm ơn, tỏ ý không cần gì cả. Chờ đến khi chúng ta ở chung một khoảng thời gian, ta phát hiện thật ra nó rất thông minh tài trí, có sự hoạt bát không quá rõ ràng, đầu óc nhạy bén, bắt đầu biểu hiện gần gũi chúng ta. Có lẽ cuộc sống trong phòng thí nghiệm quá ngột ngạt. Ngay cả tên mình nó cũng không có, ta thậm chí không dám hỏi nó có từng ra khỏi đấy chưa——Ta lén lút mang đồ từ nhà cho nó, chính là kẹo, sô cô la ấy, trẻ con sẽ thích đồ ngọt, còn làm rất nhiều thịt trong cơm trưa, dư ra đều gắp cho nó. Chen chắc chắn biết, bởi vì hai người bọn ta bình thường không ăn đồ ngọt, cũng chẳng có ai mua, nhưng ông ấy cũng mắt nhắm mắt mở. Thực tế, ta còn thường nghe ông ấy dạy đứa bé kia kiến thức của mình vào lúc rảnh rỗi, đọc một vài nội dung trong tạp thư, đều không vi phạm quy tắc của phòng thí nghiệm”

    “Thực tế ta vẫn hy vọng có một đứa con, Chen cũng vậy. Chúng ta không thể sinh con, do bận rộn nên lại càng chưa bao giờ nhận nuôi, mãi đến khi già rồi cũng không có được đứa con của mình. Alpha đã hoàn thành tiếc nuối của chúng ta. Cho dù mỗi tuẩn ta chỉ có một chút thời gian ở chung với nhóc Alpha, ta vẫn không nhịn được dốc hết tình cảm cho con cái lên người nó”

    “Cứ thế qua hai năm, Alpha đã sớm thức tỉnh thiên phú Đao giả từ năm mười tuổi. Buổi tối vào năm thứ ba ta thấy Chen về nhà. Ta chưa bao giờ thấy biểu cảm của ông ấy như hôm đó——gương mặt ông ấy kiên nghị, trong đôi mắt lộ ra một niềm tin thản nhiên, có điều bởi vì luôn cố định như thế, bên ngoài không khác biệt gì lắm. Trước đây ta từng góp ý với ông ấy điểm này, ông ấy kiên trì nói là do công việc gây ra. Nhưng đêm đó ông ấy trông đau khổ và đứng ngồi không yên——có lẽ vài ngày trước đó cũng đã có dấu hiện, lại bị ta lơ là”

    “Lúc đó ta có dự cảm không lành, hỏi thí nghiệm của ông ấy đã xảy ra chuyện gì. Ta mất một lúc, mới moi ra được một câu từ miệng ông ấy”

    “’Gần đây đã chết rất nhiều,’ ông ấy nói, ‘Thất bại rất nhiều lần…ngày mai sẽ tới lượt nó’”

    “Ta kinh hãi đến biến sắc: ‘Ai cơ?’”

    “Ông ấy mấp máy đôi môi, vẫn biểu thị mình không thể nói, ngồi trước bàn viết bút ký công tác mỗi đêm đều phải viết”

    “Ta không biết phải ngăn cản một chuyện không thể tránh khỏi xảy ra từ góc độ nào, mặc dù có một số thứ trong lòng chúng ta đều biết rõ. Ta không thể khuyên can ông ấy, cho dù ta có khuyên, vẫn còn rất nhiều người trong tổ kế hoạch đó, ông ấy chỉ là một trong rất nhiều linh kiện mà thôi. Ta chỉ biết mình không quan tâm quy tắc gì nữa, vứt bỏ vẻ giả bộ không biết chuyện gì đi”

    “’Chen, thằng bé đã làm bạn với chúng ta lâu như vậy…’ ta ngồi bên cạnh ông ấy, cực kỳ mệt mỏi nói, ‘Em vẫn luôn rất yêu thương đứa bé đó…’”

    “Ông ấy không nói gì, ta chỉ nhìn thấy bút của ông ấy vẫn luôn di chuyển, lướt một dòng rồi một dòng. Dưới ánh sáng của chiếc đèn bàn bên tay ông ấy, có một chuỗi nước mắt lặng lẽ rơi xuống. Bút của ông ấy vẫn di chuyển, như chưa từng có chuyện gì xảy ra”

    “Đó là lần đầu tiên chúng ta tới muộn. Ta không rõ nguyên nhân là gì ——giống như không tỉnh lại thì cũng không cần phải đối mặt với ngày hôm sau như cơn ác mộng nữa——Tóm lại là chúng ta dậy trễ, cũng tới muộn nửa tiếng, lật đật chạy tới tòa nhà thí nghiệm. ‘Sẽ thành công,’ ông ấy nói. Ý nghĩa lời cam đoan này của ông ấy như lời cầu nguyện tối hôm trước của ta. Ta và ông ấy từng người đổi hướng tại cửa cầu thang tầng hai, lại không ngờ đó là lần cuối cùng ta thấy ông ấy”

    “Ngày đó trong tòa nhà truyền tới một tiếng nổ cực lớn. Ta bị chấn động ngã xuống đất, suýt nữa gãy một chân. Từ tiếng nổ đó, còn có mảnh vỡ không ngừng rơi xống từ tầng trên, may mà cột chống của tòa nhà kiên cố, không lập tức bị sụp hẳn. Tất cả mọi người được tập hợp tới tầng một sơ tán, ta chờ tới cuối vẫn không thấy bóng dáng Chen, bị nhân viên canh gác cưỡng ép ra ngoài. Ta thấy phía trên tòa nhà cháy đen, tầng trên cùng gạch bể ngói rơi, cái nóc cao nhất đã không cánh mà bay——Qua bảy ngày, ta mới chính thức nhận được tin từ phòng thí nghiệm, xác nhận chồng ta tử vong”

    “Ta vốn không biết được nội tình, lời giải thích của phòng thí nghiệm là ‘Sự cố thí nghiệm nổ tung dẫn tới nhân viên thương vong’, sau đó bồi thường một ít cho ta. Bọn họ bày tỏ muốn di chuyển địa chỉ toà nhà chính, dọn về Thành thứ chín, trùng kiến tòa nhà mới ở đó”

    “Cứ thế, ta nghỉ việc, về lại căn nhà ở vùng đất Vĩnh Dạ. Ta nghĩ ở thêm hai ngày, sẽ rời khỏi nơi đầy hồi ức thương tâm này, sau đó chỉ cần thi thoảng về ngó. Nếu như không phải khi ấy có người tới thăm, e rằng ta hoàn toàn không tiếp xúc được một ít chân tướng trong đó”

    “Đó là lần đầu tiên ta thấy Giáo chủ đích thân tới, trong lòng khó tránh khỏi kích động——Thời trẻ ta nhìn vị Giáo chủ kia tiếp nhận thân phận Trí giả, dung nhan của ông ta không thay đổi theo năm tháng như được thần ban tặng. Nhưng sau khi tiếp xúc nhiều với ông ta, ta dần dần ý thức được, ông ta chính là người ủng hộ, khởi xướng kế hoạch kia. Ông ta không biết nội dung cụ thể của thí nghiệm, chỉ cần nắm thành quả trong tay, bởi thế ông ta không từ thủ đoạn nào. Nhưng những tài liệu quý giá của phòng thí nghiệm đã sớm hóa thành tro bụi trong vụ nổ ấy rồi”

    “Giáo chủ biết ta hầu như không biết gì về kế hoạch đó, lại không ngừng điều tra ta, thăm dò chồng ta có từng để lộ với ta một số manh mối ta không biết hay không. Trong đó thứ ông ta nhắc tới nhiều nhất chính là ‘chuỗi mật mã’”

    “Giáo chủ đồng ý với ta, ông ta có thể ngoại lệ cho ta nhận xác chồng, thay vào đó, gia đình ta phải mở cho ông ta quyền điều động và nghiệm xét. Ông ta bảo từ suy đoán hiện trường, chồng ta lúc đó đang mở cửa phòng thí nghiệm được một nửa, cách đồng nghiệp ở trung tâm vụ nổ khá xa, lại bị chất liệu đặc biệt của cửa cản lại, mới không tới nông nỗi không còn hài cốt”

    “Ta đồng ý yêu cầu của ông ta, sau đấy rốt cuộc được thấy lại Chen lần nữa. Trái tim ta quặn đau ——đó đã không còn là một người hoàn chỉnh, toàn thân ngoài bộ phận bị hoại tử vì vật nặng đè lên người, thân thể còn bị thiêu đốt thành mấy cái lỗ lớn. Kinh nghiệm công việc nói cho ta biết, đó tuyệt đối không giống vết thương do nổ gây ra”

    “Có lúc ta nghĩ, liệu đây có phải là mắt xích nhân quả, mà ta lại nằm ở trong vị trí nào đó hay không——Nếu như này là vô đạo đức, lấy cơ thể để thí nghiệm là tội ác tày trời, vậy thì ta cũng đã vô tri vô giác gánh trên lưng cái tội nghiệt sâu nặng từ lâu. Tất cả nhân viên thí nghiệm ở tầng đó đều chết bởi chính kết quả của họ, mỗi một dãy biểu thức số học đều đẩy họ tới gần cái chết hơn——Bọn họ đã từng dự đoán điều này chưa? Ta cứ tưởng đứa bé ấy đã chết trong vụ nổ đó, lại vào hôm nay trăm mối ngổn ngang hay tin nó còn sống. Nhưng mà ta căn bản không dám đi gặp nó: ta nghĩ mình thậm chí không xứng tìm hiểu tình trạng của nó gần đây, ta là kẻ đã từng chìa tay ra với nó, nhưng cuối cùng lại ngồi nhìn nó rơi vào vực thẳm——Đúng, nhân viên thí nghiệm hợp cách phải làm thế, nhưng——cho đến tận cuối cùng ta cũng không có cách nào khẳng định, đứa bé kia có hận chúng ta nhiều không…”

    Bà lão dừng câu chuyện, cầm quai cái tách sứ. Mặt nước trà màu hồng nhạt vẫn đong đưa dữ dội, mãi đến khi được bà đưa lên đôi môi tái nhợt. Bà cúi đầu, nước mắt rơi vào trong tách.

    “Cháu nghĩ cậu bé Alpha của năm ấy đã buông bỏ rồi,” tôi nói với bà, “Bất kể anh ấy có mang thù hay không, có hận thù thế nào——sau nhiều năm không liên hệ với bà, vào lúc này lại muốn trao trả cho bà đồ của ông Chen Yang, anh ấy hẳn đã chọn lựa giải thoát”

    Bà lão kia nghe tôi nói, trái lại khóc nức nở.

    “Những chuyện bọn ta đã làm…” Bà nói, “Là chuyện mà một đứa bé có thể tha thứ được sao?”

    “Cháu sẽ liên hệ với anh ấy, đề cập rằng cháu đã tới đây——còn có bà”. Tôi nói, “Cụ thể có muốn nói câu tha thứ hay không, còn phải do anh ấy quyết định”.

    Bà vội vàng lau hai gò má, nhắm mắt lại, dấu vết nước mắt khô cạn chồng lên nụ cười ấm áp.

    “Ta có thể hỏi lại cậu tên là gì không?”

    “Vicente ạ”. Tôi đáp.

    “Vicente——cậu cũng là một đứa bé ngoan”. Bà tràn đầy nhu tình, nói như cầu xin, “Cậu là bạn của Alpha. Cậu vẫn sẽ luôn chăm sóc nó, bảo bệ nó, yêu nó, đúng không?”

    “Tất nhiên ạ”. Tôi đáp, “Bọn cháu có một lời hứa, dưới tình huống không vi phạm ước định đó, cháu vẫn sẽ luôn chăm sóc anh ấy, bảo vệ anh ấy, yêu anh ấy bằng hết khả năng của mình”

    Bà duỗi tay vuốt nếp nhăn trên váy, từ từ đứng dậy.

    “Chắc cậu đã đoán được, Giáo chủ đã cầm đi rất nhiều di vật của chồng ta”. Bà nói, “Kỳ thật cũng chẳng còn lại gì, đồ vật liên quan đến công việc của ông ấy vốn đều được khóa trong chiếc tủ ở phòng thí nghiệm. Ngay cả bút ký công tác cũng thế——Ông ấy thường xuyên chong đèn viết cho xong một trang vào tối cùng ngày, hôm sau sẽ mang tới khóa ở phòng thí nghiệm. Nhưng ta đã giấu Giáo chủ một chuyện. Ngay ngày xảy ra vụ việc nhiều năm trước, chúng ta bởi vì bị muộn mà quá rối ren, đến nỗi sau khi về nhà ta mới phát hiện, Chen bỏ quên tờ bút ký công tác ông ấy viết đêm đó”.

    Tim tôi đập bình bịch. Tôi gần như đã đoán được bà muốn nói gì ở giây tiếp theo——

    “Nó có ý nghĩa quan trọng với ta”. Bà nói, “Ta đã giấu nó đi, dù rằng ta không hiểu phần lớn thâm ý trong đó. Giờ ta đưa nó cho cậu, chàng trai trẻ. Trang cuối cùng của bút ký đó——là một cuộc trao đổi. Cậu mang đến cho ta một tia hy vọng, ta cũng mong nó có thể mang đến hy vọng cho cậu, có thể cho phép cậu phát hiện chân tướng cậu cần”.

