Thất lạc phong ấn – Chương 21-30

    Thuộc truyện: Thất lạc phong ấn – Chương 21-30

    Chương 21: Thú nhận (hạ)

    Một hương vị khác của tình yêu.

    Niềm vui mất đi rồi lại có được đúng là khó lòng tả xiết.

    Anh chỉ có thể dùng cơ thể của mình để cảm nhận sự tồn tại của đối phương, cảm nhận sự gắn kết bền chắc tuyệt đối giữa hai người.

    Oregon bị giày vò chết đi sống lại, không thể không nhượng bộ, “Không phải anh muốn trò chuyện với tôi sao?” Giọng nói khản đặc đến chính y cũng không nhận ra là giọng mình.

    Môi Ansbach dán sát vào tai đối phương chẳng chịu rời đi dù chỉ một giây, “Ừm? Em nói tôi nghe.” Đầu lưỡi của anh liếm dọc theo vành tai Oregon, đến khi anh nhắm mắt lại, đường nét hoàn hảo của y cũng đã khắc sâu vào trí não của Ansbach.

    “Hóa thú là năng lực của Gangrel nhưng xưa nay chưa từng có ai bị gián đoạn trong lúc hóa thú.”

    Động tác của Ansbach ngừng lại.

    Cảm nhận được sự căng thẳng của anh, Oregon nghiêng đầu hôn lên mặt anh một phát, “Bị tách làm hai thân thể là chuyện ngoài ý muốn. Hiện tại tôi không thể cảm nhận được thân thể còn lại của mình, có lẽ khi giải được phong ấn, tôi mới trở lại hoàn chỉnh lại được.” Oregon nói.

    Nỗi đau cắm sâu trong tim khiến tay chân Ansbach tê dại, hai tấm thân mới nãy còn khít khao dán sát vào nhau bởi vì cử động của anh mà bắt đầu tách ra.

    Oregon trở tay ôm lấy anh, thấp giọng nói: “Tôi có rất nhiều cơ hội bỏ đi.”

    Ansbach không đáp. Y nói không sai, lúc ban đầu mình quản lý chặt chẽ, nhưng về sau mèo đen được hoàn toàn tự do ra vào biệt thự, chỉ cần mỗi tối về ăn đúng giờ là dược. Tất cả những tự do và tôn trọng chưa từng trao cho Oregon anh đều phó thác vào mèo đen, nào có ngờ được, trời xui đất khiến thế nào cũng chính là đã hoàn trả hết cho Oregon.

    Oregon vuốt gáy Ansbach, từ từ nói tiếp: “Nhưng tôi ở lại.” Ở lại với thân phận của người ngoài cuộc để nhìn anh hối hận áy náy, nhìn anh đau khổ vùng vẫy, nhìn anh từng chút một bù đắp những chuyện đã làm, để rồi không thể nào bỏ đi được nữa.

    Tứ chi Ansbach như lấy lại sức lực, anh ôm chặt Oregon vào lòng, chỉ là lần này anh cố gắng ôm sao cho y thật thoải mái.

    “Xin lỗi.” Cái đầu luôn ngước lên cao đầy kiêu ngạo cuối cùng cũng chịu cúi xuống.

    Oregon mỉm cười hôn lên trán anh, “Tha thứ cho anh.”

    Đôi tình nhân xóa bỏ khúc mắc xong xuôi cuối cùng cũng bước vào thời kỳ honeymoon trễ.

    Dù người yêu không thể tiếp tục giữ được hình người, biến trở lại thành mèo đen, Ansbach vẫn tuân thủ nghiêm ngặt thực đơn do Oregon đặt ra.

    “Tôm hùm ngũ vị hương… Cá dưa chua… Cá chưng…” Vị đầu bếp nào đó đầu óc quay cuồng, đặt thực đơn xuống rồi ngồi xổm bên cạnh đại tổng quản mèo đen, mặt bất đắc dĩ hết biết, “Ít nhất cho tôi biết đào đâu ra công thức chứ.”

    Sau khi tìm ra công thức, vị đầu bếp của chúng ta dựa vào kinh nghiệm ra vào nhà bếp bao năm để tiến hành thực thi hóa thực đơn.

    “Đừng có nhìn tôi bằng ánh mắt đó, tôi làm theo đúng công thức mà… Ừa thì, tôi có cho thêm tí bơ. Em không cảm thấy tôm sốt bơ ngon lắm à? Ngũ vị hương có sẵn năm vị, thêm bơ là lục vị hương chẳng phải càng ngon hơn à? Vận động viên Trung Quốc đều thích lấy tên Lục Hương mà.”

    “…”

    “Đây quả thật không phải dưa chua, nhưng chỗ này là Ai Cập chứ bộ! Tôi đi đâu tìm dưa chua Trung Quốc cho em? Dù sao đều là mấy thứ rau cải chua chua, cải ngâm giấm chắc mùi vị cũng na ná à? Tôi ngâm hai lần lận đó… Hay thôi em ăn thử cá chưng đi, tôi bảo đảm không có vấn đề.”

    “…”

    “Nhỡ mà có vấn đề thì chắc là tại mỡ bò với bột cà ri đó.”

    “…”

    Đêm đến, mèo đen sầu thương ngồi bên khung cửa sổ ngắm ánh trăng sáng vằng vặc.

    Trong bếp có bóng người chạy tới chạy lui, một lát sau, con dơi bay vèo ra ngoài đậu lên cửa sổ, ngồi sát rạt bên cạnh con mèo.

    Mèo đen liếc nó một cái, thò đuôi ra vỗ nhẹ vào lưng dơi như đang khen ngợi cho tính cần cù của nó.

    Dơi cũng giang cánh vỗ vào lưng mèo.

    Cuộc sống tạm thời không có sóng gió, yên bình trôi qua.

    Thi thoảng sẽ là huyết tộc và huyết tộc, thi thoảng là mèo và dơi.

    Phong cảnh ở Biển Đỏ đẹp vô cùng, có rất nhiều nơi đáng để để lại dấu chân.

    Anssbach mua máy ảnh chụp lại kỷ niệm của hai người. Trước đây quá tự phụ, cứ cho rằng mình hùng mạnh, có thể xây dựng căn phòng bí mật tường đồng vách sắt để hai người dù là giận hờn, vui vẻ, sung sướng, chán ghét đều có thể mãi mãi ở bên nhau. Vì vậy khi bị chia cắt, những thứ để kỷ niệm cũng chả có được bao nhiêu.

    Ở những địa điểm du lịch đông đúc, người ta thường nhìn thấy một chàng trai bảnh bao ôm ấp một chàng trai bảnh bao khác cười với ống kính, mèo đen đôi khi sẽ nhảy ra giành mất ống kính, đôi khi bị chàng trai ôm vào lòng tạo đủ kiểu dáng kỳ cục – Mắt mèo trừng to đầy vẻ kinh dị, mắt híp lại trông rất thỏa mãn, hoặc co cẳng tấn công thiệt oách xà lách…

    Gặp ma hả trời! Này mà gọi là mèo sao?

    Khách du lịch thi nhau lấy máy ra chụp lia lịa nhưng vừa chớp mắt một cái, cả người vào mèo đã mất tăm.

    Quả nhiên gặp ma.

    Vì áy náy và đền bù, phần lớn thời gian Ansbach đều nhường Oregon.
    Thế nhưng trên đời vẫn luôn có chuyện không thể nhường được.

    Ví dụ như – Lăng nhăng.

    Oregon vừa mở giấy viết thư chưa kịp đặt bút đã cảm thấy chiếc áo len hở cổ mới mua bị ánh mắt nóng bỏng của ai kia soi thủng hai cái lỗ bự. Y ngẩng đầu lên nhìn vào gương, Ansbach đang sải bước đi tới.

    “Đang viết gì đấy?” Ansbach từ phía sau ôm choàng lấy cổ Oregon, cánh tay từ từ siết lại hệt như chiếc khăn quàng cổ cứng cáp quấn chặt lấy cổ y.

    Oregon bực bội vỗ vào tay anh, “Anh cắt đứt nguồn cảm hứng của tôi.”

    “Viết thư tình? Biết đâu tôi truyền thêm cảm hứng cho em được đấy?” Ansbach cúi đầu xuống, dùng môi mổ vào cổ y rồi bắt đầu tấn công xuống dưới.

    Oregon nói: “Để tôi yên tí coi.”

    Ansbach rũ mắt, môi hơi nhếch lên để lộ răng nanh. Cổ họng anh phát ra tiếng nhấm nuốt khô khốc, mặt bỗng dưng vùi sâu vào hõm vai Ansbach, cánh tay run lên nhè nhẹ.

    Oregon xoay bút, bất đắc dĩ đặt xuống rồi vuốt tóc anh, “Được thôi, chúng ta cùng nhau nghĩ xem có trò chơi nào mặc quần mà chơi không nhé.”

    Một lúc sau, Ansbach bình tĩnh lại, anh ngước mặt lên, nói bằng giọng tỉnh như ruồi, “Không phải muốn viết thư sao? Tôi viết chung với em.”

    Oregon giơ tạp chí lên, “Tôi chỉ muốn viết thư cho chủ biên của tạp chí để nói thức ăn ở Anh không đến nỗi quá tệ, ít ra khoai tây chiên đâu cũng được mà.”

    Ansbach nhận lấy tạp chí lật qua lật lại, “Em có thể bình luận ở trang web chính thức của hắn.”

    Orgeon hỏi: “Đừng nói anh hy vọng một con mèo có thể làm được từng đấy chuyện nhá?”

    Ansbach quàng tay qua vai Oregon, ngón trỏ và ngón giữa mân mê trái cổ của y, “Hay mình làm tí việc không cần mặc quần đi?”

    Oregon kéo tay anh xuống, trước khi Ansbach kịp trở tay bắt lấy y, Oregon cúi đầu hôn lên mu bàn tay anh, “Tụi mình phải sống lành mạnh tí xíu.”

    “Hoàn toàn đồng ý, ví dụ như mấy loại vận động tốt cho cả thể xác lẫn tinh thần.” Ansbach kéo y đứng dậy rồi sấn tới.

    Oregon nói: “Tôi muốn phơi nắng.”

    Ansbach nâng cằm y lên, “Gangrel có phải là huyết tộc thật không đấy? Có lẽ các người biết biến thành bất cứ con vật nào ngoài dơi ra?”

    Oregon cười hì hì trả lời: “Cứ nhìn tiêu chuẩn chọn bạn đời của tôi là biết tôi mù thật mà.”

    “Ồ.” Ansbach cúi xuống mân mê ngón tay của y không nói lời nào.

    Oregon vừa thấy kỳ kỳ vừa thấy rờn rợn. Y rụt người xuống trộm liếc Ansbach, để rồi bắt gặp đôi mắt đỏ au tràn ngập đố kỵ, điên loạn, mờ mịt của anh.

    Ansbach nâng cằm y lên và hôn thật mạnh, nhưng lại sợ hôn mạnh quá làm y bị thương nên chỉ đành giữ lực về phần mình.

    Oregon nghe rõ tiếng xương cốt răng rắc vang lên từ trong người anh.

    Y lặng lẽ nhích về sau nhưng hành động này lập tức đốt lên ngọn lửa nóng nảy trong người Ansbach. Anh xé toạc áo mình rồi xé luôn áo của Oregon, để hai cơ thể dán lại sát vào nhau.

    Oregon bất đắc dĩ vuốt gáy anh, “Ít ra cho tôi biết nguyên nhân.”

    Lồng ngực Ansbach phập phồng bất ổn, thật lâu sau mới nói: “Hối hận rồi sao?”

    “Chuyện nào? Là chuyện cứ ở lỳ ở Anh để thưởng thức đặc sản duy nhất là khoai tây chiên? Hay chuyện chọn cái khách sạn có thảm cứng ngắc để giờ nằm khó chịu muốn chết? Hay là chuyện sáng nay lúc mới ngủ dậy không đề nghị ra ngoài phơi nắng, khiến giờ hai đứa chẳng làm được gì ngoài việc giữ nguyên tư thế kỳ cục này?”

    “Không chọn Joseph Miller.”

    “Hơ.”

    Ansbach đột nhiên bế thốc y, đi băng qua phòng ngủ rồi vào nhà tắm, đè y vào bồn tắm rồi từ trên cao nhìn xuống, u ám nói: “Hối hận cũng muộn rồi!”

    “Thật ra…”

    “Câm miệng!” Ansbach táo bạo hôn y.

    Oregon giãy vài cái tượng trưng rồi thôi.

    Dù gì từ sau khi quen biết Ansbach, mấy vụ cưỡng ép bắt mình ngậm mồm bị hoài cũng quen, còn mình cũng tập thành thói nhường nhịn.

    Mãi đến lúc Oregon biến thành mèo đen, Ansbach vẫn chưa nghe được đáp án của y.

    Nhưng lần này anh không hối hận.

    Không nghe thấy đáp án còn hơn nghe thấy đáp án mình không muốn nghe.

    Chẳng qua ngày hôm sau, vừa mở mắt ra, anh đã nhìn thấy trên trần nhà khách sạn viết một dòng chữ to tướng: “Chọn anh! Chọn anh! Khốn nạn, tôi chọn anh!”

    Nỗi vui sướng điên cuồng chưa kịp bùng nổ thì Ansbach lại nhìn thấy tờ giấy Oregon đặt trên đầu giường.

    “Tôi ra ngoài để câm miệng.”

    Bị dội cả chậu nước lạnh, Ansbach: “…”

    Bữa sáng, không có mèo đen.

    Không muốn ăn.

    Bữa trưa, vẫn chưa về.

    Không muốn ăn.

    Bữa tối…

    Không muốn ăn!

    Mãi đến hơn mười một giờ đêm, lan can mới vang lên tiếng động.

    Mèo đen trở về, cả người nồng nặc mùi rượu, liêu xiêu bước đi nhưng còn chưa kịp vào phòng, rèm cửa đã bị kéo ra cái rẹt, một bóng người cao to u ám xuất hiện bên cửa sổ và nhìn chòng chọc vào nó.

    Chân mèo dừng lại trên không rồi chìa ra, nịnh nọt gãi gãi vào giày ai kia nhưng đối phương lại chẳng thèm động đậy, thế là mèo ta lại lon ton chạy tới cọ vào chân Ansbach.

    Ansbach khom người bồng nó lên, hôn vào mũi nó, môi nó và thấp giọng nói: “Xin lỗi.”

    Mèo đen nghiêng đầu nhìn anh bằng ánh mắt ngạc nhiên, sau đó hài lòng gật đầu. Xem ra Ansbach tu hành bao nhiêu năm nay cũng có chút thành quả, ít ra bắt đầu biết nhận lỗi.

    Ansbach mỉm cười lấy bút lông chim ra và nói: “Tôi đã xin lỗi xong, giờ là trừng phạt của em.”

    Mèo đen: “…” Co chân sau mau!

    Không thoát khỏi ma trảo.

    Từ đó về sau, cả Ansbach và mèo đen đều yên phận cho tới khi về đến nhà.

    Cuộc sống yên bình thanh thản khiến Ansbach như từ địa ngục lên thiên đường, đây chính là cảnh tượng mà anh nằm mơ cũng không dám mơ tới. Nếu còn gì không trọn vẹn thì chính là thời gian mèo đen biến thành người quá ngắn. Có đôi lúc hai người cãi cọ hăng quá, mèo đen hờn dỗi bèn giữ thân mèo đi tới đi lui ba ngày liên tiếp, hoàn toàn phớt lờ con dơi đói khát đến xanh cả mắt.

    Gordon, hắc vu sư, hắc vu thuật… dường như đều là chuyện của quá khứ.

    Đôi khi Ansbach còn nghĩ, có lẽ người khoác áo choàng đến từ vu tộc đã xử lý xong xuôi hết mọi chuyện.

    Cho đến ngày nhà gỗ nhỏ có khách ghé thăm.

    Không cần mở cửa Ansbach cũng cảm giác được hơi thở khiến người khác chán ghét. Anh bồng mèo lên thả vào bàn ăn đặt ngay mép phòng khách, gần chỗ của Oregon.

    Cộc, cộc, cộc.

    Tiếng gõ cửa vang lên ba lần không nhanh không chậm.