    Chương 62

    Bà trở vào phòng một lát, đưa cho tôi một tờ giấy được cất giữ cẩn thận. Vốn bà định đưa nó cho tôi, nhưng tôi nghĩ trong tương lai có lẽ không thể an bài ổn thỏa những gì bà cất giữ, nên chỉ yêu cầu xem qua tại chỗ. Bà gật đầu đồng ý, lại đi pha trà mới cho tôi. Lúc này tôi mở tờ giấy kia ra, thận trọng nhìn dòng đầu tiên. Nội dung trên ấy không nhiều, nhưng chữ viết hơi lộn xộn, tôi đọc rất chậm.

    “Chen Yang——ngày 28 tháng 2 năm 840

    Ngày mai sẽ là khoảnh khắc tổ của chúng tôi có thể kiểm nghiệm thành quả. Có rất nhiều chìa khóa dẫn tới đáp án, và ‘chuỗi mật mã’ chân chính cũng chỉ là một trong số đó. Tôi cho rằng sự lựa chọn của chúng tôi là một trong những cái có tỷ lệ thành công cao nhất.

    (Chữ viết phía sau bị người gạch một đường)

    Những đứa trẻ bị cha mẹ tự nguyện đưa tới nghĩ thế nào về việc này? Trước đây tôi chưa bao giờ cân nhắc đến vấn đề này. Trẻ con có nhánh ma pháp là đầu vào thí nghiệm tốt hơn một đứa bé bình thường nhiều——chỉ cần xác định chính xác chuỗi mật mã ở bước này, thì có thể thay đổi đối tượng thí nghiệm ở bước tiếp theo, cố gắng xây dựng từ không tới có. Đó là một mục tiêu vĩ đại. ‘Kế hoạch gây trồng’ sẽ thay đổi được vận mệnh của biết bao người bình thường, vì lẽ đó cá nhân hi sinh…

    Đúng thế. Cho nên tôi vẫn đang kiên định viết mấy dòng chữ này, là bởi người hy sinh cũng không phải tôi”

    Dòng cuối cùng kia bị người dùng bút tô lại rất nhiều lần, lại dùng một cách lộn xộn hơn gạch lung ta lung tung. Chữ “tôi” cuối cùng kia đè nặng nhất. Tôi vừa nghĩ tới người thay thế chữ “tôi” đó ám chỉ, tim lại không nhịn được như bị dao cắt.

    Tôi phát hiện mình dựng đứng tờ giấy kia lên. Hình thức của những chữ được viết trong đó, sức lực tích lũy trong đó làm tôi không thể dời mắt. Tôi quét những chữ kia từ đầu tới cuối, một lần rồi lại một lần.

    Cuối cùng tôi đã biết mình đã đâm đầu vào hiểu lầm như thế nào. Tiêu đề của quyển sách tôi nhìn thấy lúc đầu kia đã gạt tôi. Sở dĩ giáo sư Ryan nói “dung hợp” là một giả thuyết, chính là bởi trọng tâm của kế hoạch mà nhiều bên quan tâm không nằm ở đây ——Có lẽ từ trước tới giờ không phải là “dung hợp”, không phải “song song” mà là “gây trồng”. Không phải vì ban ơn cho Ma pháp sĩ hay Đao giả mà áp dụng thí nghiệm, mà là có thể tạo phúc cho người bình thường chiếm tỷ lệ lớn nhất, mang đến khúc dạo đầu cho thiên phú của họ.

    Lần thí nghiệm kia của đám người Chen Yang hiển nhiên là sự thành công phải trả bằng cái giá thảm khốc, sự tồn tại của Carayon chính là một minh chứng——Bọn họ đã chọn trúng “chuỗi mật mã” duy nhất trong vô vàn “chìa khóa” mình đã nghiên cứu phát minh, hoàn thành việc trồng một nhánh ma pháp khác.

    “Thời đại hoàng kim! Nó sẽ mang tới một thời đại hoàng kim. Hoán nhiên nhất tân, trời đất xoay vần…” Nếu như “nó” trong thư của Toskaya chính là chỉ chuỗi mật mã có ý nghĩa to lớn, lời giải thích của ông ta không thể nghi ngờ là rất có sức thuyết phục. Nó xác thực đáng để người trước hy sinh người sau tiếp bước. Bởi vì thiên phú có hạn, người bình thường kém xa người có ma lực cùng tuổi trên phương diện cơ hội việc làm. Nếu như nó có thể thoáng tăng cường tỷ lệ thành công chuyển biến người bình thường, có vô số lĩnh vực đều sẽ được nó kéo theo: sức mạnh quốc gia, sức dân, toàn thể, cá thể…

    “Chỉ là,” tôi nghĩ thầm, “Mình cũng được Carayon tự tay trồng nhánh ma pháp ——chẳng lẽ nói anh ấy thật ra biết rõ nội dung của chuỗi mật mã? Anh ấy đã trải qua cái gì sau khi thí nghiệm thành công, mới mười hai tuổi đã bị đưa tới Gerundnan …”

    Tôi kinh ngạc đứng yên thật lâu. Lúc tôi lấy lại tinh thần, vừa vặn đối diện với đôi mắt dịu dàng của bà lão.

    “Không cần nói gì với ta”. Bà nói, nhận tờ giấy tôi đưa. “Ta đã thoát khỏi tất cả những thứ này từ lâu rồi”.

    Tầm mắt tôi chậm chạp dừng lại trên tờ giấy kia. Tay phải của bà lão đang cẩn thận vuốt nó, vuốt nhẹ mặt ngoài chiếc nhẫn mỏng trên ngón giữa cùng ngón đeo nhẫn. Hai chiếc nhẫn bạc kia đập vào mắt tôi, nhất thời khiến tôi cảm thấy quen quen——Tôi nhớ lại, phát hiện kiểu dáng của chúng tương tự chiếc “mặt nạ linh hồn” của mình. Một chi tiết nhỏ lúc kiểm tra vào Quân tiên phong chợt lóe trong đầu tôi, làm tôi đột nhiên thông suốt.

    “Thưa bà,” tôi mở miệng hỏi, “Cho cháu mạo muội hỏi chút, có phải viên đá cháu mang tới đã biến thành một chiếc nhẫn bạc không?”

    “Đúng thế”. Trong mắt bà lộ vẻ ngạc nhiên, “Nhưng…”

    “Cháu có một chiếc nhẫn tương tự,” tôi giải thích, “Cá nhân cháu từng biến nó từ viên đá màu bạc thành nhẫn”.

    “Người trẻ tuổi như cháu không nên có nó”. Bà có chút nghi hoặc nói, “Bên ngoài chiếc nhẫn của cháu khắc chữ gì?”

    “Bên ngoài không khắc chữ”. Tôi nói “Hình như để không”.

    “Vậy thì không hề tầm thường,” bà nhìn chăm chú tay phải mình, bỗng nhiên quay sang nhìn tôi, “Sau khi biến hóa thông thường đều có tên”.

    “Nhưng mặt trong của nó có khắc chữ,” tôi nói, “Là ‘mặt nạ linh hồn’, cháu tình cờ có được”.

    Bà nghe xong, cũng đứng thẳng lên giống tôi, tiến lên nắm chặt tay tôi, biểu hiện vô cùng kích động.

    “Thật không ngờ là vào hôm nay”. Bà thấp giọng nói, “Ta những tưởng mình đã phụ lòng sự ủy thác của ông ấy——vậy mà cháu lại đứng trước mặt ta!”

    Sau đó bà nhẹ nhàng thu tay về, khôi phục giọng điệu nói chuyện. Bà bảo tôi chờ tại chỗ, sau một lúc lâu đưa thêm cho tôi một tấm bản đồ bằng da cừu. Tôi mở ra nhìn, phát hiện bức tranh phía trên hình như là phác thảo của toàn bộ đại lục, gồm khu vực đông, tây cùng với vùng cực nam. Có hơn mười chấm tròn rải rác trên bản đồ, gần đó dùng chữ nhỏ viết các địa danh, có nơi còn dùng dấu sao đánh dấu hai lần.

    Tôi không hiểu vì sao, nhìn về phía bà.

    “Chiếc nhẫn kia không phải chiếc nhẫn tầm thường”. Bà nói với tôi, “Nó từng được chế tạo riêng cho mỗi một nhân viên thí nghiệm cao cấp, giống như là chứng minh thân phận có tác dụng “thẻ truy cập” vậy, quyền hạn của mỗi chiếc nhẫn lại khác nhau”.

    “Quyền hạn?” Tôi hỏi.

    Tôi đột nhiên nhớ lại căn nhà ở phố 29, việc không hiểu vì sao mở ra được cái tủ dưới bàn học của Giáo chủ.

    “Quyền hạn mở cửa. Có thể là cửa của công trình kiến trúc, cũng có thể là cửa trong của vật phẩm bị niêm phong, toàn bộ do người chế tạo giới hạn”. Bà nói “Lúc Chen hai mươi tuổi từng may mắn cùng phòng với người sáng lập phòng thí nghiệm, tức là cộng sự với “Trí giả” đương thời. Trí giả đã cho ông ấy một thông tin: kết quả tiên đoán của ngài hiện ra một tin dữ. Tốc độ phát triển về phương diện nghiên cứu khoa học của Phổ quốc vượt xa cùng thế hệ, rất có khả năng phải nghênh đón một mùa đông vật cực tất phản (1). Đến lúc đó nghiên cứu của chúng ta sẽ rơi vào thung lũng, thậm chí sẽ xuất hiện tình huống thụt lùi, mọi người sẽ một lần nữa dừng lại không tiến lên tại vấn đề đã từng giãy dụa”

    “Ví dụ như chiến tranh năm 796?”

    “Đúng thế. Chiến tranh xảy ra sau cuộc đối thoại của họ. Chen nói với ta, vốn phòng thí nghiệm đã gần nghiên cứu ra một nhóm công cụ ma pháp, thuốc mới, đồ dùng tiện cho dân, dự định sau đó tập trung vào mấy xưởng chế tạo lớn, nhưng hầu hết trong số đó còn chưa ra đời, đã bị chiến hỏa xảy ra bất ngờ phá hủy. Ngoài ra còn thêm cả tổn thất của một nhóm nhân tài. Đó là thời điểm u ám nhất của phòng thí nghiệm. Vụ nổ năm 840 kia cũng thế——ta không biết toàn bộ tư liệu liên quan đến kế hoạch này có được cất giữ trong tòa nhà đó hay không, nhưng ta có thể khẳng định rằng, bọn họ đã đánh mất nhân tố quyết định của thành công chân chính”

    Chuỗi mật mã, tôi nghĩ bụng.

    “Đó quả thật là tiên đoán vô cùng mạnh mẽ”. Tôi nói.

    “Đó là năng lực Trí giả đã có từ khi sinh ra. Ngài ấy nói với Chen, tiên đoán của ngài cũng không thập toàn thập mỹ, ngài cũng chẳng phải thần——Đáng tiếc trên đại lục vĩnh viễn chỉ có một vị Trí giả”. Bà thở dài nói, “Ngài không đành lòng nhìn thấy tình cảnh như thế xảy ra trong tương lại, vì vậy đã sớm bố trí sẵn một phương pháp cứu vãn: Ngài chế chiếc nhẫn quyền hạn của mình thành một loại công cụ ma pháp, khắc chữ ‘mặt nạ linh hồn’ bên trong nhẫn. Ngài ấy sẽ dùng cách của mình, để nó đi theo ‘vận mệnh’, cuối cùng rơi vào tay người khác. Ngài ấy bảo Chen nhớ kỹ những điều này, đồng thời nhờ ông ấy truyền đạt——Nếu như nhiều năm sau ông ấy tìm thấy người sở hữu chiếc nhẫn ấy thì hãy nói cho người đó: ‘Ngươi chính là một kẻ hủy diệt’”.

    “Người này là cháu?” Tôi nghe mà trợn mắt ngoác mồm, “Cháu là một kẻ hủy diệt…trên phương diện gì?”

    “Trí giả không tiết lộ nhiều hơn”. Bà lão nói, “Ngài để lại một tấm bản đồ cho cháu, bên trong là địa điểm ngài ấy cất giữ tài liệu lịch sử, ghi chép cùng với tư liệu quý giá của cổ nhân, còn có một số của cải nhất định. Những chỗ này chỉ có thể mở ra bằng chiếc nhẫn của ngài. Có thể xem đây như là một thỉnh cầu, ngài ấy hy vọng cháu giúp đỡ truyền bá những ghi chép kiến thức đó, để lĩnh vực nghiên cứu khoa học của toàn bộ đại lục đều có thể đạt được một vài tiến trình”.

    Tôi rất muốn đồng ý thỉnh cầu này, nhưng chiếc nhẫn đã rời khỏi tay tôi từ lâu. Tôi không biết hiện giờ nó đang ở nơi nào trong Hội ma pháp, đã bị phát hiện bí mật ẩn giấu trong đó hay chưa. Tôi cân nhắc chốc lát, vẫn quyết định không nói tin chiếc nhẫn đã mất cho bà lão——tôi hạ quyết tâm phải tìm nó về.

    “Cháu đồng ý với ông ấy”. Tôi nói, “Chờ đến khi chiến tranh kết thúc”.