    Ansbach dám chắc nếu mình không đi mở cửa, đối phương sẽ cứ tiếp tục gõ như vậy cho đến khi bề ngoài trầm tĩnh bong ra từng mảng, lộ ra nội tâm điên cuồng vô phương cứu chữa.

    Cửa tự động bật vào trong.

    Ansbach khoanh tay nhìn lão.

    “Quấy rầy rồi.” Gordon ngả mũ chào hỏi.

    Ansbach kinh ngạc vì gương mặt già nua gần như mục nát của đối phương. Lần đầu gặp mặt, đối phương trông có vẻ như ngoài năm mươi, mặt mũi in hằn dấu vết của năm tháng, nhưng động tác lại tràn ngập sức quyến rũ nam tính, chính là loại đàn ông mà các thiếu nữ ngây ngô mới bước vào đời ưa thích. Nhưng giờ đây mặt mày lão ta cả mắt mũi miệng cũng khó bề phân biệt rõ.

    Gordon chống gậy chậm chạp bước vào nhà.

    Lão mặc áo khoác dài màu đen, đệm vai vừa cao vừa tương xứng tạo nên một đường thẳng tắp che khuất cả cổ, trông như quái vật có đầu mọc trên khối chữ nhật. Dưới áo khoác đen là đôi giày bóng loáng, dù bước đi trên bãi biển dài thăm thẳm vẫn không dính tí bùn đất nào.

    Lão lướt nhìn hết phòng khách cứ như người bạn cũ quen biết đã lâu, ánh mắt dừng lại trên chậu hoa giả đặt ngay cửa sổ một lúc rồi mới cười bảo: “Ngươi vẫn không thay đổi. Vẫn si mê vẻ đẹp của hoa nhưng lại căm ghét sức sống tràn trề của chúng.”

    Ansbach nói: “Người yêu ta thích hoa, ta ghét chăm sóc.”

    Gordon cười như kiểu ‘ta hiểu rõ ngươi quá mà, cần gì phải giấu diếm’ rồi ngồi xuống, “Ngươi nói thế nào thì là thế nấy.”

    Ansbach: “…”

    Xem ra bệnh tâm thần của lão ta nặng hơn rồi.

    Người bệnh tâm thần đều khiến kẻ khác chán ghét vậy ư?

    Không biết trước đây mình có vậy không nhỉ?

    Chắc chắn không.

    …Anh có nhan sắc.

    Chương 22: Sa lưới (thượng)

    Cái bẫy được chuẩn bị tỉ mỉ.

    Gordon nói: “Một tách hồng trà, cảm ơn.”

    Ansbach đáp: “Không có.”

    Gordon lấy khăn tay từ túi áo từ từ thấm sạch nước trên bàn trà rồi đưa lên mũi ngửi: “Hồng trà Anh Quốc.”

    Ansbach nói: “Thú cưng của ta đôi khi cũng sẽ đi bậy trên bàn, ông biết đấy, giống đực thường thích mấy trò đó.”

    Tay Gordon run khẽ, lão ngước mặt nhìn anh.

    Ansbach chú ý thấy, đôi mắt của lão vốn có màu xanh lam nhuộm tro, khó nói rõ là đẹp hay không, dù sao cũng là loại thường thấy ở Anh, nhưng lúc này đã biến thành màu vàng xanh ma quái, cứ như bên ngoài màu xanh phủ thêm một lớp vàng kim kỳ dị, “Ông sắp điếc rồi hả?”

    Gordon nói: “Không nhanh như cậu đâu.”

    “Ta cho rằng ông bị đột biến gien lặn giống mấy con mèo xui xẻo ấy.” Từ ngày người yêu biến thành mèo, anh bắt đầu chú ý đến vô số tin tức về mèo. Ansbach xoay người bỏ vào trong bếp.

    Mùa thu vừa qua, khí hậu ở Ai Cập vẫn ấm như những ngày xuân.

    Thế nhưng Gordon ăn mặc kín mít, chỉ chừa ra mỗi gương mặt bóng loáng như bôi sáp thật dày. Lúc lão ta cười, ánh đèn sẽ phản chiếu lên mặt tạo ra những hình thù khác nhau.

    Ansbach nhanh chóng rời bếp, đặt lên khay trà chai nước suối thường được tặng miễn phí trong các hội chợ triển lãm. “Không biết hết hạn chưa nữa. Nhưng hết hạn cũng không sao, cơ thể ông hết hạn mà vẫn dùng lâu vậy được đấy thôi.”

    Bàn tay cầm gậy của Gordon khẽ run lên, lão ta cười bảo: “Rất vui khi thấy cậu chẳng thay đổi tí nào, vẫn cứ khiến người ta phải căm ghét như hồi xưa.”

    Liếc thấy mấy móng vuốt không chịu an phận của mèo đen thó ra khỏi bếp, Ansbach bèn kéo ghế chắn ngay chính giữa, “Ông muốn cái gì?”

    Gordon nói: “Thăm bạn cũ thôi, cậu căng thẳng quá làm gì.”

    Ansbach đáp: “Sau khi ông sử dụng hắc vu thuật với ta, ta còn tin ông được nữa ư?”

    Gordon hưng phấn cười bảo: “Hiệu quả khá đấy chứ nhỉ? Cậu trúng chiêu mà.”

    Ansbach nói: “Ta còn đang yên ổn ngồi ở đây.”

    Gordon thôi không cười nữa, lão lạnh lùng nói: “Còn chưa chúc mừng cậu, con chó săn của thiên đường.”

    Ansbach đáp: “Nghe có vẻ cao giá hơn làm bạn bè với hắc vu sư.”

    “Bạn bè?” Gordon chế nhạo: “Mơ mộng hão huyền! Ta không có bạn bè, không có ai xứng làm bạn với ta cả! Cả thế giới này, không, cả chín giới này đều là những sinh vật không có đầu óc, không có tình cảm, không có năng lực, chẳng có một ai được đứng ngang hàng với ta! Hoặc có lẽ miễn cưỡng cũng có một kẻ.” Lão ngừng lại đôi chút rồi tiếp: “Kẻ mà các ngươi xưng là Thần.”

    Ansbach nói: “Đúng, một được xưng là Thần, còn lại là thần kinh.”

    Gordon nhìn chằm chằm vào anh, “Chớ quên cậu cũng từng làm bạn với kẻ thần kinh này đây.”

    Ansbach nói: “Ông mới chớ quên rằng, mới nãy ông còn bảo tên thần kinh nhà ông không có bạn bè!”

    Bàn trà trước mặt Gordon bỗng nhiên bay thẳng lên trần rồi rơi xuống đất cái rầm.

    Cái ghế và Ansbach cùng lùi về sau hai mét, mặc cho bàn trà rơi xuống đất vỡ tan tành.

    “Bàn trà này do chính tay ta làm, tiền bồi thường đắt hơn ông tưởng nhiều đấy.” Anh nói.

    Gordon chống gậy đứng dậy, giày của lão đạp lên mảnh vỡ của bàn nghe lạo rạo. Lão gõ gậy xuống đất, hai tay đặt lên đầu gậy và đứng thẳng người lên, “Ansbach Malkavian, cậu có nguyện thề sẽ thành tâm cống hiến, kính dâng cả thân xác lẫn linh hồn cho Gordon Creator, mãi mãi không hối hận hay không?”

    Mang tiếng là kẻ điên nổi danh nhất giới huyết tộc, thậm chí lẫy lừng ở cả nhân giới, nhưng Ansbach vẫn thấy như được mở mang tầm mắt, “Họ của ông độc đáo quá đấy.”

    Gordon chần chừ đáp: “Nếu cậu chịu phụng thờ ta một trăm năm, không, một ngàn năm, ta sẽ cho phép cậu được thừa kế họ của ta.”

    Ansbach trêu lão: “Nếu như ta lén đi đổi chứng minh thư thì sao?”

    “Ta sẽ giết cậu!” Gordon vốn không muốn có bất cứ kẻ nào dùng chung cái họ cao quý nhất trần đời ấy với mình! Nếu là là đấng vạn năng đương nhiên khắp trời đất này chỉ có thể có duy nhất một mà thôi!

    Nhìn bộ dạng nửa tỉnh nửa hâm của lão, Ansbach vừa thương hại vừa sung sướng.

    Năm xưa nếu không nhờ Oregon, có lẽ anh đã trở thành kẻ nối nghiệp của dòng họ “Creator”.

    Thiệt tội cho những gã đàn ông độc thân.
    Ansbach thỏa mãn nghĩ.

    Sự im lặng của anh lại được Gordon tưởng nhầm thành do dự.

    Sắc mặt lão dịu lại, mỉm cười bảo: “Không cần căng thẳng, ta và cậu không phải chiến đấu trong đơn độc. Bọn ta có quân đội mạnh mẽ ủng hộ, thiên sứ, đọa thiên sứ, người lùn, titan, vu sư, đương nhiên cũng có cả huyết tộc, nói chung là rải khắp các giới. Bọn ta tụ hội lại với nhau chỉ vì một lý tưởng cao đẹp nhất: Đánh bại những kẻ thống trị chín giới, tự lên làm chủ!”

    Ansbach nói: “Bởi vậy ai cũng ghét Nghịch Cửu Hội.”

    “Từ Nghịch Cửu Hội này không chính xác lắm. Hiện giờ bọn ta gọi là Hội Cao Quý.” Gordon nói bằng giọng xem thường: “Bọn ta khác với Nghịch Cửu Hội, không phải ai cũng xin vào được. Nếu muốn gia nhập cần phải thông qua thử thách nghiêm khắc, đương nhiên về sau bọn ta sẽ bồi dưỡng bọn họ, để họ trở thành những vị thần cấp dưới của ta. Cậu không cần lo lắng, cậu và Zofie đều đã được ta chọn làm các vị thần đứng đầu.”

    Ánh mắt Ansbach lướt qua cằm lão, mỉm cười bảo: “Nghe ra có vẻ là tổ chức khá chặt chẽ, có thể giới thiệu thêm đôi nét chăng?”

    “Cậu có hứng thú rồi đúng không?” Gordon cười ranh mãnh, làn da cũ kỹ xếp lại thành nhiều lớp, “Ta biết ngay cậu sẽ thế mà.” Lão liếc nhìn chai nước suối nằm giữa đống mảnh sứ, đang định khom người nhặt lên thì bất chợt cứng đờ cả người.

    Ansbach hỏi: “Sao thế?”

    Gordon đứng lên, chân lảo đảo lùi về sau hai bước, tay nhanh chóng đưa vào túi lấy khăn tay ra lau cổ. Từng vệt máu lớn thấm lên khăn tay, đỏ chói cả mắt.

    “Không! Không thể nào!” Lão gào thét thảm thiết: “Zofie! Zofie!”

    Nóc nhà bị đụng sầm vào làm lõm vào một lỗ.

    Ansbach nhìn lên nóc nhà rồi dịch người qua bên cạnh, đúng giây tiếp theo, một vật thể đông lạnh rơi vào nóc tạo thành lỗ thủng hình cầu.

    Từ trong nhà nhìn lên.

    Sao sáng lấp lánh. Thời tiết ngày mai chắc đẹp lắm.

    Gordon lấy lại tinh thần, “Cậu làm thế nào vậy hả?”

    “Kinh nghiệm từ vô số lần thất bại dạy ta biết,” Ansbach trong nháy mắt di chuyển đến trước mặt lão, cầm một cây dùi mài dao từ từ đâm vào cổ lão, “những lúc thế nào không bao giờ được phí thời gian giải thích nguyên lý.” Anh di chuyển cây dùi để giữ cho nó thật thăng bằng.

    Gordon không dám tin trợn tròn hai mắt, ngơ ngác nhìn anh cứ như đang thầm chất vấn anh tại sao lại xảy ra chuyện thế này.

    Ansbach buông tay ra để dùi mài dao cứ thế cắm trên cái giá mới, “Đừng cử động. Phải cố gắng lên, tốc độ bào mòn gỉ sét của nước may mắn hơi chậm, thân thể của ông chịu khó bị giày vò thêm tí xíu nhé. Bây giờ chúng ta có thể pha hồng trà và giải thích nguyên lý rồi.”

    Mèo đen đẩy khay ra, trên khay có lá trà, nước sôi và tách trà.

    Tuy cả Gordon và Zofie đều đã sa lưới nhưng anh không muốn nó mạo hiểm dù chỉ đôi chút. Anh nhấc khay lên, dùng chân móc lấy mèo đen đẩy nó vào bếp rồi đóng cửa lại.

    Sau cửa phát ra tiếng cào phẫn nộ.

    Bàn trà đã bị Gordon phanh thây trong lúc giận dữ, Ansbach chỉ đành đặt khay trà lên tủ trang trí rồi pha hai tách trà, một đặt bên chân Gordon, một cho chính anh, “Ông cẩn thận lắm, từ lúc vào nhà tới giờ luôn đề cao cảnh giác chẳng hề tiếp xúc với bất cứ thứ gì, nhưng có những thứ bất kể ông tránh thế nào cũng tránh không khỏi. Không khí.”

    “Nếu da của ông nhạy cảm sẽ cảm nhận được nhiệt độ khác thường của căn nhà, nó giống như phòng xông hơi vậy.”

    “Nước may mắn bốc hơi lan tỏa trong không khí, thấm vào cổ áo của ông rồi từng chút từng chút ăn vào da.”

    “Mùi vị của dùi mài dao như thế nào? Xin lỗi, động tác của ta có lẽ hơi thô bạo.”

    Tròng mắt Gordon xoay vòng vòng, chuyển hướng sang Zofie đang bị đông thành đá.

    Ansbach nhướng mày, đi đến gần “hàng hóa đông lạnh”, “A! Quên giới thiệt! Ta và Oregon lâu ngày mới được gặp lại nhau, tình cảm trào dâng khó lòng kìm chế nên đã hưởng tuần trăng mật ở gần đây. Đây là cách một hắc vu sư ở Ai Cập dạy cho ta, vốn là quả cầu lớn bằng quả banh bóng rổ được lắp vào cung, kéo nhẹ một cái là sẽ bay lên bọc lấy vật trên không trung, đặc biệt thích hợp dùng với mấy loài chim chóc. Tên ấy nói cũng đúng quá chứ.”

    Bất thình lình, dùi mài dao từ trên cổ họng Gordon rớt xuống đánh keng một tiếng, vết thương đã bị nước may mắn ăn mòn thành cả cái lỗ to như quả bóng bàn. Ngay sau đó, thân thể của Gordon thẳng tắp ngã ngược về sau.

    Cửa nhà bếp bị đẩy ra nhè nhẹ, giữa khe cửa bé xíu ló ra một cái mũi mèo, sau đó là cả cái mặt mèo bị ép cho biến dạng. Cửa mở hẳn ra, mèo đen lắc người, lon ton chạy thoát khỏi bếp.

    “Đừng qua đây.” Ansbach chắn trước mặt nó, mặt có vẻ nghiêm trọng.

    Phòng khách vô cùng yên lặng, cả tiếng kim rơi cũng có thể nghe thấy.

    Thi thể của Gordon nằm trên mặt đất không hề động đậy.

    Tên hắc vu sư từng dấy lên bao phen sóng gió đã kết thúc cuộc đời một cách đơn giản vậy ư?

    Kiêu ngạo như Ansbach còn phải cảm thấy hơi bị thuận lợi lạ thường. Anh lùi về mấy bước nhìn tên tù binh còn lại.

    “Hàng đông lạnh” trong suốt nên vật bên trong dù có vặn vẹo cũng vẫn nhìn ra được đại khái. Thế nhưng Ansbach không hề nhìn thấy tí gì kinh hoảng, sợ hãi, giận dữ hay thù hằn… Gã rất bình tĩnh, thậm chí ẩn sau trong mắt còn có chút gì như là đắc ý.

    Đây tuyệt đối không phải là dấu hiệu tốt.

    “Cộc, cộc, cộc.”

    Tiếng gõ cửa vang lên không nhanh không chậm hệt như từng viên đá nhỏ ném vào mặt hồ làm dậy nên những làn lăn tăn, khiến cho sóng ngầm phải cuộn trào lên bề mặt.

    Ansbach cất bước toan ra mở cửa nhưng vừa đi được một bước, ống quần chợt bị cắn chặt.