    “Cảm ơn cậu Vicente”. Bà lão mỉm cười, nhìn ra ngoài cửa sổ, cửa kính cách một lớp sương mờ, “Chỉ là không biết cuộc chiến lần này sẽ kéo dài bao lâu”.

    Bà nói với tôi, theo tờ báo bà đọc, ba thành hướng tây bắc Gerundnan đã bị đánh chiếm, quân đội Phổ quốc đang xuôi xuống, tiến vào trạng thái giằng co với quân đồn trú của thành lớn nào đó, e rằng ít ngày nữa sẽ có kết quả. Việc ra vào biên giới vẫn rất chặt chẽ——cho dù thật sự được phép xuất cảnh, cũng phải làm thủ tục hơn một tháng.

    “Vùng đất Vĩnh Dạ thì sao ạ?” Tôi hỏi, “Biên giới nơi đây có thủ vệ, nghe bảo mọi người cũng có thể băng qua nó tới Gerundnan——cháu có lý do phải đi qua”.

    “Phải cân nhắc cẩn thận cách này”. Bà nói, “Nguồn gốc cái tên chính là chỗ đáng sợ của nó”.

    Tuy nói thế, bà lại cố ý cho tôi biết một vài chi tiết sau khi tôi khăng khăng dò hỏi: nếu như đầm lầy ở vùng đất Vĩnh Dạ đều biến thành đất bằng, người đi qua ngắn nhất cũng phải mất ba ngày ba đêm. Ban đầu là hồ nước động, bọ hút máu, sau đấy là cây vuốt chim, dây leo ăn thịt người, bắt đầu từ nơi này thì không thể phi hành trên không trung. Cuối cùng là rừng khí độc, chỉ có một thời điểm nào đó mỗi ngày không khí mới khôi phục bình thường trong thời gian ngắn, tạo điệu kiện lao một mạch.

    “Ta chỉ biết có nhiêu đó,” bà đứng ở cửa đưa cho tôi một chiếc la bàn, vuốt tóc tôi, thần thái mệt mỏi mà an tường, “Chúc cậu may mắn, Vicente”.

    Chương 63

    Tôi gửi cho Carayon một bức điệp thư, chuẩn bị xong xuôi đồ ăn nước uống cho năm ngày, trực tiếp đi vào vùng đất Vĩnh Dạ.

    Vùng đất Vĩnh Dạ không biết đã từng giết chết bao người đi nhầm vào. Tôi cưỡi trên lưng chim giấy, may là không cần phải lặn lội qua hồ nước đọng. Một ngày sau sương mù thưa dần, mặt đất biến thành màu xanh xám, cây cối hình vuốt chim trở thành ranh giới giữa đầm lầy và rừng cây. Tôi nhớ tới dây leo ăn thịt người, lập tức từ bỏ việc bay tiếp, lao xuống dưới.

    Từng dây leo yên lặng nằm trên đất quả nhiên nháy mắt vọt lên không trung, sau khi không bắt được gì thì khua khoắng tới lui, đâm tới chỗ tôi. Tôi phát hiện hình như chúng né tránh nơi cây cối sinh trưởng, thế là chọn một gốc cây vuốt chim để đặt chân.

    Cành cây vuốt chim đó vậy cũng lập tức quật sang bên. Tôi nhảy khắp nơi trên cây, mới phát hiện sự công kích của nó cũng không hẳn là nhắm vào tôi ——chỉ cần tôi đứng ở lòng vuốt của cây vuốt chim, nó sẽ phớt lờ tôi.

    Có vẻ như nó nhạy cảm với những dây leo ăn thịt người kia hơn, dùng ngọn cành chuẩn xác quấy rối dây leo xanh biếc vọt lên không ở bên cạnh. Vỏ cây gần dây leo tiết ra một loại chất nhầy nào đó, khiến cho dây leo bị vây hãm từ từ mục nát, cuối cùng đứt thành từng đoạn, rơi xuống. Cành cây vuốt chim uốn éo, lúc này mới trở lại nguyên trạng vuốt chim khô héo.

    Tôi bọc mình vào chỗ ba cành cây chắc khỏe đan vào nhau thành hình dáng cái tổ nghỉ lại một đêm, lúc trời sáng mới lần nữa khởi hành. Tôi ý thức được muốn tránh né dây leo ăn thịt người đầy đất, chỉ có thể mượn cây vuốt chim khắc chế chúng nó. Mỗi một bước tôi đều giẫm lên lòng vuốt chim, hoặc là nhảy lên, bàn chân đạp qua ngọn cành.

    Trải qua nhiều lần tự rèn luyện, đao của tôi hiện tại đã có thể thả ra mười tiếng một ngày. Về sau luyện đao, ngoại trừ dồn hết tâm trí huấn luyện đao pháp, thời gian phóng thích đao mỗi ngày của tôi hiếm khi cần đến thời hạn này, nhưng hành trình dài dằng dặc này khiến tôi phải tính toán tỉ mỉ. Lúc không cần phải dùng đến Caron thì thu nó vào trong cơ thể mình.

    Tôi thậm chí mạo hiểm cắt một đoạn dây leo, cho nó một ma pháp biến chất, quăng treo ở giữa các cây đu qua đu lại ——cước trình bởi vậy nhanh hơn không ít.

    Vào buổi tối ngày thứ tư tôi bỗng cảm thấy mình đã chìm trong sương mù, tức khắc cảnh giác lùi về sau. Đoạn đường này gấp gáp, thời điểm tới rừng khí độc còn sớm hơn tôi tưởng. Tôi ngồi xuống một nơi không khí mát lạnh, tới hừng đông mới trở lại đoàn đường cũ kia.

    Phân vùng sương mù được ánh mặt trời chiếu rọi vô cùng rõ ràng. Tôi đứng chờ ở chỗ gần nó nhất, không thả lỏng một giây. Theo thời gian trôi qua, mặt trời dần dần leo tới đỉnh đầu——Sương mù tập hợp phía trước cánh rừng vào đúng lúc này thưa dần. Tôi thấy dây leo ăn thịt người trên mặt đất nơi ấy đều đã mục nát hết, thế là một lần nữa cưỡi chim giấy, bọc quần áo kín mít, nín thở xông về phía trước. Có điều nửa tiếng, sương mù kia hình như lại tụ lại một lần nữa, tôi buộc phải đánh liều gia tăng ma lực truyền vào, thúc giục chim giấy bay nhanh hơn.

    Lúc tôi có thể nhìn thấy ánh sáng bên ngoài rừng khí độc, phần khung của chim giấy rốt cuộc không chịu nổi gánh nặng, hai cánh cụp xuống, mà ma lực của tôi cũng đã tiêu hao hết. Tôi chuyển sang chạy một mạch bằng hai chân, bỏ lại khu rừng đã dày đặc sương mù ở phía sau.

    Tôi có hơi choáng váng ngửa mặt ngã xuống một bãi cỏ, há to mồm hít thở, bầu trời xanh biếc như thể đang rơi xuống. Bốn ngày bốn đêm căng thẳng đề phòng đạt tới đỉnh điểm, giống như sương mù giữa trưa kia đang tan ra.

    Sau khi nghỉ ngơi tôi ăn một ít, lấy một tờ giấy dự bị trong bọc hành lý, phỏng theo thủ pháp của Ode làm ra một con chim giấy mới, bay đến nơi có người thăm dò vị trí. Tôi cố ý tích góp ma lực, vốn định thuê một con ngựa bay, nhưng mà không có chủ ngựa nào chịu cho thuê vào lúc này.

    “Xa quá,” chủ ngựa cuối cùng tôi hỏi thăm kia nói, “Muốn tới chỗ cậu bảo khả năng phải vượt qua khu vực chiến tranh——chính là Thành White Dew, Thành Zhu, thị trấn Glimmo. Thật ra cũng có thể đi đường vòng, thế nhưng đường xá càng xa càng nguy hiểm——Cậu phải hiểu, gần đây việc làm ăn không tốt. Giá ngựa bay quá cao, tôi không dám tổn thất dù chỉ một con”.

    Tôi một mực đòi hỏi, cộng thêm tiền đề ném ra nửa túi vàng, chủ ngựa kia cuối cùng cũng đồng ý cho tôi thuê một con ngựa thường, bảo tôi sau đấy buộc nó cạnh một trạm dịch, gửi thư truyền tin cho chú ta. Tôi lao như bay về phía thị trấn Hoftas, chạy hơn nửa ngày không ngừng lấy một giây.

    Con ngựa kia mệt ra mồ hôi đầy người, tôi sờ đầu nó, đút cho nó chút cỏ ngựa của trạm dịch.

    Tôi đi đường nhỏ, sau khi băng qua một cánh đồng trống bỏ hoang bị chiến hỏa lan tới mới đến nơi. Trạm dịch này gần biên giới thị trấn Green Olive, đi xa hơn có thể tới thành Boehmeria——nhìn chung là một con đường ngắn tới thị trấn Hoftas. Nhưng rất kỳ lạ là: kể từ lúc vào thị trấn Green Olive tới giờ, tôi không hề thấy bất kỳ ai. Có một vài cửa hàng rõ ràng còn mở cửa, chủ quán lại chẳng biết đi đâu.

    Bên trong trạm dịch chỉ có đám bồ câu đưa thư vẫn ở đó. Tôi vẫy tay gọi một con trong đó, để nó chuyển một phong thư cho chủ ngựa, rồi gửi điệp thư cho Ode hỏi thăm tình trạng gần đây. Ode chậm chạp không trả lời, tôi lập tức đưa ra một quyết định, để ngựa ở đây nghỉ ngơi một lúc, tự mình đi bộ thăm dò thị trấn bỏ không này. Bên ngoài truyền đến tiếng kêu lộn xộn khiến tôi lập tức rút chân về——Đó là tiếng bước chân của rất nhiều người, lại chẳng giống tiếng động của “một đám người” đơn giản đi ngang qua có thể phát ra. Không có tiếng nói, chỉ có tiếng thở hổn hển đi cùng với nhịp chân.

    Tôi lách mình ra sau cánh cửa trạm dịch, nhìn ra ngoài qua khe hở.

    Bên ngoài trạm dịch là một đám người thua trận đang chạy qua. Có một nhóm rất lớn, đi tới từ phía thành Boehmeria. Tôi đếm tay, ước chừng hơn nghìn người luc tục đi qua. Bọn họ mặc chế phục không thuộc Gerundnan, có vẻ đã trở nên rách nát trong một hồi ác chiến, dính đầy vết máu. Vẻ sợ hãi cùng bụi bặm trên mặt đan xen, từng sơi tóc dính đầy mồ hôi. Trên người bọn họ mặc dù có vết thương, hầu hết tay chân đều lành lặn, lúc này lại chạy trốn như liều chết, không hề mảy may liếc mắt tới chỗ tôi, giống như đang thoát khỏi một cơn ác mộng cực kỳ khủng bố.

    Sau khi tôi kiên nhẫn chờ người cuối cùng đi qua, lấy lại bình tĩnh, mới đi về hướng bọn họ tới.

    Càng tới gần thành Boehmeria, cảnh tượng trong đó lại càng hỗn loạn. Chỉ có mấy sạp trái cây bị lật úp trên đất, tất cả mọi thứ ven đường đều bị giẫm đạp tan nát, hoa quả không người ngó ngàng, tỏa ra hương thơm rữa nát. Ngoài cái đó ra, tôi dường như còn ngửi thấy một mùi rỉ sắt lẫn trong đó. Lúc tôi tới gần gò đất giao giữa thành Boehmeria và thị trấn Green Olive, tầm mắt của tôi ngày càng rộng, trên đất có thêm rất nhiều dấu chân màu nâu, cái này đè lên cái khác. Ban đầu tôi tưởng những thứ đó là nước bùn, sau mới phát hiện ra là máu.

    Một cảm giác bi thương không tên nổi lên từ bề mặt đã được giải đáp lúc tôi tới thành Boehmeria. Mặt đất nơi ấy gồ ghề, chất đầy vô số xác chi gãy, mặt đất như từng bị tắm máu một lần, lại bị lửa thiêu một lần, vẫn có thể khiến người ta cảm giác được dấu vết ma pháp dày đặc. Tôi đi qua tràng cảnh như địa ngục trần gian này, trong lúc vô tình giẫm phải cánh tay của một người đã chết dưới chân.

    Tôi ngồi xổm xuống kiểm tra, phát hiện người đó không mặc quân phục, là trang phục hàng ngày bình thường.

    Có một số lượng hai nhóm người đông đảo nằm ở đây: những kẻ xâm lược thua trận mặc chế phục, cùng với những bình dân biến mất của thị trấn Green Olive.

    Cổng thành vừa dày vừa nặng một mặt chính hai bên ở phía bắc thành Boehmeria đã được hạ xuống, tỏ rõ nó từ chối tất cả người lai vãng ở ngoài cửa. Tôi ngẩng đầu lên, muốn kiểm tra bên trong lầu cổng thành có người chuyển động hay không. Nhưng tôi cũng không thấy được bất cứ một bóng dáng nào từ những cửa sổ nhỏ tối đen đó, nhưng lại nhận được điệp thư bay nghiêng tới của Ode trước tiên.

    “Tớ ở thành Boehmeria”. Trong điệp thư viết, “Bọn tớ gặp phải nguy hiểm”.

    Tôi không biết Ode thương lượng với binh lính thủ thành như thế nào. Sau khi chúng tôi gửi điệp thư tới lui mấy lần, cổng bắc thả xuống một sợi dây thừng, kéo tôi lên cổng thành lầu.

    Tôi nhìn thấy Ode đứng ở đó. Xa cách nửa năm dáng dấp của cậu ấy quả nhiên không hề thay đổi, chỉ có bộ kính không gọng cậu ấy đeo kia hơi lệch. Chúng tôi ôm nhau một lúc, cậu ấy dẫn tôi vào trong cổng lầu. Ode không hỏi tình hình nửa năm này của tôi mà nhanh chóng kể về cuộc chiến vừa mới xảy ra ở nơi này.

    Lúc này tôi mới biết rõ: trước khi Phổ quốc tiến quân đánh cờ hiệu của vương đô, đã thẳng tiến từ phía tây đến trung bộ Gerundnan. Tình thế ban đầu của họ rất tốt, có điều rất nhanh đã bị mấy tên tướng quân phản kích. Lúc chúng tuyên bố hành quân trên đại lộ tới vương đô, phía Gerundnan đã chuẩn bị kỹ lưỡng đánh một trận ác liệt. Ai ngờ vào lúc này bọn chúng lại đánh cực khéo léo, thậm chí có can đảm tách ra, rút một nhánh quân nghìn người tấn công phía nam, muốn đánh bất ngờ cướp thành Boehmeria.

    Thành Boehmeria không lớn, nhưng vị trí quả thực khiến người ta thèm nhỏ dãi. Chỉ có điều không ai dự đoán quân đội của Phổ quốc lại kiếm tẩu thiên phong (1), thà mạo hiểm giảm số lượng đột ngột, bình tĩnh vượt qua lộ trình xa xôi, mưu đồ một đòn trúng đích.

    “Nơi này vốn còn xa mới tới mức độ bị chiến hỏa lan đến,” Ode nói, “Thế nên thành Boehmeria đã điều một nửa binh lính đồn trú ra mặt trận chính kháng địch. Kết quả ngày hôm qua quân của Phổ quốc tập kích phía bắc thành Boehmeria ——Có lẽ là ấp ủ chủ ý đánh hạ nơi này, cuối cùng sẽ hội hợp với một đội binh mã khác quét sạch khu vực trung tâm của chiến tuyến hình cung. Nhân số của chúng so với binh đoàn đồn trú ước chừng là bảy so với một”.

    “Bảy so với một?” Tôi ngạc nhiên nói.

    “Bảy so với một. Nơi này không tập hợp đủ một ngàn người”. Ode nói, “Binh đoàn đồn trú không quen với chiến sự, nhưng phản ứng rất nhanh, trong thời gian ngắn nhất hạ cổng thành ba lớp phía bắc xuống, mở lồng phòng ngự phía trên, truyền tin cầu viện cho các Hội ma pháp gần đây. Quân Phổ quốc tấn công ở ngoài thành một đêm, sau khi đánh mãi không xong thì bắt đầu tàn sát người dân ở thị trấn Green Olive phụ cận. Công sự phòng ngự của thôn trấn khác thành lớn, gần như tương đương với số không. Kết quả cậu đã thấy rồi đấy”.

    “Tàn sát…” Tôi siết chặt nắm đấm.

    “Bọn chúng lần lượt xử quyết người chạy trốn. Lúc đó có rất nhiều người dân chen lấn ở cổng thành, bọn chúng muốn chúng ta đầu hàng. Nhưng trong thành cũng có người, binh đoàn đồn trú không thể đồng ý mở cổng thành đơn giản vậy được. Cho dù trực tiếp nghênh địch cũng không sáng suốt, dưới tình huống nhân số song phương chênh lệch quá nhiều, với tư cách là bên phòng thủ, nếu như rời khỏi phòng hộ của tường thành trực tiếp tiến công, phần thắng của binh đoàn đồn trú sẽ rất nhỏ. Đội hình Phổ quốc lấy ra vô cùng bạo tay——đều là Đao giả và Ma pháp sĩ, mà binh đoàn đồn trú chỉ do người bình thường đã qua huấn luyện tạo thành. Bọn tớ giằng co cả một buổi sáng với quân xâm lược bên ngoài”

    “Nhưng chúng ta thắng,” tôi nói, “Những kẻ xâm lược kia đã bị đánh lui——Sao chúng ta làm được? Tớ tận mắt thấy tàn binh của chúng tán loạn”.

    “Vẫn chưa kết thúc”. Ode nói “Chỉ đánh lui quân Phổ quốc thôi. Tin mới là cổng thành phía nam đã bị bao vây, hình như là bên liên minh của Phổ quốc bỗng nhiên gây khó dễ, có quân đội từ Yinsha vượt sông tới. May là bọn chúng có vẻ không phối hợp được từ trước với đám người mặt phía bắc, không ngờ lại bị đánh lui nhanh như vậy, còn đang tử thủ ở phía nam”.

    Tôi nghĩ tới vị trí địa lý của Yinsha——đã rất gần thị trấn Hoftas.

    “Tớ tưởng lúc này cậu phải lên lớp ở Hoftas”. Tôi nói.

    Odessa im lặng chốc lát.

    “Thầy hướng dẫn nhân kỳ nghỉ đông mang bọn tớ ra ngoài khảo sát, trùng hợp đi qua thành Boehmeria”. Cậu ấy nói.

    Bước chân của tôi và cậu ấy vào lúc này dừng lại dưới chân một bức tường, Tay Ode giơ lên gần bức tường hình trụ của cồng lẩu, sau đó ấn vào chốt mở phía trên.

    “Không phải nãy cậu mới đặt câu hỏi, làm sao bọn tớ đẩy lùi được chúng à?” Cậu ấy nói, thần sắc lưu động trong mắt khó có thể dùng lời diễn tả, “Kế tiếp cậu sẽ biết”.

    Bức tường gạch bao quanh lầu cổng thành ầm ầm lún xuống đất. Ánh sáng rọi qua mấy lỗ hở, cộng thêm những tia sáng vọt tới từ sau lưng tôi, chiếu sáng một phương trong tòa thành lầu nhỏ này. Nơi đây có cả thảy mười người đang đứng, có hai người mặc đồ bác sĩ, hai binh lính đồn trú, có một người dáng vẻ học sinh cầm bút ghi chép gì đó, cùng với những người khác đang xúm lại ở trung tâm. Qua kẽ hở giữa người với người thấy được, người ở giữa nằm trên mặt đất, không biết ai tìm được cái thẳm đắp cho y. Y đang nhẹ giọng nói gì đó với cái người ghi chép cúi đầu, khuôn mặt có hơi tái nhợt.

    “Giáo sư Ryan?” Tôi há miệng. Nơi đó quá yên tĩnh, không có gì ngoài lời nói của người mang hơi thở mỏng manh. Kỳ thực tôi không thể phát ra bất cứ âm thanh nào.

    “Xin lỗi nhé Vicente”. Ode thấp giọng nói phía sau tôi, “Lại mang tới cho cậu một tin xấu như vậy”.

    Tôi nhìn cậu ấy không hiểu vì sao. Nhưng ngay sau đó tôi thấy Ode tháo kính ra, để tránh một giọt nước mắt lăn xuống sau đó——giống như đó đã trở thành một động tác thành thạo.

    Tôi đứng ở cửa, đám người vây quanh Ryan kia——bọn họ đại đa số đều rất trẻ, ngoài hai binh lính đồn trú kia, phần lớn bọn họ đều có vẻ mặt đau buồn. Giáo sư Ryan hình như đã nói xong, mỉm cười với người ghi chép tận tụy kia. Người ghi chép có dáng dấp học sinh ấy đứng dậy, thu dọn bút vở, bỗng nhiên gào khóc.

    “Lúc ấy người biết ma pháp trong thành rất ít, về cơ bản chỉ có một nhóm học sinh bọn tớ được thầy dẫn dắt”. Ode nói, “Bọn tớ đều chống đỡ chờ viện binh. Bình dân trong thành cần phải bảo vệ, bình dân bên ngoài một người rồi lại một người chết đi. Cuối cùng giáo sư Ryan lấy thân phận Đại ma đạo sư, thuyết phục binh đoàn đồn trú mở cổng thành, ra trận cùng thầy ấy. Bọn tớ đều nói muốn ra ngoài liều mạng với thầy, nhưng thầy bảo thầy không phải ra ngoài liều mạng ——Ma pháp sĩ không thích hợp cận chiến, nhưng sau khi tiến vào cấp độ Đại ma đạo sư thì lại khác. Thầy bảo bọn tớ chắc chắn đã đánh giá thấp sức mạnh của Đại ma đạo sư, Đại ma đạo sư của một quốc gia chưa bao giờ vượt quá hai chữ số tất nhiên là có lý do, bọn tớ sẽ chờ tiếp ứng ở phía sau”.

    Tôi đi về phía trước một bước, lại không dám đi hẳn vào trong vòng người. Tôi biết mình đã bỏ qua cái gì đó, nhưng tôi chỉ có thể ở đây nghe Ode tự thuật.

    “Đó thật sự là một trận chiến tuyệt vời nhất, cả đời tớ cũng không ngờ mình sẽ may mắn nhìn thấy nó …Thế tớ mới biết tớ chênh lệch bao xa so với Đại ma đạo sư. Trận pháp của thầy ấy lan ra khắp chiến trường, thậm chí không cần thầy tự thân tới. Thần chú của thấy dành cho quân xâm lược mỗi lần xung phong đón đầu ra sức đánh. Bàn tay của thầy kiểm soát tất cả——chúng tớ đều lo ma lực của thầy sẽ cạn, nhưng không. Thầy thành công khống chế được tình hình, những người dân thị trấn bị vây ở một bên trốn khỏi nanh vuốt ma quỷ, đại quân chặn đánh bọn tớ liên tục tháo chạy, kẻ ngã xuống nhiều hơn kẻ đứng, rất nhanh thế cuộc xoay chuyển, quân lính tan rã. Binh đoàn được trận pháp của thầy che chở phía sau, học sinh của thầy được thầy che chở trong thành, thầy——thầy cẩn thận mấy cũng có sơ sót, lúc xoay người thì bị một thanh đao hoảng loạn bay tới xuyên qua tim. Thầy không mặc giáp bảo hộ tim, biết vết thương trí mạng của Ma pháp sĩ không thể cứu được, dứt khoát sử dụng cấm chú tiêu hao sinh mệnh…”

    Tôi và cậu ấy nhìn nhau, lại dời mắt. Tôi đã không thể nào nghe tiếp nữa, thế nhưng những câu nói ấy lại lặp đi lặp lại trong đầu tôi, từ âm thanh chuyển thành con chữ, từ chữ biến thành một bức tượng máu me đầm đìa, ép tôi chạm vào, cảm nhận hết lần này đến lần khác. Chúng trở thành một chu kỳ đau đớn kết nối đầu đuôi, trong phút chốc tôi hoàn toàn không thể đi tới cuối.

    Vẫn là giáo sư Ryan nằm trên đất mở miệng trước: “Là Vicente tới đấy à?”

    “Thầy Ryan,” tôi đi qua đám người, quỳ trước mặt thầy, “Sao lại thế này…”

    Thầy mỉm cười: “Thật vui là lúc này còn có thể nhìn thấy em”.

    Tôi mờ mịt nhìn hai bác sĩ bó tay ở bên: “Không còn bất cứ cách nào khác sao? Biết đâu có thể suy nghĩ thêm chút nữa——ngộ nhỡ cũng không thương tổn vị trí quan trọng…”

    Vị bác sĩ trẻ kia dường như muốn nói gì đó, nhưng người lớn hơn lên tiếng.

    “Đó là vết thương xuyên qua tim của Ma pháp sĩ. Cho dù chúng tôi biết chút ma pháp y học, cũng khó có thể…” Anh ta nói, “Tôi chỉ có thể cố hết sức làm giảm tốc độ sinh mạng của ngài ấy biến mất mà thôi”.

    Tôi xoay đầu về. Trong đôi mắt xanh thẫm của Ryan như ngưng tụ chút mệt mỏi, thầy ấy nhìn tôi, sau đó sự mệt mỏi này thản nhiên lan ra phía ngoài.

    Tôi mù quáng hỏi: “Em còn có thể làm được gì cho thầy không, thầy Ryan?”

    Lần trước tôi hỏi thầy như thế, thầy còn đáp “Chỉ cần em nghiêm túc học ma pháp là được”. Tôi nghĩ nếu như lúc này thầy ấy cũng nói như thế, tôi chắc chắn sẽ không phụ tâm nguyện của thầy nữa, thầy sẽ hiểu——có lẽ cả đời này tôi đều sẽ mang câu nói đó trên vai, coi nó là một sứ mệnh nghiêm túc.

    “Không cần gì cả”. Lúc này thấy ấy chỉ nhẹ nhàng nói, “Không cần gì cả”.

    Đám học sinh thầy dẫn dắt đều gom lại đây, có một cô gái khóc rất to, át đi âm thanh đau buồn của tất cả chúng tôi. Tôi cảm giác hai tay và chân mình đều vô lực, đầu gần như muốn rũ xuống đất.