    Chân trước của mèo đen quấn vào mắt cá chân anh, răng ghì chặt lấy quần anh, hai chân sau của nó liên tục nhích về phía sau để mượn lực kéo Ansbach lại.

    “Vào bếp đi.” Ansbach nói.

    Cái đầu nhỏ của mèo đen lắc lư, chân sau không ngừng co lại nhưng muốn kéo anh đi.

    “Cộc, cộc, cộc.”

    Tiếng gõ cửa lại tiếp tục.

    Ansbach cúi đầu nhìn chú mèo đang không ngừng cố gắng, “Tôi không ngại cởi quần trước mặt người khác.”

    Mèo đen cứng đờ.

    Thừa cơ nó hơi nhè quần mình ra, Ansbach bồng nó lên phóng vào phòng ăn, cõng lấy Oregon trên lưng rồi vọt ra ngoài từ cửa sổ nhà bếp.

    Trăng đêm nay rất tròn.

    Bóng trăng tròn vành vạnh phản chiếu trên mặt biển, mặt biển dập dìu, sóng gợn lăn tăn, ánh trăng lay động theo từng làn sóng nhấp nha nhấp nhô, cao cao thấp thấp, trùng trùng điệp điệp. Hai mặt trăng trên trời và trên biển đều sáng tỏa, sáng hơn hẳn bất cứ mặt trăng nào Ansbach từng được ngắm.

    Vậy mà dưới vầng trăng ấy, giữa màu đen của biển đêm lại còn có một bóng người sáng chói hơn cả ánh trăng.

    Đôi cánh trắng không chút tì vết tỏa ra hào quang sáng ngời nhưng không chói mắt. Rạng rỡ hơn cả đôi cánh ấy chính là gương mặt chủ nhân của nó. Đó là một gương mặt mà dù có cộng hết những từ ngữ miêu tả đẹp nhất trên đời cũng khó lòng tương xứng. Mắt y rũ xuống, giấu mình dưới hàng mi cong vút dài rậm là đôi mắt xanh lam trong trẻo như bầu trời mới được gột rửa sau cơn mưa, bờ môi y hơi cong, mang theo nụ cười thân mật, dịu dàng lại thánh khiết.

    Mặc dù bản năng khiến tất cả huyết tộc không mấy hảo cảm với thiên sứ nhưng đứng trước y, trong lòng bất cứ một ai cũng khó có thể cảm thấy ác cảm.

    “Nhốt bạn bè ngoài cửa là hành vi bất lịch sự biết nhường nào.”

    Giọng đàn ông hùng hồn vang lên từ trong nhà gỗ.

    Một người đàn ông trung niên đội nón tây, mặc áo khoác đen dài đút tay vào túi bước đi trên bãi cát. Lão đi có vẻ rất bình thản, trên giày không hề dính bất cứ hạt cát nào.

    Zofie đi theo sau lưng lão ta, luôn tay mân mê lớp keo dính trên lông vũ, ánh mắt nhìn Ansbach tràn ngập oán trách.

    Ansbach chầm chậm xoay người lại, “Là ông.”

    Gã trung niên híp mắt cười và ngả mũ chào hỏi: “Viên bắt chim bán cho cậu xài cũng được đấy chứ? Trông cậu có vẻ vừa ý. Nhớ đánh giá năm sao cho ta.”

    Ansbach nói: “Gordon.”

    Ở đất nước Trung Quốc xa xôi có một kỹ thuật gọi là đổi da, Gordon rõ ràng đã thành thạo với kỹ thuật này.

    Gordon giang hai tay ra xoay một vòng trước mặt Ansbach, “Trông ta như thế nào? Có giống với lúc chúng ta mới gặp nhau không, lúc hồi còn đánh bi da với nhau ấy? Chỉ cần cậu không chơi xấu, chúng ta chơi sẽ vui lắm.”

    Ansbach đáp: “Không thuận mắt như hồi đó.”

    Gordon nói: “Không chỉ không thuận mắt mà còn thuận tay chứ nhỉ.” Lão làm động tác như đang đâm vào.

    Ansbach nói: “Ta cứ tưởng ông sẽ là một hắc vu sư luôn xem trọng tôn nghiêm của con người.”

    “Đương nhiên!”

    “Ông vứt bỏ thân thể của chính mình.”

    “Nhưng ta vẫn sử dụng lại thân thể của con người.” Gordon nói: “Ta gọi đây là ‘hồi sinh’.”

    Ansbach nói: “Lần sau nếu gặp được bạch vu sư, ta sẽ nhờ họ chuẩn bị một ít nước thuốc nhắm vào linh hồn.”

    “Chỉ sợ cậu sẽ phải thất vọng.” Gordon lấy từ túi áo ra một cái hộp nhỏ. Cái hộp không dẹp nhưng để trong túi áo Gordon lại không bị cộm lên. Lão ném hộp lên không trung, cái hộp dừng lại ở giữa đường vòng vung rồi tự động mở ra.

    Dưới ánh trăng sáng vằng vặc, bên trong chiếc hộp được chiếu hết sức tỏ tường.

    Trên nhúm lông vũ màu đen là một sợi tóc trắng muốt sáng bóng.

    Chương 23: Sa lưới (trung)

    Cái bẫy được chuẩn bị tỉ mỉ.

    Gordon giơ tay lên vuốt ve sợi tóc trong hộp như đang vuốt ve thú cưng của mình, “Cậu đang ám chỉ hắn đấy a? Tên bạch vu sư có duyên gặp cậu một lần. Sau lần chia tay hôm ấy nhất định cậu rất vương vấn hắn, nào ngờ hắn lại gặp được ta, cũng lấy dao đâm vào họng ta y hệt như cậu.”

    Mặt Ansbach không chút biểu cảm. Từ lúc Gordon xuất hiện với bộ mặt của hắc vu sư anh gặp được ở Ai Cập, Ansbach đã biết mỗi một hành động của mình đều nằm trong tính toán của đối phương.

    Vốn tưởng mình là thợ săn, hóa ra chỉ là con mồi, cảm giác này chẳng ai không thấy khó chịu.

    Người hơi yếu đuối chắc đã đắm chìm trong tuyệt vọng chê trách bản thân.

    Nhưng Ansbach là người từng trải biết bao tự trách cùng giày vò nên quá quen với việc tự đánh giá và khẳng định giá trị của bản thân.

    Đúng, anh thất bại rồi, nhưng vậy thì đã sao?

    Anh từng trải qua thất bại còn đau khổ hơn thế này.

    Nhưng anh chịu đựng nổi, vả lại còn cứu chữa được.

    Gordon ngẩn ra. Phản ứng lạnh nhạt của Ansbach hoàn toàn nằm ngoài dự tính của lão ta.

    Đặc điểm nổi bật của Malkavian là gì chứ?

    Điên!

    Cái tôi cực đoan của họ khiến họ một khi rơi vào bế tắc, dù có là Thần cũng khó lòng thay đổi ý chí của họ.

    Nội tâm tràn ngập những cảm xúc cực đoan như hung tàn, buông thả, hưng phấn, kích động, điên cuồng, si mê… thì phải bất chấp quy tắc, tự ý phát tiết mới vui!

    Gordon tưởng niệm Ansbach của quá khứ đến mức thèm khát.

    Nhưng hiện thực luôn tàn nhẫn. Cảm xúc của Ansbach bây giờ ổn định như một người tu hành lâu năm.

    Chẳng khác nào bãi nước đọng.

    Không hề mang tính kích thích!

    Không hề có sức sống!

    Hệt như cái xác đã mất hết tính sáng tạo và sinh mệnh!

    Khiến người ta đau đớn đến nhường nào.

    “Đã hết hy vọng.” Đôi mắt tràn ngập ác ý cứ ghim chặt lấy mặt Ansbach để tìm ra dấu vết của sự bất an và kinh hãi, “Tên bạch vu sư cậu gửi gắm hy vọng…”

    “Thất. Bại. Rồi.”

    “Chẳng khác nào con chó mất chủ…”

    “Cúp đuôi bỏ chạy về thế giới của hắn.”

    “À phải, có lẽ cậu vẫn chưa biết thân phận của hắn.”

    “Lũ bạch vu sư xưng hắn là…”

    “Tộc trưởng.”

    Ansbach đổi tư thế đứng, vẻ mặt ung dung như đã chuẩn bị sẵn sẽ nói chuyện khá lâu.

    Đây không phải là kết quả Gordon muốn thấy.

    Gordon gạt sợi tóc trắng, lấy ra một sợi lông vũ màu đen, “Giờ thì hãy nhìn xem thứ này! Chắc cậu sẽ cảm thấy hứng thú, đúng vậy, là lông vũ của đọa thiên sứ. Ta sưu tập nhiều lắm, mỗi cọng lông đều được nhổ ra từ những đôi cánh khác nhau. Mớ này chỉ là một phần nhỏ thôi, trong kho của ta còn nhiều lắm. Ta tính may một chiếc áo choàng, sợi tóc này có thể dùng làm đường viền, nhất định sẽ rất đẹp.”

    Ansbach nói: “Áo choàng lông quạ đúng là rất hợp với phong cách của hắc vu sư.”

    Nghi vấn của anh chẳng những không khiến Gordon nổi giận mà ngược lại còn mừng rỡ, “Không phải ai cũng vinh hạnh được gặp quân đoàn đọa thiên sứ.”

    Ansbach cảm thấy bệnh của lão này hình như đã vào giai đoạn cuối, chẳng còn thuốc chữa nữa, “Ý ông là ông đánh bại quân đoàn đọa thiên sứ?”

    “Ai biết địa ngục bị cái gì, tự dưng phái chúng đến nhân giới tìm cái chết.” Nói đến đây, Gordon như đang vô cùng bất bình hậm hực, “Nhìn lại cái gọi là công bằng của Thần đi. Đọa thiên sứ phản bội thiên đường, vậy mà chỉ bị thay đổi tạo hình. Còn nhân loại chỉ vì ăn nhầm quả cấm mà mất sự bất tử! Cứ nhìn huyết tộc mà xem, tên Cain giết hại anh em bị trừng phạt thế nào? Hắn đạt được sự bất tử, còn được Thần che chở, không cho bất cứ sinh vật nào gây tổn thương cho hắn! Đương nhiên là ngoài hàm răng chẳng biết để làm gì và một khoản chi không nhỏ cho nha khoa!”

    Ansbach nói: “Ta từng hoan nghênh ông gia nhập huyết tộc.”

    “Tại sao ta lại phải gia nhập vào thứ chủng tộc thấp hèn, đồi bại, tràn ngập mùi thối nát ấy chứ?” Gordon vung nắm tay, “Nhân loại mới là sinh vật cao quý nhất trong chín giới! Là tác phẩm hoàn mỹ nhất của Thần! Bọn ta vốn nên sống trong vườn Địa Đàng, sử dụng trí tuệ của mình để thay đổi cả thế giới!”

    Dẫu có đổi sang một cơ thể trẻ tuổi hơn, tâm hồn Gordon vẫn đã thối rữa đến tận cùng.

    Suy nghĩ của lão ta còn rối hơn mớ len bị mèo cào.

    Ngoài miệng lão luôn đề cao mình ngang ngửa với Thần, nhưng trong tư tưởng vẫn xem mình như nạn nhân bị đối xử bất công.

    Một mặt lão ta ngưỡng mộ quyền năng của Thần, mặt khác lại không ngừng phát triển những kế hoạch ảo tưởng.

    Hai tư tưởng cực đoan xoắn xuýt trong đầu lão ta, va chạm kịch liệt tạo ra một nồi canh mùi vị quái dị.

    Ansbach cố uốn nặn lại suy nghĩ của lão, “Nếu Adam và Eva không ăn trái cấm, vẫn còn sống trong vườn Địa Đàng thì sẽ không có con cháu, tức là không có ông của bây giờ. Còn nếu Adam và Eva ăn trộm trái cấm, tức là ông sẽ đoản mệnh. Vậy nên tưởng tượng của ông sẽ không bao giờ biến thành sự thật.”
    Gordon im lặng một giây rồi rống lên: “Bởi thế ta mới phải khiến cho nó phát sinh! Ta muốn Thần biết lựa chọn của ông ta là sai lầm! Trí tuệ mà nhân loại sở hữu có thể thay đổi thế giới này!”

    Ansbach nói: “Có lẽ đây mới là nguyên nhân nhân loại chết sớm.”

    Trái tim Gordon như bị đâm trúng, dáng vẻ kiêu ngạo của lão yếu thế hẳn đi.

    Từ cái xác khỏe mạnh sung sức chợt hiện lên điệu bộ ủ rũ chỉ có ở người lớn tuổi.

    Lão khom lưng ho sù sụ.

    Ansbach vừa lặng lặng cử động chân thì nhìn thấy biểu cảm hả hê lóe lên trong mắt Zofie.

    Điều gì khiến hắn không biết sợ là gì?

    Ansbach cố gắng kìm chế sóng ngầm đang cuộn trào trong lòng. Gánh nặng trên người và trong lòng khiến anh không dám mạo hiểm như trước. Nhỡ mà… Nhất định phải tính toán kỹ lưỡng trước khi hành động.

    Gordon ngừng ho, đứng thẳng người lên, “Còn nhớ tôn chỉ của Nghịch Cửu Hội không?”

    Ansbach cau mày.

    Ai mà nhớ.

    Với anh của ngày xưa, Nghịch Cửu Hội, Nghịch Thập Hội, thậm chí là Nghịch Thần Hội chẳng qua chỉ là cái cớ để anh thỏa thuê buông thả.

    Nếu không phải cứ bị nhắc đi nhắc lại, chắc anh đã sớm quên mất sự tồn tại của nó.

    Gordon chậm rãi nói: “Thế giới cần có thay đổi.”

    “Nghịch Cửu Hội chân chính không phải là một tổ chức.”

    “Cũng không phải là một đám người.”

    “Mà là, lý tưởng.”

    Bệnh tâm thần quả là đáng sợ.

    Càng đáng sợ hơn nữa chính là, người ta cứ nghiêm chỉnh đi thuyết phục kẻ khác với mớ lý luận giẻ rách mơ mơ hồ hồ.

    Cảnh tượng trước mắt quen thuộc đến đáng sợ. Ansbach nhớ hình như mình cũng từng như vậy. Chọn đại ai đó rồi bắt đầu công cuộc tẩy não từng bước một, hoặc khủng bố tinh thần người ta đến mức thân tàn ma dại. Anh chẳng buồn để ý xem họ nghĩ gì, hay sẽ đạt được thứ gì, mà đơn thuần chỉ vì anh hưởng thụ quá trình chinh phục.

    Một người được xã hội tô vẽ cho đủ các sắc màu lại bị mình tẩy trắng từng ly từng tí, sau đó để mặc cho mình sơn phết lên những màu mình thích.

    Cứ như khiến một người sống cuộc đời mới.

    Thích thú nhường nào.

    Chắc đây cũng là tâm trạng của Gordon.

    Thuyết giáo không mệt mỏi, vừa đấm vừa xoa, uy hiếp dụ dỗ đủ cả, rốt cuộc chỉ để có được giây phút người khác khuất phục dưới mình.

    Ngón tay Ansbach mân mê cái bụng mềm mại của mèo đen, trong đầu không ngừng suy nghĩ.

    Nếu khuất phục trước lão ta có thể giúp anh và Oregon chuyển nguy thành an, Ansbach cũng chả ngại gì từ bỏ chút tự trọng. Nhưng Gordon rõ ràng không hề đơn giản như vậy. Vì vậy phải luôn làm giá để Gordon dù khát khao lại không đạt được, ấy mời là cách đảm bảo sự an toàn cho anh và Oregon.

    Ansbach không hề nhúc nhích, việc này đã khiến lòng kiên nhẫn của Gordon bay sạch không còn tăm hơi. Lão lạnh lùng nhìn sang chú mèo đen đang ngoan ngoãn nằm trong lòng Ansbach.

    Mèo đen: “…” Gì vậy trời, đừng nói nằm mà cũng trúng đạn nha!

    Quả nhiên, Gordon nói: “Hắn đã thay đổi cậu.”

    Ansbach nói: “Trước khi thay đổi thế giới, chúng ta phải thay đổi tình yêu trước.”