    “Vicente,” Ryan nhẹ nhàng nói bên tai tôi, giọng nói ấy không mấy rõ ràng, “Có phải tôi là một người hèn nhát không?”

    “Không phải. Sao thầy lại nói thế?” Tôi chợt ngẩng đầu, muốn dùng hết sức để thề thốt, “Thầy là giáo sư ma pháp dũng cảm nhất, vĩ đại nhất của chúng em, là Đại ma đạo sư hoàn toàn xứng đáng, em cam đoan với thầy——có thể trở thành học sinh của thầy là may mắn của mỗi người bọn em”.

    Thầy mỉm cười, sau đó lần lượt quét ánh mắt dịu dàng qua tất cả mọi người quanh mình.

    “Vậy thì tốt rồi”. Thầy nói.

    Sau đó đôi mắt thầy trở nên ảm đảm. Không ai trong chúng tôi nhúc nhích, đều sững sờ ngóng trông tại chỗ. Vẫn là bàn tay của một bác sĩ duỗi ra, chậm rãi khép chúng nhắm lại. Bọn họ bắt đầu thủ tục an bài di thi thể của Ryan.

    “Lên trên ngồi chút đi”. Tôi nói với Ode.

    “Bao lâu?”

    “Một phút”

    Chúng tôi ngồi trên tường thành một phút, Ode giơ đồng hồ trước mặt hai đứa.

    “Cậu biết không?” Cậu ấy nói, “Ryan để lại cho cậu một bức thư”.

    “Sao cơ?”

    “Trước khi quyết định xuất chiến thầy ấy đều để lại thư cho mỗi học sinh ở đây. Không dài, là một ít chỉ điểm hoặc là giao phó. Những gì cái cậu ghi chép viết mới nãy chính là đặc điểm ma pháp tấn công của quân đội Phổ quốc”

    “Tại sao tớ cũng có thư?” Tôi hỏi, trong lòng đắng chát, “Tớ không còn là học sinh của thầy Ryan từ lâu rồi”.

    “Thi thoảng thầy ấy sẽ nhắc đến lý luận ma pháp của cậu với bọn tớ,” Ode nói, “Thầy bảo thầy lấy đó làm kiêu ngạo”.

    Chương 64

    Tôi nhận lấy lá thư Ode đưa cho mình, cẩn thận cất nó vào trong ngực, không hề mở ra. Tôi và Ode tìm những học sinh còn lại, thảo luận với họ cùng đi tường thành mặt phía nam. Lần khảo sát này giáo Ryan chỉ dẫn theo hai trợ thủ: Ode cùng người ghi chép trước đó, còn lại đều là học sinh năm năm. Tôi và làm Ode một mạch chừng mười con chim giấy, phân phát cho những Ma pháp sĩ kia.

    Lính đồn trú phần lớn đã dời đến thành nam. Nhìn kích thước của phương trận dưới thành, quân đội bị vây khốn bên ngoài có khoảng ba nghìn người. Tỉ lệ có ma lực trong số chúng có vẻ không nhiều, đều phân bố phòng thủ ở cánh bên, thiểu số đi theo đại bộ đội xung phong. Cứ khoảng mười tên đứng trên một chiếc chiến xa làm bằng gỗ, nửa người trên lộ ở bên ngoài. Những chiếc chiến xa đó hình như được chế tạo thô sơ, nhưng công năng khác biệt, có thể đụng cửa, bám tường, hoặc là làm công sự.

    Đoàn trưởng binh đoàn đồn trú ở ngay một bên lầu cổng thành, đang gào thét chỉ huy các binh sĩ tiến hành phòng ngự, hối hả ngược xuôi để đối phó. Sau khi ông ta hay tin giáo sư Ryan qua đời từ chỗ tôi liền lộ vẻ mặt bi thương, phái trợ thủ thay thế mình một lúc.

    “Nói thật, trước đây tôi có chút thành kiến với Ma pháp sĩ các cậu,” ông ta nói, “Tôi cho rằng người biết ma pháp đều cảm thấy mạng của binh lính bình thường rẻ mạt—— chẳng ngờ vị thầy giáo đó lại chịu áp trận thay chúng tôi”.

    “Tình huống lồng phòng ngự sao rồi?” Tôi hỏi.

    Ông ấy ngẩn người: “Lồng phòng ngự nhiều nhất còn có thể chịu được năm lần tiến công của chúng, không tu bổ được, chỉ có đội ngũ đặc biệt mới biết nguyên lý. Chờ đến khi lồng phòng ngự vỡ, quân địch có thể bay tới từ trên không trung ——chỉ cần chúng có thể. Tường thành có thể duy trì lâu hơn”.

    “Hội ma pháp vẫn chưa hồi âm?”

    “Tới tận giờ vẫn chưa có, không biết đã xảy ra chuyện gì”. Ông ta lau bụi bặm trên mặt, “Cũng đã gửi tin cho thành lân cận, có điều bọn họ không qua đây dễ vậy đâu”.

    “Ông có từng nghĩ, nếu ngày mai người của Hội ma pháp vẫn không tới đây không?”

    “Tôi cũng không biết phải làm sao bây giờ——dù thế nào cũng sẽ không bỏ thành!”

    “Tôi không nói cái này,” tôi lắc đầu nói, “Các ông có nghĩ đến việc chủ động ra trận lần nữa không?”

    “Canh giữ trong thành là quyết định sáng suốt, chúng ta phòng thủ mới có thể chống cự đến phút cuối”. Mặt ông ta đỏ lên, “Sau trận chiến hôm qua chúng ta chỉ còn lại chưa đầy nghìn người”.

    “Nhưng ông vừa bảo là không có phương án dự bị”

    “Tôi nghĩ việc quân cơ không cần một người ngoài nhúng tay”. Ông ta bực bội nói, “Chàng trai trẻ, cậu chỉ cần làm theo sắp xếp của chúng tôi là được rồi”.

    “Không, trưởng quan, tôi cũng đâu có nói ông không đủ tận trách”. Tôi ôn hòa nói với ông ta, “Tôi có một đề nghị nho nhỏ——đồng ý hay không tất cả là do ông”.

    Tôi nói kế hoạch kia cho ông ta nghe. Lúc đầu ông ta nghi ngờ, sau khi nghe xong thì bàn bạc với tôi vài chi tiết trong kế hoạch. Ông ta giúp tôi truyền đạt cho một người lính, bảo người trong thành thu thập cỏ khô và nhiên liệu dạng lỏng nhiều hết sức có thể.

    “Nửa trước kế hoạch không tệ,” ông ta nói, “Phần sau không thiết thực”.

    “Đúng là rất khó, nhưng khả thi”. Tôi nói, “Tôi cần những điều dưới đây: vị trí của quan chỉ huy quân địch, một nhóm chiến mã không sợ lửa và tiếng ồn, một nhóm binh sĩ được huấn luyện nghiêm chỉnh, hướng gió tốt. Tôi cho rằng chúng không có nhân vật cấp bậc Đại ma đạo sư, thế nên lúc đầu không cân nhắc điểm này”.

    “Quan chỉ huy là cái kẻ mang quân hàm màu vàng, ngực đeo một đống huân chương. Phân công của chúng đúng là không thỏa đáng——tốc độ tiếp thu mệnh lệnh chậm, tôi có thể nhìn ra mỗi lần điều động đều khởi xướng từ chỗ đấy. Chiến mã trong thành chỉ có hai trăm con, nhưng xuất sắc như lính của tôi”. Ông ta nói, “Những thứ này đều là người thật việc thật. Cậu không nghe ra hả nhóc? Trọng điểm của tôi là chỉ cậu”.

    “Có vấn đề gì không?”

    “Tôi sẽ không để cậu mang lính của tôi đi chịu chết ——năng lực của cậu còn chưa tới mức đó”. Ông ta nhướn lông mày, “Nói trắng ra, cậu còn kém xa Đại ma đạo sư, người trẻ tuổi đi ra từ học viện ạ. Loại Ma pháp sĩ lai lịch này vốn không thích hợp đánh trận, chỉ có thêm phiền! Cậu thấy thi thể khắp nơi có run rẩy toàn thân không? Lúc lưỡi đao của kẻ địch áp sát trước mặt tay chân cậu có như nhũn cả ra không? Cảm giác chém đứt một người sao có thể giống như trên sách viết được. Cậu đã từng giết người chưa?”

    Tôi ngó ra sau, Ode đang nói chuyện với những học sinh kia.

    “Tôi từng giết rồi”. Tôi nói với binh đoàn trưởng.

    Ông ta hơi trợn to hai mắt, ánh mắt suy tính đột nhiên chuyển sang tay tôi.

    “Tôi là Ma pháp sĩ, nhưng cũng sử dụng đao, đồng thời chẳng kém hơn bất cứ một ai ở đây. Tôi đã đậu cuộc thi dự bị của Quân tiên phong”. Tôi nói, “Tôi không thể đảm bảo mỗi một người họ đều bình an vô sự——cái tôi cần chính là một nhóm những người không sợ chết. Tôi nắm chắc phần sau của kế hoạch, đối phương truyền lệnh quá chậm, hành động cứng nhắc, nhìn không giống quân chính quy——giống như là lính mới thiếu rèn luyện và phối hợp”.

    “Cậu cũng là lính mới”. Ông ta ngừng một chút, nói.

    “Tôi sẽ không lùi bước trước bất cứ ai trong số họ”. Tôi nói.

    Gương mặt ông ta hiện ra sự đấu tranh trong khoảng thời gian ngắn ngủi, lập tức nói rằng: “Để tôi suy nghĩ thêm đã”.

    Tôi nghe câu này của ông ta, biết cái kế hoạch này của mình cách việc hoàn thành cũng không xa.

    Vào lúc này Ode đi tới. Tôi hỏi: “Sao rồi?”

    “Quyết định rồi,” Ode nói, “Mười hai người cũng có thể hoàn thành một phần của ma pháp trận”.

    Binh đoàn trưởng chưa trở lại vị trí cũ chỉ huy, biểu hiện thoạt trông hơi nghi ngờ. Tôi nói với ông ta: “Chúng tôi không phải đội xây dựng ban đầu, trong thời gian ngắn không phân tích được cách tu bổ lồng phòng ngự. Nhưng hiện tại chúng tôi có một món quà cho các ông——vất vả rồi”.

    Tôi cùng Ode thảo luận về trận pháp phòng ngự hai đứa từng nghiên cứu năm đó. Bởi vì diện tích lớn quá mức phức tạp, tính thực tiễn kém mà nó tạm thời bị bỏ xó, lại dựa vào một lối suy nghĩ mới “hiệp lực cấu trận” được chúng tôi nhặt lên lần nữa, vào năm năm rốt cuộc phát biểu thành công luận văn liên quan, nhận được chút thừa nhận.

    Ode vẽ mô hình pháp trận phòng ngự ngay tại chỗ, có người tìm được cho bọn tôi một bản đồ chi tiết của thành Boehmeria. Tính toán số lượng đồ văn lúc đầu do Ode làm trước, để tôi thử lại phép tính lần hai.

    Trận pháp dần dần được chia nhỏ để có thể tạo điều kiện cho mười hai người hợp tác, những học sinh kia ở một bên nhìn chằm chằm không chớp mắt, cuối cùng chỉ còn lại công tác tính toán địa điểm hạ trận. Ode giành giật từng giây tính tọa độ ba chiều, điểm ban đầu của tọa độ đặt ở chỗ chúng tôi đứng, do tôi dựa vào hiểu biết về bản vẽ để đối chiếu địa điểm cụ thể.

    “(25, 474, 12)”

    “Đến đỉnh gác chuông”

    “(-218, 290, 1)”

    “Bậc thang…một của phòng triển lãm lịch sử Yizi?”

    “(55, 1044, 4)”

    “Đỉnh đài phun nước Joel”

    “(1020, 244, 0)”

    “Cổng chợ Feite”

    Thỉnh thoảng tôi có hỏi mấy người sinh sống ở đây nhiều năm, để bảo đảm địa điểm tôi dịch ra không có sai sót. Sau khi một bút cuối cùng hạ xuống, từng mảng từng mảng hình vẽ trận pháp được giao vào tay học sinh phụ trách chúng. Mười hai con chim giấy đập cánh cùng lúc, bay tới mười hai hướng.

    Pháp trận phòng ngự được dựng xong trước khi trời tối. Tuy rằng vẫn còn hơi non nớt thiếu sót, không đạt tới hiệu quả như lý tưởng, nhưng đủ để gia cố lồng phòng ngự, cho phép chống đỡ đợt tấn công đến sáng ngày mai. Quân đồn trú thủ thành thắp đèn, nhưng cố tạo ra thanh thế ngoan cố chống địch, thực tế hơn nửa đều nghỉ ngơi lấy sức. Đêm đó chúng tôi chỉ nghênh đón tổng cộng một đợt tiến công, kẻ công thành cũng dần dần lộ vẻ mệt mỏi.

    Chúng tôi luân phiên chờ đợi thời khắc kia tới: năm giờ rạng sáng, ánh mặt trời đầu tiên.

    Lúc bốn giờ bốn mươi, tôi xuống dưới lầu cổng thành, phía sau tôi là 206 binh lính thần hoàn khí túc (1). Binh đoàn trưởng cũng có mặt, ông ta đang thực hiện bài phát biểu cuối cùng với nhóm binh sĩ này của mình.

    “Mỗi người các cậu đều không sợ chết, mỗi người đều là binh sĩ đủ tư cách! Nhưng mà đừng nghĩ là mình đi chịu chết, nắm chặt tư tưởng tất thắng kia của các cậu. Sau lưng chính là quê hương các cậu sinh sống nhiều năm, không tới lượt kẻ khác giày xéo! Và tên nhóc đằng trước kia, cậu ta sẽ không chết trước các cậu…”

    “Cậu không lên nói vài câu à?” Ode ở cạnh tôi nói.

    “Tớ không quan tâm những việc đó”. Tôi nói, nắm chặt Caron trên tay, “Tớ chỉ phụ trách giết”.

    “Có người nói tâm lý trước đại chiến này có thể tiêu cực có thể tích cực”. Ode nói, “Cá nhân tớ kiến nghị là đừng mang theo qua nhiều cảm xúc”.

    “Khó lắm,” tôi nói, “Sau sáng ngày hôm ấy. Có điều đầu óc tớ cực kỳ tỉnh táo”.

    Cậu ấy thở dài.

    “Đáng tiếc chim giấy không có năng lực phòng ngự,” tôi nói, “Nếu không tớ mà lao xuống, bọn chúng chắc chắn sẽ hoảng hốt——giống như Vũ trấn khi ấy”.

    “Lúc đó rõ ràng họ vẫn tiếp tục đánh cậu”. Ode phản bác.

    “Đúng thế,” tôi nói, “Hy vọng chúng ta có thể giành được chiến thắng như lần đó”.

    Bàn tay Ode đặt trên vai tôi, sau đó vỗ mạnh một cái.

    “Đi thôi,” cậu ấy nhìn ra xa nói, “Tớ cũng phải trở về cổng lầu đây. Nếu cậu xảy ra sơ suất gì, hãy nhớ là có tớ ở phía sau cậu——tớ sẽ sửa giúp cậu”.

    Tôi cảm thấy lời này của cậu ấy cực kỳ quen tai, không khỏi nở nụ cười.

    “Cậu nhất định không chờ được đâu”. Tôi đi về phía một hàng kỵ binh ở cửa thành, quay đầu nói với cậu ấy như năm đó, “Tớ sẽ không phạm sai lầm”.

    Đoàn người chúng tôi xoay người lên ngựa, im lặng chờ đợi trong bóng tối, những con ngựa thở nhẹ nhàng. Một cuộc bạo loạn xảy ra ngoài thành ngay sau đó: tiếng lửa bốc cháy xì xèo, tiếng người la hét hòa làm một thể với ánh đỏ phản chiếu phía chân trời. Tôi có thể tưởng tượng được điều gì đang diễn ra ——từng bó củi được ném từ tường thành xuống, nhiên liệu trong suốt được giội vào những chiếc chiến xa, mấy chục quả cầu lửa thoát khỏi tay những Ma pháp sĩ trẻ tuổi, chính giữa phương trận công thành đang trải qua một cuộc hỗn loạn trước nay chưa từng có, thiêu đốt thành một nhúm.

    Cửa thành phía nam vào giờ phút này đang được kéo lên chầm chậm. Tôi huýt sáo một cái, hai chân kẹp vào bụng ngựa, xông ra ngoài đầu tiên.

    Tiếng vó ngựa liên tục vang lên phía sau tôi, trở ngại trên con đường phía trước của chúng tôi đã bị Ma pháp sĩ trên thành lầu phá hủy trong giây lát. Ma pháp sĩ của quân xâm lược cánh sườn vẫn đang vùng vẫy hướng vào trong ánh lửa, nhưng sự công kích của chúng tạm thời không thể nào cản được mũi tiến của chúng tôi. Từng chùm từng chùm sáng trắng đánh vào phía trước tôi, là tín hiệu mà tôi và Ode đã quy định, chỉ dẫn phương hướng của tôi. Nếu như có quân địch may mắn không bị ảnh hưởng bởi ngọn lửa trước đó, vung lưỡi đao chặn trước ngựa của tôi, tôi sẽ dùng Caron của mình chém hai đao cực nhanh.

    Binh lính phía sau tôi cũng đang chém giết. Đây là một lần tấn công không cần quá nhiều trù tính chi tiết——tất cả mọi người đều tự bảo vệ mình, cố gắng giết nhiều kẻ địch hơn.

    Động tác chém ngang, đâm xuyên này dường như đã trở thành một thói quen. Tôi cưỡi ngựa đón nhận từng sát ý sắc bén, lại quen thuộc phản kích, mang theo nhiệt độ của máu và thù hận, tràn đầy phẫn nộ dữ dội. Có thể trì hoãn bước chân tôi chỉ có ngọn lửa, nhưng cũng không lâu. Tôi há to miệng hít thở ở nơi thế lửa suy yếu. Có kẻ toàn thân là lửa vẫn cứ chán sống nhào tới chỗ tôi, hòng kéo tôi xuống ngựa——Tôi thậm chí không cần hạ đao quá nặng, đã có thể dùng móng ngựa bước qua di thể cháy đen của gã. Phía sau lưng cũng có người tụ tới đánh lén, những chiến hữu tôi chưa từng biết rõ kia san sẻ một phần thay tôi.

    Tôi không quay đầu lại, nhưng tôi biết đội hình kỵ binh phía sau mình vẫn còn ở đó. Ngựa của tôi phóng qua chiến xa hỏng hóc, xác chết vô tận, đạp qua dòng máu bị lửa thiêu cạn khô, hí lên một tiếng.

    Ánh sáng trắng trên thành lầu đã trở nên thưa thớt, chỉ dẫn lúc liền lúc đứt, nhưng trong tầm mắt của tôi đã xuất hiện tên quan chỉ huy kia. Tôi ghìm dây cương, nắm chặt trường đao, toàn thân gần như sắp rời khỏi lưng ngựa. Những Ma pháp sĩ cứu viện kia chậm chạp chạy tới, có vài tiếng rít gào nhỏ phá không hướng về phía tôi. Tôi bổ nứt hai chùm sáng ma pháp, chùm thứ ba xẹt qua phía sau lưng tôi, vạch ra một miệng máu xiên ngang.

    Tôi vẫn đang chạy vọt về phía trước tập kích, càng lúc càng gần quan chỉ huy kia hơn.

    Tôi từng nói với những binh lính chưa quen thuộc với ma pháp kia, nếu như gặp phải nơi có Ma pháp sĩ đông đúc, thì tạm tránh mũi nhọn, thay vào đó đối kháng với lính thường, hoặc là nghĩ cách đi vòng, lẳng lẽ tiếp cận Ma pháp sĩ. Thế nên chỗ này hiện giờ đại khái chỉ còn lại mình tôi còn đang tấn công, nhờ họ tiếp ứng. Ngay đó không xa——gương mặt tên quan chỉ huy đã xuất hiện——phòng hộ trên chiến xa của gã đã bị đòn tấn công trên thành phá hủy phần lớn. Gã không khởi động được chiến xa, từ bỏ chạy trốn, hai tay giấu bên dưới, đổ mồ hôi nhìn tôi chằm chằm.

    “Nếu gã là một Ma pháp sĩ,” tôi nghĩ, “Mình phải giết gã trước, hoặc là phải né một đòn gã chuẩn bị”.

    Nhưng mà cái mưu đồ phản kích đã lâu kia lại sớm hơn tôi tưởng. Tôi chỉ kịp nhảy xuống ngựa nhào về phía gã, ma pháp trong tay gã đã cùng lúc bắn tới ngực tôi. Tôi nhận ra đó là phù văn diễn sinh (2) của “bùa chú xuyên thể”, sẽ tự tìm kiếm trái tim của mục tiêu và làm nổ nó. Tôi quá gần nó, không kịp đọc bất cứ thần chú gì để phá hủy, lùi lại lăn xuống dưới một chiếc chiến xa.

    Tôi nằm sấp, ngay lập tức nhận ra hành động này không giải quyết được vấn đề gì——ma pháp đó vẫn cứ đuổi tới, phòng ngự của chiến xa không chống đỡ được bao nhiêu. Cũng có thể né tim, nhưng sẽ bị nổ mà trọng thương. Trên chiến trường này, trọng thương chẳng kém chết là bao.

    Tôi chỉ nghe được một tiếng nổ vang giữa không trung, nhưng không chờ được đợt tấn công của nó. Mấy giây đầu tôi còn tưởng đây là mánh khóe của tên quan chỉ huy kia, sau mới nhớ ra khi phù văn này rời tay sẽ không chịu sự khống chế của người khởi xướng nữa, thế là nhảy ra.

    Trước mắt tôi chỉ có bóng dáng của những kẻ vây công kia, chùm sáng ma pháp đến từ lầu cổng thành lại xuất hiện lần nữa, bởi vì quá xa nên không thể hiện được tác dụng gì, chỉ ở bên cạnh tôi chăm chỉ không ngừng quấy nhiễu chúng.

    Luồng ma pháp kia bị nổ, giờ không thấy nữa.

    Tôi vung đao đẩy hai kẻ công kích ra, chém rớt một kẻ cố gắng leo lên ngựa của mình. Con ngựa kia hình như cũng có linh tính, khi tôi sửa sang lông bờm phía sau của nó thì không đá móng trước nữa, mang tôi đuổi theo tên sĩ quan chỉ huy chạy trốn. Tôi chỉ dùng thời gian ngắn đã đuổi kịp gã. Gã xoay gáy về phía tôi, dưới chân vẫn chạy, giống như muốn giơ tay lên, rồi lại không thể đọc được bất kỳ thần chú gì. Tôi dùng một đao gọn gàng chém đầu gã, một tay túm tóc.

    Những chiếc huân chương leng keng gã mang theo trên người ụp xuống đất, máu tươi chảy xuống từ phần cắt. Tôi giơ đầu gã lên cao.

    “Sĩ quan chỉ huy của các ngươi đã chết!” Tôi ở trên ngựa hô, “Các ngươi cũng muốn giống gã sao?”

    Tôi dùng sức ném cái đầu kia vào trong đám người, dẫn đến một trận hỗn loạn. Những kẻ vây công không hẹn mà ngừng động tác, từng tên đều đang xem chừng tôi, không ai nguyện làm kẻ đầu tiên động thủ. Tôi dứt khoát chọn một hướng xông thẳng, đao trong tay một lần nữa vung lên xuống.

    Theo ước định, lúc này thủ quân coi giữ còn lại hẳn phải được binh đoàn trưởng dẫn dắt huy động toàn bộ lực lượng, càn quét chiến trường đã rối loạn trật tự này, cuối cùng hội hợp giúp đỡ nhóm xung phong chúng tôi. Tiếng la xuất hiện từ phía thành Boehmeria, tầm mắt tôi dần dần nhìn thấy bóng dáng chiến sĩ của mình chiến đấu. Có lẽ là bởi ban nãy hoàn thành mục tiêu, tôi xung phong liều chết càng không có trình tự. Tôi dựa vào thế xông lên của ngựa để né tránh, cũng bởi vậy mất đi chút linh hoạt, càng thêm nhiều vết thương.

    Nhưng trong lòng tôi chỉ có một suy nghĩ: tôi muốn cho chúng cũng nếm thử máu của chính chúng. Chỉ cần vết thương không nguy hiểm đến tính mạng, tôi vẫn có thể chiến đấu tiếp.

    Đám lửa dưới tình huống tiêu hao hết nhiên liệu đã tắt hơn nửa, nhưng tôi lại có cảm giác toàn thân đang thiêu đốt. Tôi thật sự nóng lên, nhiệt độ ấy lan ra từ tim tôi, ngay cả mệt mỏi và đau đớn cũng trở nên nhỏ bé không đáng kể. Kẻ địch trước mặt tôi từng tên ngã xuống, sau đó càng lúc càng ít, thậm chí còn chủ động chạy trốn. Chúng dùng ánh mắt sợ hãi như thấy ác quỷ nhìn tôi, giống như đang cầu xin rút chân thoát khỏi địa ngục đẫm máu.

    “Địa ngục trong mắt các ngươi,” tôi nghĩ thầm, “Có giống địa ngục ở thành bắc không?”

    Lúc tư duy của tôi hơi thoát cương, tôi đúng lúc kìm nó lại. Tôi nhận ra rằng, cảm giác nóng rực kia là điềm báo “khớp” trong người tôi muốn bùng phát——nhưng tôi quyết không thể để nó xảy ra vào lúc này. Ma lực nó phóng thích không phân địch ta, huống chi cho dù tôi có thể may mắn tránh được lần bạo phát thứ ba này, chắc tôi cũng chẳng thể động đậy.

    Tôi áp chế những tên địch chạy trốn, cũng cật lực áp chế cái “khớp” trong người mình, lần đầu tiên không thuận theo ý nó. Triều dương màu máu rút đi, những tàn binh quăng vũ khí, phát tín hiệu đầu hàng. Những kỵ binh vốn ở bên cạnh tôi lại trở về một chỗ. Tôi muốn nhìn lên thành, lại liếc thấy bụi mù cuồn cuộn tới từ phía xa. Chuyện kế tiếp cũng mơ mơ hồ hồ: một đội binh mã có vẻ là viện quân đến muộn của chúng tôi. Bọn họ giúp chúng tôi áp giải tù binh, tôi chống đỡ cơ thể trở về thành, sau đó ngã xuống trong ánh mắt sầu lo của Ode.