    Gordon nói: “Ngu xuẩn! Ấu trĩ! Nông nỗi! Ngốc nghếch! Vô tri!” Một chuỗi năm từ chửi liên tiếp thể hiện rõ nội tâm dữ dội của lão. “Tình yêu? Chỉ là kích thích do nội tiết tố gây ra mà thôi! Còn nếu muốn tìm cảm giác tim đập nhanh cậu có thể đi nhảy dù thử! Bảo đảm kết quả ngoài sức tưởng tượng!”

    Ansbach nhìn lão bằng ánh mắt thương hại. Lão già FA đáng thương.

    Gordon nói: “Cậu không có tư cách nhìn ta bằng ánh mắt đó!”

    Ansbach ngẫm nghĩ rồi đáp: “Đúng vậy. Có người thích ăn chay, có kẻ ưa ăn thịt, không phân sang hèn mà chỉ vì sở thích khác nhau thôi. Bất hạnh là ông thích ăn chay, còn ta thích ăn mặn.”

    “Đừng tưởng ta không nhận ra sự giễu cợt trong lời cậu.”

    “Đã giễu cợt gì đâu, chỉ đang khoe mẽ thôi.”

    Ansbach sở hữu một gương mặt Gordon không thể không thừa nhận là rất đẹp trai, cũng có nghĩa là ai cũng phải công nhận đẹp trai, gương mặt đó đủ để tung hoành phương Đông lẫn Tây, lại không chịu sự thử thách của thời gian. Trước đây Gordon rất thích vừa nói chuyện vừa thưởng thức gương mặt ấy, nhưng còn hiện tại lão chỉ hận không thể xé nát gương mặt đắc ý ấy!

    Dám sử dụng thứ lão luôn khinh bỉ để khinh bỉ lão, đúng là khó lòng nhẫn nhịn.

    “Tình yêu của cậu và Oregon chẳng khác nào khúc gỗ từng bị đàn mối viếng thăm, dù bề ngoài có hào nhoáng bao nhiêu thì bên trong cũng đã mục nát có thể sụp đổ bất cứ lúc nào.”

    “…Đúng là có mối nhưng cũng chỉ như kiến càng muốn lay đổ cây, không biết tự lượng sức mình.”

    “Vậy tại sao Oregon lại bị phong ấn?”

    Mặt Ansbach cứng đờ.

    Mèo đen đang thoải mái nằm trên khủyu tay Ansbach, nó giơ chân vỗ nhẹ lên tay anh mấy cái tỏ vẻ an ủi.

    Ansbach yên lòng trả đòn: “Có một từ gọi là tình thú, ông không hiểu đâu.”

    “Ha! Ta không hiểu. Người trong cuộc mù mờ, kẻ đứng ngoài tỏ tường, chỉ có một mình ta mới hiểu loại tình yêu của hai người là không có nền móng, lúc nào cũng chao đảo chực đổ.” Gordon cười lạnh, “Nếu cậu đã cảm thấy tình cảm giữa cậu và Oregon là hoàn mỹ vô khuyết, long trời lở đất, vậy ta sẽ cho cậu cơ hội để chứng minh. Nếu chứng minh hắn quả thật hoàn mỹ như cậu tưởng tượng, cậu sẽ được tự do, ta đảm bảo không làm phiền cậu nữa. Còn nếu ngược lại cậu sẽ mất đi tình yêu cậu luôn xem trọng! Hệt như năm xưa vậy, do chính tay cậu phá hủy!”

    Sắc mặt Ansbach trở nên u ám.

    “Hối hận rồi ư? Sợ rồi ư? Nhưng ta không cho cậu cơ hội lựa chọn.” Gordon cười lạnh, “Cậu phải trả giá đắt cho sự khoe mẽ ban nãy của mình! Dù bây giờ có hối hận quỳ xuống cầu xin ta, ta cũng sẽ không đổi ý.”

    Ansbach siết tay ghì chặt mèo đen, những ngón tay giấu dưới bụng mèo nhẹ nhàng gõ nhịp.

    Không có ngôn ngữ ra hiệu, không giao lưu bằng mắt, anh chỉ có thể đánh cược vào sự ăn ý giữa hai người.

    “Gordon.” Ansbach cau mày, “Ông nhất định phải tiến hành loại thí nghiệm vô bổ này sao?”

    “Cậu đang nhận lỗi với ta ấy à?” Gordon nói trong hưng phấn, “Hỡi bầu trời ban đêm, hỡi biển cả mênh mông, hãy cho ta biết đây là ai thế này? Là ai đang phải cúi thấp cái đầu cao quý của hắn! Là ai…”

    Trong nháy mắt Ansbach phóng nhanh xuống biển.

    “Bắt lấy hắn!” Đang phát biểu giữa chừng mà bị ngắt lời, Goron nổi giận đùng đùng.

    Sau màn xuất hiện ấn tượng, vị thiên sứ đẹp đẽ tĩnh lặng như món trang sức giờ phút này bỗng tao nhã giơ tay lên…

    Thời gian ngừng trôi.

    Biển cả ngừng nhấp nhô.

    Gió ngừng thổi.

    Những con muỗi ngừng bay lượn.

    Và còn cả Ansbach đang chuẩn bị nhảy xuống nước, chân chỉ cách mặt biển một ly.

    Trên bờ biển, đôi cánh của Zofie giữ nguyên tư thế nửa khép nửa mở, tay trái vung ra sau, tay phải vung đến trước, chân trái giơ ra trước, chân phải đạp về sau, cả người như sắp tung bay, thế nhưng… lại cứng đờ.

    Chỉ có Gordon là khẽ nhếch mép, từ từ cất bước đi đến bên cạnh thiên sứ, “Đưa tên huyết tộc trên lưng hắn qua đây!”

    Ngón trỏ phải của thiên sứ hơi nhúc nhích.

    Thân thể của Oregon trên lưng Ansbach chầm chậm bay lên, dần dần trôi đến trước mặt Gordon rồi đáp xuống ngay mũi chân lão ta.

    Thiên sứ mở mắt ra, đôi mắt xanh lam trong trẻo hiện lên chút nghi ngờ, “Ngươi đang đố kỵ?”

    Gordon ngẩn ra rồi giật mình đáp: “Ngươi đang nói chuyện với ta?”

    Thiên sứ lại im lặng.

    Dường như Gordon đã quen với việc này, lão tự nói tiếp: “Hai người bọn họ là một cặp tình nhân, bình thường cứ thích giày vò lẫn nhau, xem việc giày vò nhau là tình thú. Ta phải cho họ thấy sự thật. Bọn họ căn bản không hợp với nhau. Vị trí thích hợp nhất dành cho Ansbach là ở bên cạnh ta, đi theo ta để thống trị cả thế giới này.”

    Thiên sứ chớp mắt nói: “Là đố kỵ.”

    Gordon nói: “Ta đang giúp họ giải thoát! Ngươi chưa thấy cảnh bọn họ chung đụng với nhau đâu. Tính cách hai người họ hoàn toàn tương phản, lại không biết thông cảm cho nhau, chỉ biết hoài nghi trách móc lẫn nhau, bầu không khí quanh họ chẳng lúc nào không đậm mùi thuốc súng. Nếu có xảy ra chuyện gì bất hạnh, suy nghĩ đầu tiên chính là đổ lỗi cho đối phương! Dù đối phương có vào nhà vệ sinh cũng sẽ nghi ngờ người còn lại dùng bồn cầu tự xả để che giấu gì đó!”

    Thiên sứ nói: “Nhưng họ yêu nhau.”

    “Ta sẽ chứng minh đó chỉ là ảo giác của họ.” Gordon thì thầm tự nhủ: “Ansbach sẽ nhận ra phản bội ta là sai lầm to tác nhường nào. Đúng vậy, cậu ấy sẽ nhận ra.”

    Cứ như tìm được động lực, lão chợt phá ra cười đầy vẻ ma quái, chầm chậm giơ tay lên chỉ vào mèo đen và đọc cả tràng thần chú dài dòng tối nghĩa…

    Trời vẫn tối đen như mực, trăng vẫn sáng vằng vặc, mặt biển vẫn dập dìu gợn sóng.

    Nhưng một người một mèo trên biển đã biến mất không còn bóng dáng.

    Zofie đang định ra tay, thấy vậy thì không khỏi ngẩn ngơ nhìn quanh quất.

    Trên cát không có dấu chân dù là của người hay mèo.

    “Xảy ra chuyện gì?” Gã ngờ vực nhìn Gordon.

    Gordon hoàn hồn, nhìn thiên sứ với vẻ kích động, “Thành công rồi? Ta thành công rồi? Ta thật sự đã quay ngược thời gian rồi!”

    Thiên sứ nghiêng đầu, mờ mịt nói: “Ta cảm thấy sức mạnh của mình đang từ từ tăng lên.”

    Gordon đương nhiên chả buồn quan tâm vì sao, lão đang kích động đến mức nói năng lung tung: “Quá tuyệt vời! Có Thần trên cao, kỳ tích thật sự đã xảy ra! Ta biết ta vốn không phải người bình thường. Thần đang quan tâm tới ta! Ta sẽ đánh bại Thần, ta có thể.” Lão vừa nhảy nhót vừa kêu gào, để lại cả đống dấu chân lộn xộn trên cát, một lúc lâu sau mới bình tĩnh lại. “Thiệt hy vọng được nhìn thấy vẻ mặt của Ansbach khi đọc lá thư của ta.”

    “Trong thời gian ba tháng nếu không tìm được cách quay về, Oregon này sẽ chết.” Gordon cúi đầu nhìn thân xác Oregon nằm lặng lẽ trên bãi cát, lắc đầu tỏ vẻ thương hại, “Nếu trên đời thật sự có tình yêu thì cái cảm giác sự sống chết của người yêu nằm trong tay mình chắc hẳn rất thú vị. Cố gắng một cách điên cuồng, phấn đấu đến kiệt sức, thời gian mỗi lúc một ít dần, thất vọng bắt đầu sinh sôi, hoảng hốt, mông lung, rối bời… Cho đến giây phút cuối cùng, trong tim sẽ tràn ngập tuyệt vọng vì sự vô năng của bản thân. Biết trước kết cục lại không thể nào thay đổi, chỉ mới tưởng tượng thôi mà ta đã thấy tim sắp tan nát.”

    “Y có cơ hội thành công nhất định.”

    “Tiếc quá, đây là đề thi có liên quan đến lòng tin cùng sự ăn ý.” Gordon khoanh tay lại, “Với Malkavian, đề thi này không có lời giải.”

    Chương 24: Sa lưới (hạ)

    Cái bẫy được chuẩn bị tỉ mỉ.

    Mới giây trước còn là biển rộng mênh mông bát ngát, giây sau lại trở thành mặt đất rắn rỏi ẩm ướt… Quá rõ ràng, trong một giây thời gian chuyện gì đó đã xảy ra…

    Ansbach còn chưa đứng lên đã vô thức kiểm tra mèo đen trong lòng và Oregon trên lưng.

    Mèo đen, Oregon…

    Oregon!

    Khoảng trống trên lưng khiến anh lạnh người như chìm vào hầm băng.

    “GORDON!” Ansbach giận dữ gầm lên.

    “Meo.” Mèo đen cào nhẹ vào ngực của anh, kéo ra một lá thư.

    Ansbach lập tức mở ra xem.

    “Ansbach thân yêu,

    Rất vui được biết khi cậu đọc lá thư này, nó vẫn chưa bị lửa giận của cậu đốt thành tro bụi, vậy trò chơi mới phát triển thuận lợi được.

    Nhất định hiện tại cậu đang có vô số nghi vấn. Biển cả xanh thẳm biến đâu mất rồi, ta đang giở âm mưu quỷ kế gì đây, Oregon thân yêu của mình có an toàn hay không. Đừng vội, để ta trả lời cậu từng câu một.

    Đầu tiên, Biển Đỏ đáng thương vẫn bị kẹp giữa châu Á và châu Phi, nó chẳng đi đâu hết, người chuyển chỗ là cậu.

    Thứ nhì, ta không hề giở trò gì hết, lần này là trò chơi quang minh quang minh chính đại đến không thể nào quang minh chính đại hơn được nữa. Không phải là ảo giác, cũng không lừa gạt cậu, quả thật cậu đã quay về một trăm hai mươi lăm năm trước. Thiệt hâm mộ cậu quá, nếu cậu may mắn còn được tận mắt chứng kiến Van Gogh sáng tác ‘Chân dung bác sĩ Gachet’.

    Cuối cùng là vấn đề cậu quan tâm nhất: Sự an toàn của Oregon. Vấn đề này có liên quan đến trò chơi. Giả sử trong vòng ba tháng cậu tìm được cách trở về hiện tại, cũng tức là năm 2015, vậy là cậu có thể nằm trong nhà gỗ chờ đoàn tụ với Oregon. Còn nếu không thể, cậu chỉ đành đến bãi phế liệu tìm tro cốt của Oregon.

    Về phần hướng giải quyết, tuy ta rất muốn gợi ý cho cậu nhưng chắc cậu sẽ không tin.

    Thôi được rồi, vẫn nên gợi ý chút đỉnh, ai bảo ta rộng rãi cơ chứ. Gợi ý chính là: Phong ấn. Tin hay không tùy cậu.

    Mọi chuyện tốt lành.

    Gordon Creator của cậu.”

    “Một trăm hai mươi lăm năm trước?”

    Ansbach phì cười. Lão tưởng anh tin sao?

    Mèo đen nhảy ra khỏi lòng anh, đi chung quanh nhìn tới nhìn lui như vị vua đang tuần tra lãnh thổ.

    Chỗ này là một con hẻm nhỏ tối tăm, trời vửa đổ mưa, mái hiên bên hẻm tí tách rỉ nước, cả tường lẫn đất đều ướt nhẹp. Sau cơn mưa, trời đêm trong vắt, ánh trăng sáng tỏ hệt như ánh trăng trên BIển Đỏ. Ánh trăng bàn bạc phủ khắp mặt đất, phủ trên cả giày, cả những thùng gỗ đặt hai bên hẻm.

    Một cánh cửa giữa hẻm đột nhiên mở toang, tiếng ồn ão đinh tai nhức óc vang lên ầm ầm.

    Cô gái tóc vàng say khướt từ bên trong lảo đảo bước ra, nôn thốc vào vách tường đối diện. Nôn xong, cô nàng lả lướt xoay người đi thẳng về phía đầu hẻm đối diện, mặc cho tà váy quét qua bãi ói.

    Một lúc sau, người đàn ông đội nón Tây cúi đầu đi ra, dáo dát nhìn quanh đầy vẻ cảnh giác, cả khe hở giữa đống thùng gỗ cũng không bỏ qua. Khoảng nửa phút sau, gã mới bắt đầu đuổi theo hướng cô gái tóc vàng vừa đi.

    Trên thùng gỗ ban nãy gã nhìn có mái hiên cao, trên mái hiên là một con dơi và một con mèo sóng vai ngồi cạnh nhau, cả hai đều nhìn về phía cô gái bỏ đi.

    “Em có tin đây là thế kỷ 19 không?”

    “Meo.”
    “Không phải trò mới Gordon học được sau khi đổi da?”

    “Meo.”

    Thật ra trong lòng Ansbach cũng bị thuyết phục.

    Một là thế giới này quá chân thật, chân thật đến từng chi tiết nhỏ nhất. Chuyện này Gordon không làm nổi, thuật mê hồn của lão chưa đạt đến mức không bỏ qua cả những sinh vật nhỏ xíu như kiến, bướm hay giun…

    Và anh nghe thấy tiếng mèo.

    Anh không hề quên, hai lần trước đều là nhờ y giải cứu anh khỏi ảo ảnh.

    Con dơi từ từ cao lên, biến thành hình người, cúi xuống bồng mèo đen vào lòng. “Nếu em nói thế thì tôi đành tạm thời tin rằng lão ta có khả năng đấy. Hiện tại chúng ta phải tìm chỗ nào ở tạm trước… Đều là bảng cả, chẳng biết bảng Ai Cập có dùng như bảng Anh được không.”

    Bảng Ai Cập đương nhiên không thể dùng như bảng Anh, đặc biệt là bảng Ai Cập của hơn trăm năm về trước, thế nhưng Ansbach vẫn tìm được chỗ ở vô cùng thoải mái – Biệt thự của Oregon.

    Mèo đen trợn mắt nhìn anh suốt dọc đường đi.

    Ansbach nhún vai đáp: “Hơn trăm năm nay tôi đổi chỗ ở không biết bao nhiêu lần, tự nhiên quên mất ‘bây giờ’ đang ở đâu rồi. Đừng hẹp hòi vậy mà, em ở nhà gỗ bấy lâu nay thì cũng nên có qua có lại chứ. Dù sao ‘năm nay’ cả tôi lẫn em đều không sống ở châu Âu.” Giọng anh chùng xuống, “Tiếc rằng lão chỉ cho chúng ta thời gian ba tháng, bằng không…”

    Trong đầu anh bỗng lóe lên ý tưởng quái lạ và to gan, hơn nữa còn rất chi phấn khích.

    “Nếu chuyện này là thật, có phải… Chúng ta có thể thay đổi lịch sử không?”

    “May mà trong nhẫn của tôi còn chút nước may mắn, giả sử sớm bắt được Gordon, biết đâu chúng ta có thể quay về nhanh hơn! Bởi vì Gordon của một trăm năm sau sẽ không tồn tại, thế nên chẳng có ai tống chúng ta về thời đại này cả!”

    Anh đi vòng vòng phòng khách tự biên tự diễn, giọng nói tràn ngập kích động: “Tôi còn có thể ngăn cản sai lầm của mình… Một trăm hai mươi lăm năm trước! Chính là thời gian em bị phong ấn, tôi phải xem hôm nay là ngày mấy mới được!”

    Mèo đen ngậm một tờ giấy, sang chảnh bước đến bên cạnh anh.

    Ansbach từ xa đã nhìn thấy nó, anh lập tức quay đầu đi, “Đừng qua đây. Tôi thấy ý kiến này cực hay, không cần ý kiến khác!”

    Mèo đen nhảy lên bàn trà và đẩy giấy qua.

    Giằng co được một lúc thì Ansbach thỏa hiệp, cam chịu nhận lấy tờ giấy, “Cứ lần nào tôi thấy ý tưởng không tồi thì em lại tạt nước lạnh. Chẳng lẽ không có một lần ngoại lệ sao?”

    Mèo đen nằm trên bàn trà mở to hai mắt nhìn anh đầy vẻ vô tội.

    Ansbach nói: “Tìm đọc tư liệu liên quan đến dịch chuyển thời gian? Em lo đây là bẫy của Gordon à? Tôi thấy không cần phải lo… Đương nhiên lão sẽ gài bẫy.”

    Mèo đen dường như muốn nói gì đó, đuôi nó cong lên toan viết nhưng lại phát hiện quên mang theo bút, muốn dùng vuốt khắc chữ lại xót cho bàn trà gỗ lê hoa vàng đắt tiền của mình, vì vậy nó cứ nhíu tít mày và đi vòng vòng. Ansbach nhìn mà chịu hết nổi, bèn kéo nó vào lòng, “Ngày mai sau khi khôi phục hình người rồi nói là được chứ gì.”

    Mèo đen “meo~” một tiếng ra chiều đồng ý.

    Nhưng mấy ai đoán được chữ “ngờ”…

    Ngày hôm sau thức dậy, mèo đen phát hiện máu trong người tràn trề năng lượng, nhưng lại không thể biến thành người.

    Ansbach lười biếng nằm dài trên giường, đầu kê lên gối cao chuẩn bị thưởng thức vóc dáng khỏa thân mỹ miều của người yêu, nào ngờ chờ cả buổi trời, nắng sắp chiếu tới mông mà mèo vẫn cứ hoàn mèo.

    “Sao thế?” Anh lấy ngón trỏ khều khều cằm mèo.

    Mèo đen đổ gục xuống giường nằm ngay đơ cán cuốc.

    Ansbach bật dậy, lo lắng ôm lấy nó, “Rốt cuộc là làm sao?”

    Mèo đen nhảy lên rồi nằm dài trên bàn sách, giơ móng cào lên mặt bàn: Không biến được.

    Ansbach biến sắc.

    Mèo đen tiếp tục viết: Bị phép thuật nào đó giam cầm.

    Nhớ tới dòng cuối trong thư Gordon có nhắc đến chuyện phong ấn, sắc mặt của anh trở nên u ám.

    Thấy anh còn khó chịu hơn mình, mèo đen đành lấy lại tinh thần, dùng đôi chân bé xíu dịu dàng vỗ lên mu bàn tay anh tỏ vẻ an ủi.

    Ansbach đấm mạnh lên bàn, một lúc sau lại bắt đầu lẩm bẩm: “Lẽ nào thật sự phải thử chơi dơi mèo?”

    Mèo: “…”

    Dẫu Ansbach có tức giận đến mức nào thì vẫn không thay đổi được một việc: Họ đang rơi vào tình cảnh hết sức nguy hiểm.

    Bị ném về nước Anh, London, năm 1890.

    Oregon tạm thời không thể biến thành người, chỉ đành làm chú mèo đen biết viết chữ.

    Trong vòng ba tháng không quay về 2015, thân thể của Oregon có thể bị thiêu rụi.

    Giả sử còn chuyện gì bi thảm hơn những chuyện kể trên, vậy chắc là chuyện dù có quay về quá khứ nhưng lại không thay đổi được gì.

    Trên dường tới Thư viện Anh, Ansbach luôn thầm hy vọng hai chữ “giả sử” này không bao giờ xảy ra.

    Nhưng hiện thực càng tàn nhẫn hơn những gì họ tưởng. Trong hơn cả vạn quyển sách, muốn tìm một quyển sách không biết tên gì, không biết tác giả, không biết nội dung đúng là quá khó. Mà khó hơn nữa là hai người không biết quyển sách đó có tồn tại hay không.

    Để tiết kiệm thời gian, Ansbach bèn thôi miên nhân viên quản lý.

    “Xoay ngược thời gian? Chỉ có mấy tác giả hâm dở mới nghĩ ra.” Quản lý mơ hồ nói: “Đó là năng lực của Thần.”

    Ansbach: “…Ta muốn biết Thần có những năng lực gì.”

    “Thần không gì là không làm được.”

    “…”

    Cuối cùng, vị quản lý bị thôi miên còn giới thiệu cho họ sang thư viện Tôn giáo.

    Trên đường đến đó, mèo đen bỗng nghĩ ra một chuyện. Nó dùng móng cào lên tấm gỗ xốp Ansbach luôn mang theo bên mình: Thiên sứ.

    Ansbach hiểu ý đáp: “Ý em là vị thiên sứ đóng vai phông nền trên biển?”

    Mèo đen gật đầu.

    Ansbach nói: “Khống chế thời gian không phải là năng lực bình thường, dù có là thiên sứ nhưng không phải ai cũng biết. Thiên sứ đó chỉ có một đôi cánh, địa vị trên thiên đường tuyệt đối không cao.”

    Mèo đen thấy cũng có lý.

    “Nhưng trong ba người có mặt ở đó, khả năng cao nhất chính là y.” Ansbach nói: “Tôi không hy vọng là hai tên còn lại tí nào.”

    Zofie, hừ.

    Gordon, hừ hừ!

    Chương 25: Quá khứ (thượng)

    Hành trình ở thế kỷ 19.

    Vào thế kỷ 19, sức ảnh hưởng của giáo hội tuy không còn như xưa nhưng vẫn có thể nhận ra chút dấu vết của hưng thịnh ngày trước. Trong thư viện của tôn giáo, những tu sĩ vẻ mặt nghiêm trang ra ra vào vào, vô cùng ít giao tiếp với nhau, nhưng mùi nước thánh nồng nặc trên mình họ làm Oregon và Ansbach cau tít mày lại.

    “Nước thánh thời nay tinh khiết hơn một trăm năm sau nhiều nhỉ.” Ansbach nói: “Bọn chúng hao phí quá nhiều thời gian và sức lực một cách không cần thiết trong thánh chiến.”

    Mèo đen “meo~” lên mấy tiếng.

    “Em cũng muốn phát biểu cảm tưởng?”

    Mèo đen cào ra một từ: “Công dụng.”

    Ansbach nói: “Ý em là sự tồn tại của huyết tộc khiến nhân loại phải nhờ cậy vào tôn giáo, Hiệp nghị Đình chiến ngược lại đã làm suy yếu công dụng của giáo hội?”

    Một người một mèo cùng nhau rơi vào im lặng.

    Ansbach lại nói: “Nhân loại đang phát triển theo con đường xưa nay chưa từng có nhưng lại phát triển rất khả quan. Dù tôi có dè bỉu những phát ngôn của Gordon đến mức nào thì vẫn không thể không thừa nhận, máy vi tính rất dễ dùng.”

    Nếu nhà triết học hay xã hội học có mặt tại đây trong lúc này, câu nói của anh có thể khơi mào những tràn tranh luận vô tận, chỉ đáng tiếc, bây giờ chỉ có một huyết tộc buồn hiu và một chú mèo đen ỉu xìu, vậy nên chủ đề nhanh chóng chấm dứt.

    Đợi đến nửa đêm khi cả thư viện chìm vào giấc ngủ, hai người mới rón rén chạy vào nơi cất giữ sách cổ.

    Nhìn gian phòng sạch sẽ sáng loáng, Ansbach nhún vai bảo: “Xem ra không có con chuột nào cho em làm bữa khuya rồi.”

    “…”

    Mèo đen vờ như chẳng nghe thấy gì, tự động nhảy lên một giá sách.

    “Chúng ta bắt đầu từ đâu bây giờ? Theo bản chữ cái? Năm? Hay thể loại? Ơ kìa!” Ansbach kịp thời đỡ lấy một “cục gạch” dày cui rồi vỗ vào người chú mèo suýt bị “núi đè”, “Đừng khiến tôi phải lo lắng có được không?”

    Mèo đen vẫy đuôi ra chiều đã rõ.

    Ansbach kéo nó xuống tầng dưới cùng, “Chỗ này là địa bàn của em, bên trên cứ để tôi.”

    Mèo đen nhìn anh bằng ánh mắt tràn đầy ngờ vực.

    Ansbach đã dùng tốc độ mắt thường khó có thể bắt kịp xem hết số sách trên kệ cao nhất, anh đau khổ bưng trán, “Huyết tộc đi đọc sách do giáo hội viết còn vật vã hơn mèo không được ăn thịt chuột.”

    Mèo đen: “…”

    Hai ngày một đêm, bọn họ cuối cùng cũng đọc xong hết tất cả sách cổ.

    Nhiệm vụ đọc sách nặng nề khiến cả hai không ngủ không nghỉ, thí mạng tận dụng cả ban ngày, khiến người ra vào thư viện cứ nghe tiếng lật sách soạt soạt soạt rõ rệt. Chẳng qua khu sách cổ quá vắng người, ngoài đêm thứ hai có bảo vệ mang đèn đi tuần tra bên ngoài, những lúc khác nơi đây chẳng khác nào hoang đảo.

    Thế nhưng cũng chẳng có tác dụng gì.

    Ansbach tự tin kiến thức về tôn giáo của mình dư sức tham gia cuộc thi khảo hạch giám mục, nhưng vẫn không tìm thấy bất cứ thông tin nào liên quan đến khống chế thời gian. Nếu có thì chỉ là câu nói quản lý thư viện tặng anh hôm nọ:

    “Thần không gì là làm không được.”

    “Thần không gì là làm không được… Câu này hay thật đấy chứ!” Bị giày vò hai ngày, Ansbach có chút nắng mưa thất thường, “Ba mươi sáu tiếng đồng hồ chỉ để chứng minh Gordon là Thần? Còn câu chuyện cười nào tiếu lâm hơn nữa không?”

    Mèo đen lấy chân vỗ đầu anh theo thói quen.

    “Tụi mình làm đi!”

    Giây sau Ansbach đã biến thành dơi, nhìn chằm chằm mèo đen đầy vẻ mong ngóng.

    Mèo đen kêu hoảng một tiếng, nhảy khỏi giá sách và liều mạng phóng ra ngoài.

    Con dơi thong thả đuổi theo, thái độ đắc ý như thể mèo đen đang chạy thụt mạng phía trước đã là bữa tối của nó.

    Chạy tới cuối hành lang, mèo đen bèn giơ vuốt cào cửa nhưng phát hiện không đẩy ra được, chỉ đành hoảng loạn quay lại…

    Con dơi đã biến lại thành người, từng bước từng bước trang nhã tiến đến gần nó. Đèn dầu hai đầu hành lang kéo cho bóng của anh dài ra, cái bóng từ từ nuốt chửng mèo đen.

    Mèo đen đột nhiên nghiêm túc đứng dậy, dù có không đủ chiều cao hay ngoại hình ngộ nghĩnh, nó vẫn cố gắng bày tỏ nguyện vọng được nói chuyện bình đẳng với Ansbach.

    Ansbach cười bảo: “Em không cảm thấy nếu tôi biến thành dơi mình càng dễ giao lưu hơn sao?”
    Hổng dám đâu!

    Mèo đen múa vuốt như định tấn công.

    Mặt Ansbach đanh lại: “Em muốn chiến đấu với tôi?”

    Mèo đen tung người bắn vọt về trước, nhảy đến cạnh chân rồi cọ mặt vào giày của anh, sau đó trở người, để lộ cái bụng mềm mại và kêu meo meo đầy vẻ nịnh nọt.

    Ansbach bồng nó lên, dùng mũi cọ vào bụng nó rồi đặt nó lên vai mình, nói bằng giọng yêu chiều: “Được rồi, lần này tha cho em. Ba tháng bảo dài không dài, bảo ngắn không ngắn, chúng mình phải tìm cách nắm bắt thời gian.”

    Tommy Thompson từ trên giường bật dây, quả cầu lông trên chóp nón ngủ chắn trước mũi gã, khiến gã không thể không hắt hơi mấy cái. Quá quen với lối sống chỉ cần ăn, uống, ngủ, nghỉ và thi thoảng nộp vài báo cáo nhỏ, đây là lần đầu tiên gã bị thức giấc vào nửa đêm nửa hôm.

    Một chiếc khăn tay xuất hiện trước mặt gã, gã nhận lấy xì mũi rồi buột miệng: “Cảm… Á! Ai?!”

    Ansbach rất chu đáo, anh bật đèn giúp và còn rót cho gã một ly nước, “Uống chút nước rồi nói từ từ.”

    Tommy lôi thánh giá trong áo ngủ ra giơ lên trước mặt mình, “Đừng lại gần tôi, bằng không tôi sẽ không khách sáo với anh đâu!”

    Ansbach đặt ly nước xuống, giơ tay lên tỏ vẻ vô tội rồi chầm chậm lùi lại ba bước, “Ta là huyết tộc.”

    “Ối, Thần của tôi ơi!” Tommy đẩy cửa sổ toan phóng ra.

    Vị huyết tộc sau lưng chợt nhắc nhở: “Chỗ này là lầu bốn, cậu mang dù chưa đấy?”

    Tommy nhanh chóng đóng cửa sổ lại, lần mò lục tìm thánh giá trước ngực, “Tí nữa quên mình sợ cao.”

    “Ta không có ác ý…”

    Tommy chợt rên lên: “Ôi, Thần của tôi ơi… Trước khi huyết tộc làm bậy đều nói câu này.”

    Ansbach: “…”

    Tommy càng khóc càng bi thảm, “Tôi mới lên làm quản lý thư viện được ba tháng… Hu hu, lương tháng này còn chưa được phát. ‘Thần cố’ còn mới đọc có ba chương… Sớm biết có ngày này đã lật về sau đọc ngược lên trước. Còn có luận văn của tôi, tôi đã sắp xếp xong đại cương rồi, hu hu, còn hứa sẽ đưa cho giáo hoàng đọc.”

    Ansbach nói: “Ta chỉ muốn hỏi vài vấn đề liên quan đến Thần.”

    “Tôi không biết gì hết.” Tommy ngồi xổm trên giường, sợ hãi ôm chặt đầu, nước mắt nước mũi tèm lem.

    Ansbach hỏi: “Ai có thể khống chế thời gian?”

    Tommy buột miệng đáp: “Thần.”