    Tướng lĩnh của đội viện binh kia để râu mép ngắn, giọng sang sảng, cũng đi lên trên thành lầu. Hình như ông ta chia ra trò chuyện gì đó với binh đoàn trưởng và Ode, sau đó đi tới bên cạnh tôi.

    “Cậu tên là gì?” Ông ta hỏi.

    Tôi vẫn còn chút tỉnh táo, cho rằng Hội ma pháp vẫn mang khúc mắc trong lòng với mình, thế nên tôi không nói ra họ tên trước mặt vị quan lớn này.

    “Shaw Carl”. Tôi đáp.

    “Tốt lắm,” vị tướng lĩnh đó nói, “Ta còn thiếu một trợ thủ, cậu có đồng ý lấp vào chỗ trống này không?”

    “Đồng ý,” tôi nói, “Nhưng tôi không tốt nghiệp học viện quân sự”.

    “Thời chiến không có nhiều giáo điều cứng nhắc như vậy,” ông ta nói, “Ta sẽ gửi thư tay cho cậu, cậu có thể nghỉ ngơi tĩnh dưỡng ba ngày trước, sau đó gửi thư tới phía đông thành Erdi——chúng ta đang đi qua đó. Ta là sĩ quan chỉ huy Putte Peterson của Quân đoàn thứ chín Quân tiên phong”.

    Lúc tôi mở mắt ra lần nữa thì đã qua giữa trưa. Tôi và Ode qua đêm trên thành lầu, những học sinh khác hình như đã bị đuổi về Hoftas, cái người ghi chép kia đi tìm phân bộ Hội ma pháp trước. Trong thành Boehmeria mặc dù không bị chiến hỏa tập kích, nhưng muốn khôi phục sự phồn vinh trước đây chắc còn phải mất vài ngày nữa. Binh đoàn trưởng cảm ơn chúng tôi, lại tìm cho chúng tôi một quán trọ để nghỉ chân. Tôi nhân cơ hội này thẳng thắn với Ode tất cả những gì mình đã trải qua trong vòng một năm này, bao gồm cả hồn đao, nhà tù Phổ quốc, sự giam lỏng của Hội ma pháp, chỉ tránh nội dung chuỗi mật mã, cũng đề cập với cậu ấy quan hệ của tôi và Carayon đã được xác lập. Trông cậu ấy không có vẻ ngạc nhiên vì việc sau, mà là lo cho tôi vì thân phận của Carayon.

    “Cậu đã hạ quyết tâm muốn tòng quân rồi à?” Cậu ấy hỏi tôi.

    “Dù ban đầu không phải, thì bây giờ cũng phải”. Tôi nói, “Có điều cái ông Peterson đấy có thấy mặt tớ không?”

    “Toàn là máu với bụi,” Ode nói, “Ngay cả màu da cũng không thấy rõ——những học sinh kia ít nhất có hơn một nửa đều biết cậu, nhưng khi đó không có ai kêu tên thật của cậu ra”.

    “Vậy thì tốt”. Tôi thở phào nhẹ nhõm, “Chí ít về sau tớ có thể nghĩ cách ngụy trang mặt”.

    Theo lời Ode, cậu ấy đã giúp tôi thu dọn ít đồ đạc cuối cùng ở ký túc xá. Turandot vẫn ở Hoftas, cậu ấy cũng không biết tình hình của Coleman, mà Francisco thì đã thôi học về nhà. Tôi nhờ Ode gửi thư cho ông Smith thay mình, chỉ bảo cậu ấy giấu dưới cái tên giả Shaw Carl.

    Sau đấy tôi phải đuổi tới thành Erdi, Ode phải về thị trấn Hoftas. Chúng tôi khó được tụ tập ăn một bữa cơm, đi từ đầu con phố vừa mới khai trương tới đầu kia, mới tách ra, ngồi lên hai chiếc xe ngựa.

    Thư của sĩ quan và thư của Ryan đều được tôi để sát người ——cái sau không hề bị hư hại lúc tôi ở trên chiến trường. Phong thư trước đó tôi chưa mở, giờ nó vẫn lẳng lặng nằm trên tay tôi.

    “Hình như thành Erdi là quê hương giáo sư Ryan từng nhắc tới”. Tôi nhìn bên ngoài cửa xe ngựa nghĩ thầm, “Quân đoàn thứ chín đã hứa chuyển di thể giáo sư Ryan về, cuối cùng thì thầy ấy cũng có thể hồn về cố hương…”

    Tôi mở lá thư đó. Lúc lấy lại tinh thần, bức thư kia bất tri bất giác đã nằm trong lòng bàn tay tôi rất lâu.

    Tôi nghĩ mình nên đọc nó, đây là chuyện sớm hay muộn, thế là tôi mở nó ra. Như Ode đã nói, nó không dài, tự thuật ôn hòa, cách diễn đạt tuân theo lễ nghĩa. Giọng nói của giáo sư ma pháp ngày xưa như thể nổi lên trên trang giấy, vang bên tai tôi:

    “Gửi Vicente:

    Đã từng là thầy giáo của em, tôi muốn truyền đạt sự áy náy của mình ở đây: tôi tận mắt thấy em bị nhốt trong nhà tù kia mấy chục ngày, cùng với nhiệm vụ dò xét nội tâm em trong lúc bất đắc dĩ.

    Lấy thân phận một thành viên của Hội ma pháp, bản thân tôi không thể có tư tưởng thiên vị. Thế nhưng là một người bình thường biết chân tướng có giới hạn, từ đầu tới cuối tôi luôn tin tưởng em không nghi ngờ, bởi thế cho rằng em phải chịu sự đối xử bất công. Mãi cho nên khoảnh khắc tôi đặt bút hôm nay, tôi vẫn muốn lặp lại lời hứa của mình với em:

    Công chính thuộc về em rồi sẽ tới.

    Có lẽ tôi không nên nhìn từ trên cao xuống mà đảm bảo như vậy, nhưng tôi cũng không mong thấy hy vọng em gửi gắm vào nó bị dập tắt. Trước đây tôi chỉ là một kẻ bàng quan ôm ấp chờ mong, sau đó mới tỉnh ngộ mình không nên giới hạn trong việc khái quát hóa. May mà tất cả vẫn chưa muộn. Có lẽ việc trái với quy tắc tự nó đã đại biểu cho hành vi sai trái, bất luận đối với một người từng là giáo sư hay là thành viên Hội ma pháp, nhưng tôi không hề hối hận vì bất kỳ những gì mình đã làm.

    Tôi đã từng mở một cánh cửa sổ, hy vọng vẫn có thể mở cho em một cánh khác. Đồ của em phải vật quy nguyên chủ, em sẽ đoán được nó đang chờ em ở đâu.

    Mong con đường phía trước mãi mãi không có đau thương.

    Theodore Ryan

    Ngày 5 tháng 1 năm 858

    Tái bút: Em có muốn tới bến cảng Acapulous chèo thuyền cùng tôi không?

    …”

    Tôi bảo phu xe chở thêm một đoạn, đi tới thành phố cảng Erdi. Tôi tìm được ông lão đóng tàu Ryan từng nhắc đến trong căn nhà nhỏ ở bến cảng đó. Tóc ông ấy bạc phơ, song trông tinh thần vẫn khỏe khoắn. Ông hỏi tôi có muốn thuê thuyền không, tôi lắc đầu, nhắc đến Ryan với ông ấy.

    “Có ai tên Theodore Ryan từng gửi một thứ ở đây không ạ?” Tôi hỏi.

    “A,” người đóng thuyền kia cảm thán một tiếng, “Là cậu thầy giáo đó. Năm ấy tôi tận mắt nhìn cậu ấy lớn lên——đúng, có chuyện như thế. Cậu ấy nói nếu có người tầm tuổi cậu tới hỏi tôi, thì tôi hãy đưa vật kia cho người đó. Cậu chờ tôi một lát”.

    Ông ấy tìm kiếm một lúc trong phòng, đưa cho tôi một cái túi vải.

    Túi vải chỉ có một nắm, đồ bên trong rất nhẹ. Tôi nhẹ nhàng mở bốn góc của nó ra nhìn, chiếc nhẫn từng bị lấy đi của tôi nằm ở đó. Không biết là được giáo sư Ryan lấy ra khỏi Hội ma pháp như thế nào, cũng không khiến tôi tốn công tìm nữa.

    Bên bờ hải cảng thủy triều cuồn cuộn, cuốn qua một cơn gió mặn đắng. Tôi nắm chiếc nhẫn bị mất mà có lại được thoáng nhìn ra phía biển, bất giác nhớ tới câu chuyện phía sau lời nhắc nhở trong thư kia, cùng với đôi mắt lam đậm ảm đạm đi của Ryan. Người đóng thuyền kia dường như chú ý tới dáng vẻ của tôi, hỏi:

    “Sao thế chàng trai? Đồ tôi giữ bị làm sao à?”

    “Không ạ”. Tôi nói, “Nó rất hoàn hào——chỉ là cháu nhớ tới một câu chuyện mà thôi”.

    Tôi kể cho người đóng thuyền nghe, ông ấy lại có vẻ mờ mịt.

    Tôi đành phải kể cho ông ấy nghe từ đầu về: người con gái say đắm chàng thủy thủ hoạt bát, tình yêu không thể mở lời của nàng, sự ngóng trông mãi không có kết quả. Tôi kể với ông ấy về tảng đá nàng hóa thành nơi đây, ông nghe xong lại lắc đầu liên tục.

    “Đây không phải câu chuyện lưu truyền của thành Erdi ạ?” Tôi nói, “Có người kể cho cháu về nó——”

    “Tôi nghĩ chắc cậu nhầm rồi”. Người đóng thuyền kia bảo, “Tôi sống ở đây tám mươi hai năm, chưa từng nghe câu chuyện này bao giờ”.

    Chương 65

    Sau đó tôi thuận lợi gia nhập Quân đoàn thứ chín, trở thành trợ thủ của quan chỉ huy Putte Peterson. Ông ta nhận định tôi trung thành với Gerundnan, cũng chẳng quan tâm tôi không thể lấy ra thẻ căn cước, cho tôi lấy cái tên “Ma pháp sĩ dùng đao” Shaw Carl ở lại.

    Không biết trước đó ông ta có từng nói gì với thuộc hạ của mình hay không, những binh lính từng thấy chiến dịch ở thành Boehmeria vẫn chưa có phê bình kín đáo gì với sắp xếp này. Vài âm thanh bất mãn linh tinh, qua vài chiến dịch song hành cùng nhau, đều biến mất không còn một mống.

    Quân đoàn thứ chín cũng không phải một đơn vị nổi danh trong hai mươi lăm quân đoàn của Quân tiên phong. Nó do 2300 người tạo thành, trong đó bao gồm năm trăm Đao giả, hai mươi tiểu đội chữa trị, mấy cố vấn Ma pháp sĩ cùng với những bộ binh, kỵ binh bình thường xuất sắc khác. Trưởng quan Putte Peterson của nó cũng chính là một trong những người thường này, nhưng trong lúc hành quân tôi dần dần nhận ra, ông ấy quả là ứng cử viên số một cho vị trí quan chỉ huy. Tính tình ông thẳng thắn nhưng không nóng nảy, vũ lược, mưu lược cùng kinh nghiệm của ông, khiến cho ông dễ dàng chỉ huy sai khiến Quân đoàn thứ chín.

    Liên minh Phổ Quốc – Yinsha – Atlanta cũng đã lộ nanh vuốt kể từ trận chiến ở thành Boehmeria. Từ đấy chiến trường ở Gerundnan chia làm hai tuyến bắc nam. Trọng tâm chiến trường được Phổ Quốc gửi ở tuyến bắc, khai triển mãnh liệt phá vỡ trận chiến. Tuyến nam hơi yếu nhưng nhân số vẫn đông đảo, đánh đến khéo léo làm hao mòn cuộc chiến. Tuyến bắc mới đầu từng bị đánh cho không ứng phó kịp, suýt nữa mất tám thành mười hai trấn——may mà một phương Gerundnan ra đối sách rất nhanh, hai lão tướng mặc giáp trụ lên ngựa, cộng thêm một vài sĩ quan ưu tú mới lên cấp, quốc vương tự thân mời mấy vị Đại ma đạo sư và Đao Phong, thật sự chống lại được quân đội Phổ Quốc thế như chẻ tre. Từ đấy dần dần có thể cứu vãn được chiều hướng suy tàn của Gerundnan, khai triển trận phản kích phòng thủ cẩn thận.

    Peterson dẫn Quân đoàn thứ chín luôn lang thang ở tuyến nam, nội dung nhận mệnh chính là cứu hỏa các cuộc đại chiến. Quân đoàn thứ chín dùng sở trường cơ động, thi thoảng đụng mấy cuộc chiến chính diện, thì sẽ áp dụng các loại sách lược lấy ít địch nhiều, thường có thể lấy một cái giá cực nhỏ giành được chiến thắng.