    Ansbach nói: “Còn ai nữa? Ví dụ như thiên sứ?”

    Tommy vừa thút thít vừa nói: “Anh hỏi mấy cái này làm gì?”

    Ánh mắt Ansbach lướt qua quyển sách và luận văn đặt trên đầu giường, “Để… Viết luận văn.”

    Tommy ngây người, “Huyết tộc cũng cần viết luận văn?”

    Ansbach nói: “Ừ, sát hạch mỗi năm một lần.”

    Tommy đáp: “Đây là phát hiện trọng đại à nha!” Gã lập tức chụp bút viết lia lịa, “Tại sao các người cần phải viết luận văn? Về đề tài nào? Có yêu cầu hình thức gì không? Công bố ở đâu?”

    Nụ cười của Ansbach càng lúc càng đơ, ung dung vuốt ve chú mèo trong lòng.

    Hay anh cứ thử thôi miên cho lẹ?

    Tuy có khả năng vẫn sẽ thất bại nhưng nếu không làm gì đó, có lẽ anh bị “thôi miên” mất thôi.

    Tommy lải nhải cả tràng dài, phát hiện đối phương không có phản ứng thì mới thấy xấu hổ, “Hồi nãy anh hỏi ngoài Thần còn có ai làm được chuyện này sao? Tuy không chắc lắm nhưng có một quyển sách viết thế này: Núi lửa đột nhiên phun trào, người dân không có chỗ trốn nên đành cầu xin Thần giúp đỡ. Sứ giả của Thần đang xây dựng thế giới, người nghe thấy tiếng khóc than thì cho thời gian ngừng lại, dời nạn nhân đi nơi khác.”

    Ánh mắt Ansbach lóe lên, “Sứ giả của Thần là ai?”

    Tommy nói: “Tể tướng của thiên đường, Metatron.”

    Thiên sứ bên cạnh Gordon chính là Metatron?

    Chuyện này nực cười hệt như bảo Gordon là Thần. Nếu Gordon có thể chỉ huy Metatron thì có khác gì với Thần đâu?

    Các bạn đang đọc truyện đam mỹ hài DMH tại dammydmh.com

    Tuyệt đối không có khả năng!

    Ansbach nói: “Nhất định có đáp án khác.”

    Tommy không vui bảo: “Anh dám nghi ngờ câu trả lời của tôi?”

    Ansbach nói: “Lẽ nào cậu dám bảo mình tường tận hết tất cả những điều huyền bí trong chín giới?”

    “Chín giới?” Tommy nói: “Lẽ nào những gì trong sách nói là thật ư? Thần tạo ra chín giới, bọn tôi chỉ là một trong số đó?”

    Ansbach hỏi tiếp: “Còn có cách nào khống chế thời gian không?”

    Tommy tưởng anh có mưu đồ khác nên kiên quyết phủ định khả năng đó, “Khống chế thời gian cũng đồng nghĩa với việc khống chế quá khứ, hiện tại và tương lai. Nếu người nắm giữ sức mạnh ấy mà có lòng dạ xấu xa thì chẳng phải thế giới sẽ loạn hết cả lên sao.”

    Đúng.

    Thế giới loạn rồi.

    Ansbachh nói: “Thế có cách nào mượn sức của Thần hoặc Metatron không?”

    Có lẽ cử chỉ của Ansbach quá giống con người nên Tommy cũng chẳng còn mảy may cảnh giác, gã phì cười bảo: “Anh tưởng sức mạnh của Thần là sách trong thư viện à?”

    Mấy câu hỏi trừu tượng thế này rất khó có được đáp án.

    Ansbach yêu cầu được xem tất cả những quyển sách liên quan đến Thần và Metatron.

    Tommy nói: “Xem hết sách trong thư viện đi. Chỗ này là thư viện Tôn giáo, đều là quà tặng của Thần.”

    “…”

    Vì để giảm lượng công việc, Ansbach chọn cách tìm sách về Metatron trước, nhưng kết quả lại ít đến bất ngờ.

    Tommy nói: “Trong bảy đại thiên sứ, người là vị khiêm tốn nhất.” Ngừng một lúc gã tiếp: “Tạo hình lại nhiều hơn những thiên sứ khác.” Gã lấy một quyển sách vừa dày vừa nặng đặt lên bàn, lật ra trang thứ nhất thì nhìn thấy thiên sứ tóc vàng mặt mũi mơ hồ. Trên lưng người ấy là mười mấy đôi cánh, trông hệt như những dãy núi tuyết áp sát vào nhau.

    Ansbach thấp giọng bảo: “Tóc vàng, mắt xanh.”

    Tommy nói: “Còn có mười tám đôi cánh.”

    Ansbach hỏi: “Cánh của thiên sứ có rụt vào được không?”

    “Đương nhiên, chắc cũng linh hoạt như cổ tay mình nhỉ. Dù chưa gặp thiên sứ nhưng chắc anh từng nhìn thấy chim chứ?”

    “Ý ta là giấu hẳn vào, không ai nhìn thấy.”

    Tommy nghẹn lời. Gã có gặp được thiên sứ bao giờ đâu, làm sao biết trả lời thế nào. Có điều để thể hiện mình học thức sâu sắc, gã nói bằng giọng khinh miệt: “Anh thử giấu bộ phận cơ thể nào vào trong xem xem!”

    Ansbach hé miệng để lộ răng nanh rồi nhanh chóng thu chúng vào.

    Tommy: “…”

    Ansbach thoáng cái đã đọc xong.

    Thấy anh nhắm mắt trầm ngâm, Tommy vui mừng nói: “Nhất định là anh được người dẫn dắt rồi đúng không? Metatron là thiên sứ tôi sùng bái nhất! Người cao thượng, nhân từ, khoan dung, kỷ luật, liêm khiết, chính trực, sáng suốt, thông tuệ…”

    “Có khi nào bị lừa không?”

    “Không đời nào!” Tommy nổi giận. Muốn phá đám hả?

    “Meo.” Mèo đen dùng chân lật sang một trang, chính là trang có bức họa của Metatron.

    “Coi chừng vuốt của mày! Sách hiếm không phát hành lại đâu!” Tommy lo lắng đưa tay ra muốn hất nó ra nhưng lại bị Ansbach hất tay ra trước.

    Ansbach ngăn Tommy, cúi đầu vuốt đầu mèo đen và dịu dàng hỏi: “Phát hiện gì ư?”

    Mèo đen dùng chân vỗ lên bức họa.

    Ansbach liếc một cái rồi nhướng mày, “Chỉ có bốn đôi cánh.”

    Chương 26: Quá khứ (trung)

    Hành trình ở thế kỷ 19.

    Đây chẳng phải chứng minh cánh của thiên sứ có thể giấu vào ư?

    Cũng đang gián tiếp đề cao khả năng thiên sứ Gordon thu phục chính là Metatron?

    Ansbach cảm thấy Malkavian làm sao xứng với danh “điên” cho được, cái thế giới này chẳng phải còn “điên” hơn sao.

    Tommy đứng trong cái bóng của anh, vỗ vai anh, cuối cùng nhịn hết nổi mới nói: “Chuyện này có nguyên nhân đấy.”

    “Ta đang nghe đây.”

    “Truyền thuyết kể rằng vào thời kỳ thế giới đang được kiến tạo, các lục địa không ổn định lắm, để tránh cho các lục địa sụp đổ, tan rã thành những hòn đảo nhỏ, Thần chôn dưới các lục địa mười bốn cọc gỗ. Cũng có người nói đó chính là mười bốn đôi cánh của Metatron.”

    Ansbach nói: “Có khả năng. Cánh chính là biểu tượng cho sức mạnh của thiên sứ. Sau khi các thiên sứ bốn cánh và sáu cạnh sa đọa, Thần thu hồi những đôi cánh thừa thãi, chỉ để lại một đôi với hy vọng khi biết sai, bọn họ sẽ dùng đôi cánh ấy để quay về thiên đường.”

    Tommy đau xót nói: “Đáng tiếc đọa thiên sứ bị sức mạnh tà ác xâm chiếm, càng lúc càng cách xa thiên đường.”

    Mắt Ansbach lóe lên, nảy ra một suy nghĩ, “Nếu có người tìm được cánh của Metatron, có phải sẽ sử dụng được sức mạnh của người hay không?”

    “Không thể nào!” Tommy phủ định.

    “Tại sao?”

    Tommy đáp: “Răng của anh rụng rồi còn dùng được không?”

    Ansbach đáp: “Sao lại không?” Vẫn cứng rắn như cũ à nha.

    “…” Tommy sợ huyết tộc nảy sinh ý định không hay với cọc gỗ nên vẫn kiên trì khuyên: “Nếu dễ để người khác dùng như vậy thì nhân giới đã sớm nát như tương.”

    Ansbach nói: “Nghe đồn thế giới ban đầu vốn chỉ có một khối lục địa, hiện tại… Từ ‘nát như tương’ này cũng đúng ấy chứ?”

    Tommy nghẹn họng.

    Ansbach càng nghĩ càng thấy mình đi đúng hướng. Bất kể có phải Gordon đã lợi dụng cánh của Metatron để xoay vần thời gian hay không thì anh vẫn có thể dùng cách đó để đưa mình về tương lai!

    “Đi đâu để tìm được mười bốn đôi cánh đó?”

    Một tên huyết tộc nắm giữ thời gian để làm cái gì?

    Dẫn cả đội quân trở về tham gia thánh chiến?

    Hay là đốt sạch Adam lẫn xương cốt của người trước khi Eva được sinh ra?

    Dù sao chắc chắn chẳng phải để tham quan kỷ băng hà đúng không?

    Tommy thấy máu trong người như chảy ngược. Gã tự trách mình không biết giữ mồm giữ miệng gây ra họa lớn, vì vậy bèn phẫn nộ từ chối: “Tôi sẽ không để lộ nửa chữ! Anh đừng hòng tìm được chúng!”

    “Ta vì viết luận văn mà thôi.”

    “Đừng có gạt tôi, trông anh còn chả bịa nổi đề tài luận văn nữa là!”

    Ansbach nhìn mèo đen, mèo đen thè lưỡi bày tỏ không giúp được gì, “E hèm, ‘Bình luận về ảnh hưởng sức hút trái đất đối với cánh của thiên sứ’ có được không?”

    “Cảm giác bịa đặt qua quýt quá.”

    Tức là rượu mời không uống muốn uống rượu phạt. Nụ cười của Ansbach lạnh dần, “Hình như ta còn chưa tự giới thiệu bản thân?”

    Tommy kiên quyết không nhảy vào tròng, “Nếu anh không bị suy não thì chắc anh vẫn còn nhớ lúc mới vào anh có tự giới thiệu mình là huyết tộc.”

    “Nhưng đâu có nói là gia tộc nào của huyết tộc nhỉ.”

    Linh cảm không lành!

    Tommy tự lừa dối bản thân, “Tôi không muốn biết đâu!”
    Ansbach khoe ra hai chiếc răng nanh đối xứng và cười hiền dịu, “Lúc thánh chiến từng ra sức giúp đỡ giáo hội đấy.”

    Tưởng gã khùng hả? Huyết tộc ra sức trợ giúp giáo hội trong thánh chiến?

    Tommy lắc đầu bảo: “Lôi kéo quan hệ cũng vô dụng, tôi không nói với anh đâu.”

    “Malkavian.”

    “Ôi không!” Tommy đập đầu vào bàn.

    Ansbach thương hại hỏi tiếp: “Có cần nói thêm một tin tốt không?”

    Tommy đáng thương giương mắt nhìn anh.

    Ansbach nhếch miệng cười, “Hiện tại tâm trạng của ta không tồi, sẽ không giày vò cậu thảm lắm đâu. Ít ra không rút xương sườn của cậu ra như Thần đã từng làm.”

    Tommy thấy tay anh đang từ từ vươn tới cổ mình thì cả kinh nói: “Khoan đã! Tôi thật sự không biết mười bốn cọc gỗ đang ở nơi nào. Làm sao Metatron lại báo mộng cho tôi biết mấy chuyện này được.”

    Ansbach nói: “Ngại quá, đáp án này ta không chấp nhận.”

    “Nhưng mà!” Tommy nuốt một ngụm nước bọt, “Thầy của tôi biết nhiều hơn tôi. Có lẽ thầy sẽ cho anh một đáp án hay hơn.”

    “Thầy của cậu ở đâu?”

    “Tòa thánh trung ương.”

    “Ha ha.” Anh không ngại đi thăm tòa thánh trung ương một vòng nhưng không phải là bây giờ.

    “Nhưng mà!” Tommy nhanh chóng nói: “Hai ngày trước thầy vừa tới London tổ chức hội nghị.”

    Ansbach cười vui vẻ, “Tham gia hội nghị đúng hẹn là thói quen tốt.”

    Mèo đen liếc anh một cái. Không biết vị nghị viên nào thường vô cớ trốn họp.

    Như cảm giác được ánh mắt của nó, Ansbach che mắt nó lại rồi ôm nó vào lòng, “Trong lúc tôi không biết gì cả thì em biết được nhiều chuyện đấy chứ.”

    Mèo đen đơ.

    “Đợi hai đứa mình rảnh rỗi sẽ thanh toán từng chuyện một nhé.” Anh vừa mỉm cười vừa đặt lên tai nó một nụ hôn vô cùng dịu dàng.

    Tommy thầm cầu nguyện với Thần: Huyết tộc họ Malkavian đúng là biến thái, không ngờ còn đi ăn hiếp cả mèo nhà mình! Còn là mèo đực nữa chứ! Hy vọng cái lưỡi dẻo quẹo của thầy có thể xua tan ý xấu của hắn, để mười bốn cọc gỗ yên ổn ở nguyên vị trí ban đầu.

    John White từ trên giường ngồi bật dậy, quả cầu lông trên chóp nón ngủ chắn trước mũi ông, khiến ông không thể không hắt hơi mấy cái.

    Ansbach: “…” Hết khăn tay để dùng, anh bèn kéo tay áo Tommy đưa đến trước mặt ông lão.

    John lấy tay áo xì mũi rồi hít vào và nói: “Cảm ơn! A… Anh là ai?!”

    Ansbach biết điều lùi ra sau ba bước.

    Tommy tiến lên một bước, thuật lại đầu đuôi mọi chuyện cho vị thầy gần tám mươi tuổi của mình.

    “Cái gì?” John thét lên chói tai: “Con đã tiết lộ tung tích của mười bốn cây cọc gỗ với hắn ta?”

    “Không, con không có ạ.” Chợt thấy sau lưng ớn lạnh, Tommy vội vã sửa lời: “Nhầm! Nào có ạ, vốn con đâu có biết!”

    “Ý con là nếu biết con đã tiết lộ với huyết tộc – Kẻ thù của chúng ta rồi ư?”

    “Không, con không có ý đó.”

    Còn chưa vào đề hai thầy trò đã sa vào đấu khẩu không có hồi kết, từ chỉ trích từ một phía thăng cấp thành oán trách lẫn nhau với tiết tấu điên cuồng. Thấy mọi chuyện càng lúc càng căng, không thể khống chế, John lôi tuyệt chiêu “sắp tắt thở” ra dùng và giành được thắng lợi.

    Nhìn gương mặt não nề của Tommy, John đắc ý vén chăn xuống giường, “Ủa? Huyết tộc con dẫn đến đâu?”

    Tommy đáp: “Con mới thấy họ đi về phía nhà bếp.”

    John ngờ vực hỏi: “Họ xuống bếp làm cái gì? Thức ăn hợp khẩu vị họ trong căn nhà này chẳng phải chỉ có hai thầy trò chúng ta sao?”

    Tommy: “…”

    Nhà bếp rất yên tĩnh.

    Ansbach dùng dao ăn xén mẩu bơ nhẹ nhàng phết lên sandwich, sau đó cắt sandwich thành từng miếng nhỏ, đút cho mình một miếng, mèo đen một miếng, mình một miếng…

    Trông hình ảnh ấm cúng của họ, John và Tommy thấy nổi hết cả da gà.

    Ansbach đột nhiên ngẩng đầu lên, “Các người muốn ăn không?”

    Tommy vô thức lắc đầu, “Không, hai vị từ từ dùng.” Dù bóng đèn đã được phát minh nhưng nghĩa bóng vẫn chưa phổ biến rộng rãi, Tommy đương nhiên không biết vì sao mình lại vô thức lắc đầu.