    Cho nên tôi đánh giá Quân đoàn thứ chín “không nổi danh lắm”, là bởi trước đây tôi rất ít thấy chiến công lớn lao của nó được đăng báo. Song sau khi tôi thực sự trở thành một thành viên trong đó, tôi mới nhận ra rằng, nguyên do bên trong cũng không phải binh lính hoặc tướng lĩnh của nó không đủ xuất sắc. Chiến thuật của Peterson luôn cẩn trọng, cũng chưa bao giờ nói toạc chiến công ra, giống như mỗi một trận chiến đều trùng hợp kiềm chế trong phạm vi “thắng nhỏ”. Tôi không đoán được lý do ông ta làm thế, nhưng tiếp đó nhìn kỹ, ông chưa từng bại trận lấy một lần, thực sự khiến người ta kinh hãi.

    Tôi thường xuyên nghĩ, lấy tài năng của người đàn ông trung niên này, dẫn dắt Quân đoàn thứ chín làm công tác quét đuôi thực sự lãng phí. Ông ấy lúc nào cũng có dáng vẻ định liệu kỹ lưỡng trước tương lai, chưa bao giờ tỏ ra lo lắng về đãi ngộ của mình, trái lại có vẻ còn có ý định bồi dưỡng tôi, thi thoảng thảo luận với tôi yếu lĩnh (1) của chiến lược. Năm rộng tháng dài, tôi học được rất nhiều điều từ quá trình này, đều là những thứ tôi không thể có được từ học viện và sách vở.

    Thậm chí có lần ông ấy còn hỏi tôi có nhắm vào chức vụ quan chỉ huy không ——đối với một tên lính không hề có căn cơ mà nói đó quả thực là vọng tưởng một bước lên trời.

    Tôi nói với ông ta: “Tôi chỉ muốn tiếp tục làm một tay xung kích, thưa trưởng quan”.

    Chắc là ông ấy nghĩ tôi có thiên phú ở phương diện này, không từ bỏ khuyên bảo tôi.

    “Xung kích và chức vụ quan chỉ huy không mâu thuẫn, Carl”. Ông ấy nói, “Tôi cũng không phải cái loại quan chỉ huy quen đi ở tuyến đầu, nhưng điều đó hoàn toàn không có nghĩa là những người khác không thể”.

    Lời này của ông ấy như đang ám chỉ gì đó. Mãi đến tận tháng bốn năm sau, tôi mới mò ra nội dung thật sự của những lời bóng gió này.

    Ngày 19 tháng 3 năm 859, Quân đoàn thứ mười lăm cộng lại hơn mười nghìn người vốn không có tiếng tăm gì của Quân tiên phong, triển khai cuộc phản công dũng mãnh với quân Phổ Quốc xâm lược, lấy thái độ hăng hái trước nay chưa từng có đánh cho phe địch trở tay không kịp. Ngày 23 tháng 3 chiếm lại thành Iron, ngày 25 tháng 3 chiếm lại thị trấn Blue, ngày 28 tháng 3 chiếm lại thành Shisong. Quân đoàn thứ mười lăm đã giành lại một trong những cứ điểm chiến lược, hội hợp với Quân đoàn thứ ba ở thành Law, tạm thời nghỉ ngơi.

    Trận chiến này khiến cho sĩ khí Gerundnan đại chấn, được gọi là “Đại phản công Iron – Shisong”.

    Trước đây dân chúng trong nước vẫn luôn nóng nảy. Mọi người không biết làm thế nào với một tin tức truyền vào Gerundnan: “Phổ Quốc đã nắm giữ phương pháp khiến người thường có được ma lực”, giữ thái độ nghi ngờ. Đại đa số lo lắng cho quân đội Gerundnan, số ít trong lòng hơi lung lay, bắt đầu tìm hiểu nguồn gốc tin tức. Hiệp hội nhân quyền bắt đầu biểu tình trong chiến tranh hỗn loạn, khẩu hiệu “Đấu tranh vì quyền bình đằng cho người thường”, “Giành lấy quyền lợi cho người thường” xuất hiện trên các tờ báo lớn bé cả nước. Quốc vương Turling Kim lên ngôi hai năm có lẻ lại trở thành một kẻ nắm quyền vô hình nào đó, dưới sự xúi giục của một bộ phận Hội ma pháp ngoài tầm kiểm soát, vương quyền như đang tách khỏi hướng đi của đất nước này.

    Nhưng mà vào ngày mùng 1 tháng 4 năm 859, quốc vương Turling Kim trước nay không bộc lộ tài năng đã thay đổi, lần đầu tiên tỏ thái độ cứng rắn, sử dụng quyền tham nghị đặc biệt thuộc về quân chủ. Dưới sự thúc đẩy cực lực của y, ba hạng mục dự luật mới có《Dự luật bình đẳng mới》thuận lợi được thông qua và lập pháp thành công. Y mạo hiểm, suốt đêm lặng lẽ đi tới thành Stoke tập trung dân số dưới sự hộ tống của đoàn hộ vệ, diễn thuyết trước mặt tất cả mọi người vào ngày mùng 2 tháng 4.

    “Từ nay về sau, xóa bỏ ý kiến ‘Một chiến sĩ bình thường không sánh được với một Ma pháp sĩ tầm thường’ khỏi đất nước này”. Trước đám người bao vây đến mức gió thổi cũng không lọt, Turling đứng trên đài cao nói, “Ta là một Ma pháp sĩ, hoặc là nói, là một quốc vương thân là Ma pháp sĩ, nhưng ta chưa bao cho rằng mình sinh ra đã vượt trội hơn người khác một bậc. Trước đây ta nghe người ta nói Đao giả tàn bạo, bởi đao của họ ngoại trừ đốn củi cũng chỉ có giết chóc. Trước đây ta nghe người ta bảo Ma pháp sĩ chỉ sống vì lợi ích của đoàn thể tinh anh, bởi vì người bình thường không thể nào thật sự tiếp cận được nghiên cứu thâm sâu về ma pháp của họ. Trước đây ta nghe người ta nói người bình thường là lao động phổ thông tầng dưới chót, bởi vì bọn họ không có gì, tay chân gầy yếu, khoảng cách bọn họ không vượt qua nổi, những người có ma lực kia nhấc chân cái là có thể vượt qua dễ dàng”.

    “Nhưng sự thật có phải như trên không? Đao giả của chúng ta, bọn họ đang dùng đao để giết chóc, bảo vệ lãnh thổ dưới chân chúng ta. Ma pháp sĩ của chúng ta, thành quả nghiên cứu của họ đang âm thầm lan rộng trong hàng ngàn hộ gia đình. Những người thường của chúng ta——trong số họ dần xuất hiện vô số tinh túy của thời đại, bọn họ là chiến sĩ xuất sắc, bác sĩ, nhà nghiên cứu khoa học, học giả, mỗi một lĩnh vực chắc chắn đều có vị trí của họ. Thực tế, người ở địa vị cao có nhiều quyền lực hơn, giống như một nhóm người ngay từ khi sinh ra đã có thiên phú vậy, nhưng điều này cũng không hề đại biểu cho một bộ phận này muốn cướp đi một bộ phận khác, một bộ phận này muốn lột bỏ một bộ phận khác. Một người có cao quý hay không quyết định ở phẩm chất ăn sâu vào linh hồn, khả năng giác ngộ bẩm sinh rồi sau này được nuôi dưỡng, quyết định bởi sự tự nhận thức, tự giác ngộ và phấn đấu của người đó”

    “Ta biết có nghề nghiệp yêu cầu ma lực, nhiều cái lại không. Ta cũng biết đại đa số đơn vị dưới tình huống điều kiện ngang nhau sẽ ưu tiên tuyển chọn người có ma lực hơn, dù ma lực ở chức vị này có thể có hoặc không. Quy tắc này chưa bao giờ được quy định rõ ràng, khi các ngươi nghiên cứu tỉ mỉ từng điều luật của Gerundnan, các ngươi chắc chắn sẽ không tìm thấy dấu vết của nó. Nhưng mà nó đã trở thành một nhận thức chung được ngầm thừa nhận trong một thời gian dài, trở thành cái bóng cùng tồn tại dưới những con chữ nhỏ bé kia, trở thành một loại thước đo đánh giá xiêu vẹo”

    “Vì lẽ đó《Dự luật bình đẳng mới》 của ta đảm bảo: miễn là nghề nghiệp không cần ma lực, nhất định phải lấy trình độ năng lực của thí sinh làm tiêu chuẩn tuyển chọn duy nhất. Việc điều trị của bệnh viện ma pháp không hiệu quả bằng bệnh viện phổ thông, bệnh viện phổ thông sẽ được chú trọng lần nữa. Lý luận ma pháp của một người bình thường còn tốt hơn một Ma pháp sĩ, người đó sẽ được chức vị tương ứng trước”

    “Sau đấy ta sẽ quét sạch hiện tượng hủ bại trong Hội ma pháp. Ta đại diện vương thất hứa, nó sẽ phải chịu trách nhiệm——tướng lĩnh mới của Quân đoàn thứ mười lăm trong cuộc đại phản công ‘Iron – Shisong’ chính là thân vương Coleman Kim”

    “Đây là một lời chào muộn, đến từ chính quốc vương của các ngươi, cũng đến từ Turling có may mắn dẫn dắt Gerundnan tới tương lai”

    Cũng trong lần phát biểu này, lần đầu tiên Turling chính thức thừa nhận tính xác thực lời đồn đại của Phổ Quốc, nhưng đồng thời đánh tan giả thuyết “hiệu quả hoàn hảo” của kỹ thuật biến đổi người thường này. Y chỉ ra nó đã được Phổ Quốc thí điểm số lượng nhỏ ở liên minh tuyến nam, nhưng “tỷ lệ tử vong cao, tính ổn định về sau kém, người bị cải tạo rất dễ bị sốc bởi ma lực không ổn định”——hiện tượng trên đã được quan sát đánh giá thiết thực trong lúc hành quân.

    Tôi không biết, trong tình huống không có “chuỗi mật mã”, Phổ Quốc làm sao mở được lối riêng làm ra phương pháp học tập cấp tốc nhưng có hại này. Cũng vô tình nghĩ, làm thế nào mà nó quảng bá được kỹ thuật này với các nước đồng minh, rồi được chấp thuận, thực hiện trên người binh sĩ nước họ. Có lẽ do nhân khẩu vùng Yinsha, Atlanta đều rất có hạn, đến nỗi nhu cầu của họ về binh lực hùng mạnh quá mức bức thiết. Làm tôi ngạc nhiên là, Turling dường như không có ý đồ che giấu sự tồn tại của kỹ thuật này. Ở điểm trên, lựa chọn của y có sự khác biệt với lão quốc vương Toskaya.

    Buổi diễn thuyết này giúp vương thất lặng lẽ gột rửa cái danh cũ, sự chờ mong của mọi người đối với vương thất cũng đang dần trở lại. Tôi để ý đến hai điểm thiết thực là: bệnh viện phổ thông thay thế bệnh viện ma pháp bắt đầu khởi công xây dựng, ngoại trừ Hội trưởng Hội ma pháp Heron, tên mười nhân vật quan trọng của Hội ma pháp dần dần bị thay thế.

    Về bộ máy khổng lồ này của Gerundnan, tôi từng cảm giác có một chỗ đã đi vào ngõ cụt, linh kiện liên kết ở bên trong lần lượt han gỉ. Nhưng bây giờ lại một lần nữa cảm thấy một nguồn sức mạnh khác, từ từ đưa nó hòa vào quỹ đạo.

    Putte Peterson được thuyên chuyển công tác sau bốn tháng cải tổ chính trị sấm rền gió cuốn của Turling. Cấp bậc của ông ta cũng thăng làm sĩ quan cấp hai, được điều đến chiến trường tuyến bắc thi triển bản lĩnh. Ông ấy tiến cử tôi làm người kế nhiệm với cấp trên, thế nên tôi cũng thăng hàm sĩ quan, tiếp nhận công tác chỉ huy Quân đoàn thứ chín.

    Tôi có thể nhìn ra, Peterson rất vui mừng với lần cải cách chính trị này, dường như cũng hiểu rõ ông ấy có tình báo trước. Lúc tôi thật sự nhậm chức vẫn còn rơi vào tình trạng mù mờ, nhưng lúc Peterson tạm biệt đã cho tôi khích lệ cực lớn.

    “Tôi biết cậu có thể dẫn dắt tốt đội quân này”. Ông ấy nói, “Thực tế tôi vẫn luôn tìm kiếm chọn một người như vậy——cậu rất thích hợp với nó. Giờ Hội ma pháp cuối cùng cũng có biến động, cậu không cần lúc nào cũng phải cẩn thận như tôi trước đây, có thể triển khai mưu tính tác chiến rồi”.

    Sau khi ông ấy rời đi tôi mới chính thức nhận ra ông ấy đã có ý định dấn dắt một bộ phận khác: lúc tôi và những binh sĩ kia đồng hành, gần như không cảm giác được sự biến động về vị trí của mình và sự vắng mặt của ông ấy. Tôi vẫn giống như trước kia, lúc tác chiến xông lên trước, phá tan lỗ thủng trong phương trận của kẻ địch, truyền đạt chỉ thị sớm——chỉ có điều sau này đều là tôi toàn quyền ra sách lược.

    Peterson nói đúng, phong cách của đội quân này thật sự hợp với tôi.

    Thuộc truyện: Đao phong dữ thi hành