    John nhẹ giọng kháng nghị: “Đó là bữa sáng của tôi.”

    Ansbach đáp: “Cảm ơn.”

    “Chẳng kính lão tí nào.” John làu bàu.

    Ansbach mải mê thưởng thức dáng vẻ quyến rũ khi mèo đen dùng lưỡi liếm mép, lơ đãng nói: “Ông có chắc ông muốn thảo luận chuyện tuổi tác với ta không?”

    John đáp: “Không, tôi đang muốn thảo luận trạng thái của sinh mạng. Tôi sắp phải vào quan tài.”

    Ansbach nói: “Với trạng thái sinh mạng của ta, ta lúc nào cũng sẵn sàng vào quan tài nằm.”

    John nhìn Tommy bằng ánh mắt không dám tin, “Có phải thầy vừa thảo luận chuyện vào quan tài nằm với một tên huyết tộc không?”

    Tommy đáp bằng giọng đồng tình: “Con có thể cắt bỏ đoạn ký ức này.”

    John hắng giọng rồi quay sang bảo với Ansbach: “Đi thôi.”

    Ansbach nhướng mày.

    “Anh có thể mang theo bữa sáng của tôi đi cùng.” John xoay lưng bỏ đi, quả cầu lông đánh một vòng cung trên không và đập vào mặt Tommy, sau đó vênh váo đi về phía trước hệt như chủ nhân của nó.

    Tommy hít sâu một hơi và nhanh chóng đi theo.

    John mang đèn dầu xuống kho sách dưới tầng hầm nhưng không nghe thấy tiếng động gì sau lưng thì khó chịu quay đầu lại hỏi: “Sao hắn ta còn chưa theo xuống?”

    Tommy chỉ về phía trước.

    John quay ngoắt lại, nhìn thấy đối tượng mình vừa mới than phiền đang chiếm cứ chiếc ghế của mình, ôm mèo dịu dàng vuốt ve nó. Khóe miệng ông lão giật nhẹ, vờ như chẳng có việc gì, thản nhiên gác đèn dầu lên tường rồi bước đến trước giá sách, rút quyển bút ký giữa đống sách dày cộm đưa cho Ansbach.

    “Đây là cái gì?” Ansbach giở sách ra xem, bên trong là mấy hình vẽ kỳ lạ.

    John nói: “Nắm giữ thời gian chẳng khác nào nắm giữ cả thế giới. Đây là lời của chủ nhân quyển bút ký.”

    Ansbach lật qua trang bìa, nhìn thấy một cái tên quen thuộc: Gordon Turner.

    “Kẻ điên muốn nắm bắt điều huyền diệu khi khống chế thời gian không chỉ có mình anh, ít ra tên hắc vu sư này cùng chung chí hướng với anh. Anh có thể xem bút ký của gã, biết đâu có thể tìm ra chút gợi ý.” John vờ nhơ không thấy ánh mắt ám hiệu của Tommy, “Nhưng tôi phải nhắc nhở anh, có khả năng hắc vu sư này không còn trên đời nữa. Suy cho cùng ham muốn giành được quyền lực của Thần chẳng khác nào đi tìm cái chết.”

    Ansbach nhanh chóng lướt hết bút ký, “Lão ta chưa chết.”

    John cả kinh hỏi: “Anh quen biết ông ta?”

    “Hơn nữa thí nghiệm của lão rất có thể đã thành công.”

    John hốt hoảng hô lên: “Không thể nào!”

    Ansbach không nói ra chuyện mình đến từ tương lai, quen hệ giữa anh và giáo hội còn chưa tốt đến mức không giấu diếm chuyện gì, “Lão ta có thể sử dụng phép đóng băng thời gian.” Anh xuyên tạc sự thật, “Ta muốn tìm ra nguyên nhân và cản trở lão ta.”

    John không tin lời anh, hoàn toàn không tin. Giáo hội thế kỷ 19 chưa bước vào giai đoạn hòa bình lâu dài với huyết tộc, hai bên vẫn mang địch ý và cảnh giác với nhau. Ông nói: “Nếu vậy tôi đây không giúp được gì. Tôi cũng không biết vị trí mười bốn cọc gỗ ở đâu.”

    “Được thôi.” Ansbach bồng mèo đứng dậy, trong nháy mắt biến mất khỏi tầng hầm khiến John và Tommy trở tay không kịp.

    Jonh đột nhiên kêu lên: “Hỏng bét!”

    Chương 27: Quá khứ (hạ)

    Hành trình ở thế kỷ 19.

    Ông chạy vội lên lầu, quả nhiên nhìn thấy mớ sách mình khổ công sưu tầm bị Ansbach lục tung cả lên.

    Ansbach nhét quyển sách mình cần vào lòng rồi mỉm cười với John, “Cảm ơn.”

    John nói: “Không! Anh không được đi!”

    Ansbach nói: “Ngại quá, tầng hầm của ông không nhốt được ta nên không thể hoàn thành di nguyện muốn hi sinh cái tôi của các người được.”

    John sợ hãi hỏi: “Sao anh biết được?”

    Ansbach nói: “Ta đã sớm xuống tầng hầm nhà ông xem qua tất cả số sách trong đó một lần, không tìm thấy bút ký của Gordon. Tức là ông mang nó từ trên lầu xuống. Tại sao ông lại muốn dẫn ta vào tầng hầm? Có hai khả năng. Một là để đánh lạc hướng ta, một là để nhốt ta lại. Ta đoán cả hai khả năng đều đúng. Vì vậy ta đã lục soát phòng ông, tìm thấy những quyển sách và bút ký ông thường đọc để dưới giường. Nghĩ cũng phải, ông đã bước vào độ tuổi đáng được ‘kính lão’, không thể nào cứ chui xuống tầng hầm lấy sách.”

    John nói: “Chúng ta đã ký Hiệp nghị Đình chiến! Anh không thể phá hoại trước!”

    Ansbach vô tội nói: “Ta phá hoại cái gì?”

    “Anh trộm bút ký của tôi!”

    “Bảo giáo hoàng cứ kiện ta tội trộm cắp đi.”

    Anh mỉm cười biến mất trong tràng rít gào điên cuồng của John.

    Không thể không khen số Ansbach đỏ, hình như sau khi quay về thế kỷ 19, tất cả đều thuận lợi.

    Lúc Tommy dẫn Ansbach đến tìm John, gã nào ngờ John lúc trẻ từng vì bút ký của Gordon mà nghiên cứu về Metatron, thậm chí còn điều tra tung tích cọc gỗ, dù thất bại nhưng lại cung cấp cho Ansbach một tin vô cùng hữu dụng:

    Bản đồ của cọc gỗ.

    Dùng những câu chữ lẻ tẻ ghi chú cùng với sự tưởng tượng của bản thân để vẽ ra bản đồ.

    Mèo đen kích động kêu lên, nhanh chóng hất gã ván gỗ hí hoáy cào cào, nhưng để rồi phát hiện ra bi kịch: Móng mình bị mòn.

    Nghe tiếng kêu đáng thương của mèo đen, Ansbach tâm trạng đang vui nên có lòng tốt đưa cho nó một cây bút lông đã thấm mực.

    Mèo đen muốn dùng đuôi quấn bút nhưng cứ hết lần này đến lần khác làm lọt bút, Ansbach vui vẻ cười vang không ngớt.

    Mèo đen lẳng lặng đi đến bên cửa sổ, ưu thương ngẩng đầu nhìn trời.

    Sinh vật trong chín giới nhiều như vậy, cần nhan sắc thì có tinh linh, cần dễ thương thì có người lùn, cần huyền bí thì có vu tộc, cần vóc dáng thì có người sói, cần cái gì cũng có thì tìm thiên sứ và đọa thiên sứ đấy! Mắc chi y lại gặp phải tên Ansbach kia!

    Hơn nữa không yêu đương không được!

    Nhớ lại những ngày tháng bị đuổi giết, y thật sự kìm lòng không đặng chảy cả vũng nước mắt đồng tình cho bản thân.

    Bóng ngược dưới cửa sổ lại xuất hiện thêm một cái. Ansbach ngồi xuống sau lưng nó, hai chân bắt chéo, nhẹ nhành khều khều chân mèo ta, “Em hối hận vì đã yêu tôi?”

    Mèo đen cố gắng lắc đầu.

    Ansbach nói: “Vậy là hối hận đã gặp được tôi.” Sau khi người yêu biến thành mèo, anh tranh thủ thời gian nghiên cứu cách đọc suy nghĩ qua ánh mắt, nhờ vào sự ăn ý về mặt tinh thần, thông thường đều đoán được chính xác tám, chín mươi phần trăm.

    Mèo đen hơi do dự nhưng vẫn lắc đầu. Bỏ đi, chuyện đã thế này thôi thì cứ lo yêu đương sống qua ngày. Loại người như Ansbach ngoài mình ra còn ai có thể nuốt nổi chứ.

    Mình quả nhiên oách xà lách quá đi!

    Mèo đen tự hào lúc lắc cái đuôi.

    Lửa giận của Ansbach đã dâng cao trong lòng, nhưng nhìn vẻ mặt của mèo ta thì cố đè nén, kìm lòng không đặng vuốt ve lưng nó, sau đó lại cúi đầu hôn hít, một lát sau mới nói: “Tôi còn nhớ rõ lần đầu tiên chúng ta gặp nhau.”
    Mèo đen dựng thẳng lỗ tai. Lẽ nào bị tiếng sét ái tình với mình? …Khó trách. Tuy mình không phải kiếm cơm nhờ cái mặt nhưng vốn liếng vẫn đủ xài.

    Ansbach nói: “Tôi nghĩ, tên này nhất định là kẻ ăn bám.”

    Mèo đen: “…”

    Ansbach tiếp: “Nào ngờ không phải.”

    Mèo đen: “…” Nhất định là do sự tương phản rõ rệt giữa ấn tượng đầu và thực lực của y khiến anh trầm luân trong lưới tình.

    Ansbach liếm môi một cái, “Vừa gian xảo vừa nhạy cảm, đuổi giết chắc sướng lắm!”

    Mèo đen: “…” Cái này gọi là vừa linh hoạt vừa sắc bén.

    Ansbach im lặng ngắm bầu trời đen thẳm bên ngoài cửa sổ, dường như đang mải đắm chìm trong hồi ức, lâu đến nỗi mèo đen phải đổi tư thế nằm xuống, anh mới nói bằng giọng xa xăm: “Sau đó không muốn giết nữa mà muốn đè.”

    Mèo đen: “…” Không muốn giết mà sao y chẳng cảm nhận được tí nào vậy! Trăm phần trăm đúng kiểu không cho đè là giết!

    Ansbach nói: “Thật ra lúc đó tôi không ngờ em nhanh chóng chịu phối hợp như vậy.”

    Hoa cúc của mèo đen thắt lại, nó vội cuộn đuôi lót dưới mông.

    Hồi ức đã đời, Ansbach mới ngồi dậy đem mực đến đặt trước mặt nó: “Viết lên sàn nhà đi, chốc nữa tôi chùi móng cho em.”

    Mèo đen nhìn anh bằng ánh mắt hoài nghi, không biết anh giấu mực ở chỗ nào trên người.

    “Tôi còn giấu nhiều thứ trong người lắm, em muốn xem không?” Dứt lời, Ansbach từ trong lòng lấy một góc vải, sau đó từ từ rút ra thành tấm áo choàng màu xám đậm.

    Mèo đen: “…” Ngực tên kia bị trũng sao? Bởi vậy giấu bao nhiêu thứ cũng không bị phát hiện.

    Ansbach nói: “Lúc rời khỏi nhà gỗ thuận tay cầm theo, tránh khi em hồi phục hình người lại phải khỏa thân.”

    Có huyết tộc làm người yêu đâu đến nỗi nhỉ?

    Ít ra lúc không lên cơn điên cũng chu đáo lắm chứ.

    Nhớ lại vẻ mặt dịu dàng khi người ta đút bánh bao cho mình ăn, mèo đen tạm thời không thầm oán trách nữa, nhún vuốt vào mực viết lên sàn nhà: Từng nhìn thấy.

    Ansbach ngẩn ra: “Nhìn thấy? Em từng nhìn thấy cọc gỗ? Ở đâu?”

    Mèo đen thong thả viết năm chữ cái:

    CHINA.

    Nhìn từ đơn này xong, Ansbach rơi vào im lặng. Anh bồng mèo lên, dùng bông gòn thấm nước từng chút một lau sạch mực dính trên đệm chân mèo cưng.

    Những đường nét trên mặt anh vốn rất sắc sảo, vô cùng đạt tiêu chuẩn điển trai truyền thống, lúc không nói gì trông càng lạnh lùng, cương nghị.

    Mèo đen liếm liếm má anh.

    Ansbach nghiêng đầu hôn nó.

    Mèo đen cuộn người lại, ngoan ngoãn nằm trong lòng anh.

    Một lúc lâu sau Ansbach mới mở miệng: “Vẫn chưa hỏi em, năm 1890 đến Trung Quốc để làm gì vậy?”

    Mèo đen vẫy đuôi đầy vẻ lười biếng, lúc anh nhìn nó, nó liền nhắm mắt lại.

    “Vẫn không muốn nói sao?” Lạ thay Ansbach lại không nổi giận, anh chỉ nhè nhẹ vuốt ve lông mèo, “Em nói xem lần này trở về quá khứ có phải là cơ hội chuộc tội Thần ban cho tôi không? Bằng không sao có thể trùng hợp như vậy, hết lần này đến lần khác hướng chúng ta đến Trung Quốc?”

    Ansbach và Oregon của năm 1890 đều ở Trung Quốc.

    Còn hiện tại, Ansbach và Oregon của năm 2015 cũng cần phải đến Trung Quốc.

    Khác nhau ở chỗ, Ansbach năm 1890 chìm trong hận thù.

    Còn Ansbach năm 2015 lại chìm trong hối hận.

    “Bất kể thế nào, tôi cũng sẽ ngăn cản mình trước đây, sau đó dẫn em quay về với thời đại chúng ta nên ở!”

    Trong lòng Ansbach như đang có ngọn lửa rực cháy, cả người tràn trề năng lượng.

    Giờ phút này anh chẳng còn hận Gordon tí nào.

    Nếu không phải nhờ Gordon, sao anh có thể quay về quá khứ, cứu vãn những sai lầm mình đã phạm phải?

    Mèo đen cảm thấy chuyện này không hề đơn giản nhưng trông dáng vẻ tràn ngập tự tin của Ansbach, nó chỉ đành tạm giấu lo lắng trong lòng.

    Trung Quốc của thế kỷ 19 hệt như một mỏ vàng khổng lồ, thu hút các nước châu Âu dùng mọi thủ đoạn khai thác. Muốn đi nhờ thuyền từ Anh đến Trung Quốc không phải chuyện khó, chỉ mỗi cái thời gian quá dài, vì vậy chỉ đành đi xuyên lục địa.

    Chuyện này với huyết tộc mà nói…

    Đương nhiên không phải quá khó.

    Pháp, Thụy Sĩ, Ý, Hy Lạp… Cứ đi thẳng về hướng đông.

    Theo kế hoạch ban đầu Ansbach dự tính chỉ cần nửa tháng – Đây đã là cách tính khá thoải mái. Thế nhưng kế hoạch vẫn không tránh khỏi có biến. Ansbach không thể nào ngờ, có ngày mình lại bị lạc, đường!

    Lúc đó trong tay anh không có bản đồ chi tiết… Vậy nên không thể nào không tốn phần lớn thời gian để đi tìm đường.

    Đợi khi hai người đến được Trung Quốc đã là chuyện của một tháng sau.

    Ansbach bắt đầu sốt ruột. Dọc đường có vài lần anh nổi trận lôi đình nhưng để tránh giận cá chém thớt tổn thương mèo đen, lúc nào anh cũng lẳng lặng bỏ đi chỗ khác trút giận, sau đó mới lẳng lặng trở về. Anh không nhắc tới, mèo đen cũng vờ như không biết.

    Thời gian mỗi lúc một ít dần, tâm trạng của Ansbach bắt đầu mất kiểm soát, số lần nói chuyện càng lúc càng ít, phần lớn thời gian chỉ im lặng ôm mèo, vuốt mèo, hôn mèo…

    Có vô số lần mèo đen cảm thấy dường như đôi mắt chú dơi ngủ cạnh còn xanh rì hơn cả mắt mình.

    Khó lắm mới tới Trung Quốc, cả Ansbach và mèo đen đều thở phào nhẹ nhõm.

    Sau đó, Ansbach phát hiện, đến Trung Quốc rồi vẫn bị lạc đường!

    Cũng may trước khi anh kịp biến thành núi lửa di động, hai người họ gặp được một buôn. Đội buôn này vô cùng nhiệt tình với họ, vì vậy Ansbach cho rằng họ định đánh cướp, cố tình yên tĩnh cả đêm đợi “tai nạn” ập tới, nhưng mà… Chẳng xảy ra chuyện gì.

    Đội buôn để lại hai người gác đêm rồi say giấc nồng, chẳng có dấu hiệu như muốn nửa đêm thức giấc giết người cướp của.

    Ansbach vừa thấy yên tâm vừa thấy buồn chán, may sao dọc đường xuất hiện mấy tên cướp không có mắt để anh tiện tay giải quyết. Cả đội buôn đều hết sức biết ơn Ansbach, vài võ sư trong đội còn cố ý tìm anh so tài, tất cả đều bại chỉ trong một chiêu. Bọn họ chỉ tưởng võ thuật của người ngoại quốc đặc biệt chứ không thấy có gì bất thường.

    Từ đó về sau cả đội buôn càng tỏ ra o bế Ansbach, cả mèo đen cũng được hưởng sái, được chiều chuộng đến tận trời.

    Tới tỉnh Ngọc Lâm đôi bên chia tay, đội buôn muốn xuống nam, còn Ansbach nghe theo lời mèo đen chọn đường đi Thái Nguyên, muốn đến kinh đô.

    Trước khi đi, đội buôn còn tặng Ansbach một ít tiền bạc.

    Ansbach nhận lấy. Kinh nghiệm đau thương đã dạy anh nhiều bài học đường đời, anh không muốn một lần nữa lâm vào cảnh khốn cùng phải dùng tiền Ai Cập ở nước Anh.

    “Tiếp theo tụi mình phải tìm người dẫn đường.” Anh tự lẩm bẩm rồi cầm theo tiền, bắt đầu dùng thứ tiếng Trung đơn giản đi khắp phố lớn ngỏ nhõ “buôn người”.

    Chương 28: Thân phận (thượng)

    Chẳng lẽ tình địch của mình lại là mình?

    Mang gương mặt người nước ngoài lại không nói tiếng Trung lưu loát, con đường tuyển người của Ansbach khá là gập ghềnh. Sau đó mèo đen chịu hết nổi đành phải giành quyền dẫn đường.

    Ansbach nửa tin nửa ngờ, “Em từng tới đây?”

    Mèo đen kiêu ngạo ưỡn ngực.

    “Lần trước em không phải ngồi thuyền đến? Thế em đến bằng cách nào?” Ansbach ôm nó vừa gấp rút lên đường vừa hỏi.

    Mèo đen giơ hai chân trước lên vẫy vẫy mấy cái.

    “Bay?” Ansbach hỏi: “Thời đại này có máy bay? Tôi tưởng phải đợi mười ba năm nữa.”

    Mèo đen lắc đầu, nhắm mắt lại rồi quạt quạt chân.

    Sóng điện não của Ansbach rốt cuộc cũng bắt kịp, “Xe dơi?”

    Mèo đen gật đầu.

    Ansbach im lặng một lúc rồi dùng ngón tay nhẹ nhàng nghịch đuôi mèo, từ tốn mở miệng: “Cách hay đấy. Trước khi xuất phát em không nhắc tới nhỉ.”

    Giọng điệu rất bất thường, có chút gì đó như thẹn quá hóa giận.

    Mèo đen nhanh trí rúc đầu vào lòng anh.

    Ansbach dùng ngón trỏ nâng cằm nó lên, hỏi cho tới cùng: “Cố ý xem tôi làm trò hề?”

    Tội danh này hơi bị lớn à nha! Mèo đen đương nhiên không dám gánh tội này, nó kiên quyết lắc đầu phủ nhận, đồng thời nhảy tót xuống bắt đầu đào đất.

    Ansbach tò mò ngồi xổm xuống cạnh nó, “Nghe nói lúc mang thai, động vật thường thích đào hang làm ổ.”

    Mèo đen im lặng trừng mắt anh.

    Ansbach chống cằm, “Vừa nãy ý em là tôi nỗ lực chưa đủ hay sao?”

    Mèo đen nhảy sang một bên, để lộ những chữ khó khăn lắm mới cào ra được.

    “Thế giới hai người.” Ansbach thoáng sửng sốt rồi bật cười bảo: “Em cho rằng tôi muốn tận hưởng thế giới hai người với em nên mới cố ý không nhắc nhở tôi?”

    Mèo đen gật đầu.

    Ansbach nói: “Tuy có vẻ như đang kiếm cớ nhưng cái cớ này tôi thích. Xem như em qua ải.”

    Mèo đen đắc ý nhảy tót vào lòng anh, ngông nghênh lắc đuôi ra chiều nhắc nhở mau chóng khởi hành.

    Dáng vẻ vênh váo của nó khiến lòng Ansbach ngứa ngáy, lại hận mình không thể làm nó, trong bụng cứ sùng sụng như dầu sôi, lúc đi đường vô cùng sung sức, cuối cùng đến đích còn sớm hơn dự định nửa ngày – Đích đến là quán ăn dưới chân núi.

    Ansbach đánh giá căn nhà cũ kỹ trước mặt bằng ánh mắt ngờ vực, “Người em muốn tìm sống ở đây sao?”

    Ngửi thấy mùi thức ăn lan tỏa trong không khí, đuôi mèo ta hết cuộn lại thẳng, hết thẳng lại cuộn, kích động đến dựng hết cả lông. Nó nhanh chóng nhảy phắt lên một chiếc bàn. Tiểu nhị trong quán thấy thế bèn vung khăn toan đuổi, nhưng Ansbach lại lạnh lùng ngồi xuống.

    “Khách… Khách quan, ngài muốn dùng gì?” Tiểu nhị giật mình, vội vàng khom lưng, thái độ vô cùng ân cần.

    Hai mắt mèo đen dán chặt vào bàn bên cạnh.

    Ansbach nhìn về cái bàn đó và gật đầu.

    Tiểu nhị hiểu ý vội bảo: “Dạ được! Làm cho ngài một bàn giống như vậy, bảo đảm ngài ăn uống no say!”

    Gã lui xuống, Ansbach lấy đũa gõ bàn, “Từng ghé ăn?”

    Mèo đen dường như đang chìm đắm trong hồi ức, thỏa mãn lúc lắc cái đuôi.

    “Đến một mình?” Ansbach vờ như chỉ đang vô tình hỏi.

    Đuôi chợt ngừng ngay, mèo đen ngẫm nghĩ xem nên trả lời thế nào cho an toàn.

    Ansbach mỉm cười nói: “Từ từ suy nghĩ, tôi không vội.”

    Mèo đen đẩy nghiêng bình trà, chấm vuốt vào nước trà chảy ra rồi viết lên bàn những chữ rồng bay phượng múa: Muốn đến cùng anh.

    Ansbach không nhịn được phì cười, một tay giữ mèo, dùng ngón tay xoay đuôi nó vòng vòng, “Tôi thấy hơi nhớ khoảng thời gian em trở lại làm người. Trước đây em đâu có ngoan thế này, lúc nào cũng sợ tôi nổi giận.”

    Mèo đen: “…” Ngủ không ngon trách giường nghiêng, tính khí thất thường thì trách người khác không ngoan, đúng là hành vi của lũ cướp.
    Ansbach ghé sát vào tai nó, nhẹ giọng nói: “Nhưng hiện tại quan trọng nhất là tìm ra đường đi để cứu em. Nếu em muốn cùng tôi thưởng thức mỹ thực Trung Quốc, tôi có thể dẫn em đi.”

    Mèo đen nghiêng đầu nhìn anh, đôi mắt vàng xanh ẩn chứa bao lời muốn nói.

    Ansbach hôn nhẹ lên trán nó, mũi nó, môi nó, “Ăn xong rồi nói.”

    Tiểu nhị đang chuẩn bị mang thức ăn lên, nhìn thấy hành vi “sỗ sàng” giữa người và mèo thì ngượng đỏ mặt, không biết nên nhìn đi đâu, thầm nhủ trong bụng: Người sinh ra ở vùng đất ngoại bang quả nhiên chẳng có liêm sỉ. Gã đặt thức ăn lên bàn, lại nhịn không được liếc mèo đen mấy lần.

    Sức chú ý của mèo đen tập trung hết vào các món ăn trên bàn nên chẳng buồn để ý, còn Ansbach lại không thoải mái, mắt anh nheo lại, tiểu nhị chợt thấy hai chân mềm nhũn, quỳ mọp xuống đất, đầu va phải ghế nghe cốp một tiếng, khiến người chung quanh tò tò quay sang nhìn.

    Chưởng quỹ thấy có người nước ngoài vào tiệm vốn đã cảnh giác, giờ lại thấy tiểu nhị làm trò hề thì đánh thót trong lòng, vội vàng ra khỏi quầy kéo gã tiểu nhị rồi quay sang xin lỗi với Ansbach.

    Ansbach cũng không định so đo.

    Sóng gió tuy đã qua nhưng những ánh mắt tò mò chung quanh càng lúc càng trắng trợn.

    Ansbach không để ý chuyện họ nhìn mình như nhìn khỉ trong sở thú, nhưng lại không vui khi những người đó cứ nhìn luôn cả mèo đen.

    Khó khăn lắm mới ăn hết được bữa cơm, vừa ra khỏi quán ăn, Ansbach lập tức lôi tấm áo choàng xám đậm ra nhét mèo đen vào trong.

    Mèo đen thấy anh vội vã lên đường thì có chút cảm động, có chút hạnh phúc, lại có chút bất an. Loại bất an này từ sau khi quay về quá khứ đã có, nó luôn có cảm giác mọi chuyện không đơn giản như Ansbach nói.

    Đêm đó, mèo đen đề nghị nghỉ ngơi, Ansbach tuy sốt ruột trong lòng nhưng vẫn lén lẻn vào một khách điếm, chọn căn tốt nhất trong số các gian phòng còn trống.

    Mèo đen quyết định dùng đủ cả ánh mắt, động tác và móng vuốt để viết.

    Ansbach nhìn dáng vẻ như gặp kẻ thù lớn của nó thì trong đầu lóe lên, có hơi thở gấp, “Em có thể biến thân rồi?”

    “…” Kiên quyết lắc đầu.

    Ansbach nhất thời lại mất tinh thần.

    Mèo đen vỗ vỗ chân anh, bày tỏ có lời muốn nói.

    Ansbach tựa vào lưng ghế, dùng một tay chống đầu, nhìn mèo bằng ánh mắt chờ đợi.

    Mèo đen dùng nước chầm chậm viết lên đất: Không quay về, không sao.

    Ansbach biến sắc, đứng phắt dậy, dùng chân xóa ngay vết nước dưới đất và lạnh lùng nói: “Sẽ không có chuyện không quay về.” Anh cúi xuống thì trông thấy mèo đen đang nhìn mình đầy vẻ lo lắng, bèn dịu mặt nói: “Tôi không giận.”

    Mèo đen giữ vẻ mặt ngờ vực.

    Ansbach ôm nó vào lòng, mạnh tay xoa người nó vài lần, đến khi bị cào cho vài vết chảy máu mới thôi, “Được rồi, đúng là tôi giận. Tôi giận em không tin tôi. Tôi sẽ mang em về, tôi đảm bảo.”

    Tự tin tột độ và kỳ vọng quá cao khiến anh một khi gặp phải trắc trở sẽ dễ rơi vào trạng thái điên cuồng. Khó khăn lắm bệnh điên của Ansbach mới tốt lên một chút, mèo đen không muốn anh lại giẫm vào vết xe đổ cũ.

    Nó kêu lên một tiếng, định viết gì đó nhưng lại bị Ansbach ôm chặt lấy không chịu buông tay.

    “Có tinh thần như vậy xem ra em không muốn nghỉ ngơi, chi bằng tụi mình làm vài việc tiêu hao bớt năng lượng.”

    Trên giường.

    Con dơi sung sướng chà xát mèo đen, dùng cánh, dùng cả người… Đủ các loại đụng chạm.

    Mèo đen chẳng buồn cử động mà chỉ nằm sấp giả chết.

    Cuối cùng cũng đến kinh thành.

    Trông bản mặt thèm nhỏ dãi của mèo đen khi ngửi thấy mùi thức ăn từ hẻm nhỏ bay ra, Ansbach vừa bực vừa buồn cười, “Thèm dữ vậy thật à?”

    Mèo đen nhìn anh bằng ánh mắt u oán.

    Để triệt để bài trừ tác phong làm việc “không chuyên” của mèo đen, mấy ngày nay Ansbach cực lực lên đường. Dù mèo đen có chỉ đường đến quán rượu, quán cơm hay quầy thức ăn nào anh vẫn có thể vờ như mắt điếc tai ngơ với tiếng kêu thảm thiết của nó, cứ cắm đầu đi thẳng một mạch.

    “Được rồi, chỉ thử một lần thôi đó.” Ansbach rất hiểu cách kiềm chế, nếu cứ đàn áp mãi sẽ dễ khiến đối phương nảy sinh tâm lý phản nghịch, được không bằng mất.

    Quả nhiên mèo đen kêu lên một tiếng hoan hô, chìa vuốt chỉ đường.

    Theo đề nghị của mèo đen, Ansbach đến một quán rượu nhỏ sau hẻm. Đừng trông quy mô nhỏ mà lầm, quán rượu này buôn bán rất khá khẩm. Hai người số đỏ, vừa vào là có một bàn khách mới đi ra nên mới có một chỗ nhỏ để ngồi.

    Ansbach làm theo cách cũ, gọi thức ăn giống bàn bên cạnh.

    Có lẽ ở kinh thành có nhiều người nước ngoài ghé thăm, vả lại còn có áo khoáng xám đậm che khuất hơn nửa gương mặt nên khách khứa và tiểu nhị đều không đặc biệt chú ý đến anh.

    Ansbach vừa ăn vừa đút cho mèo, hưởng thụ những giây phút chỉ có hai người hiếm hoi.

    Ăn no, Ansbach toan đứng dậy tính tiền nhưng chợt ngửi thấy mùi máu quen thuộc.

    Mèo đen đang ngồi trong lòng anh sung sướng nhấm nháp miếng thịt bò cuối cùng, bỗng nhiên cứng đờ cả người, như bị thứ gì đó bài xích nên muốn tránh đi. Nó tò mò thò đầu ra nhìn, chăm chú đánh giá người mới vào quán.

    Người nọ đi thẳng đến bàn họ rồi ngồi xuống, “Xưa nay, gây nên nỗi đói khát cho con người nào phải máu tươi, mà là dục vọng. Xưa nay, mang lại thỏa mãn cho con người cũng nào phải máu tươi, mà là hạnh phúc.” Lời người này nói chính là câu mở đầu của các luật lệ cơ bản huyết tộc nào tới nhân giới cũng phải biết.

    “Anh cũng là Gangrel?” Đối phương tỏ vẻ ngạc nhiên. Tại nơi phương đông xa xôi gặp được huyết tộc đã là chuyện là, nào ngờ còn là người chung dòng tộc.

    Ansbach cúi đầu xuống để áo choàng che khuất mặt mình, chỉ để lại một bóng đen. Anh vừa khẩn trương vừa sung sướng, thậm chí chân tay run lên, nhưng lại phải cố gắng kìm chế tâm trạng, trả lời bằng giọng vừa thấp vừa trầm, “Ừ.”

    “Thiệt trùng hợp quá.” Đối phương vô cùng dễ quen, tiện tay thó miếng thịt bò còn lại trên bàn cho vào miệng. “Tôi tên Oregon. À, không ngờ tôi lại không đoán được anh là đời thứ mấy, lẽ nào mũi tôi không hợp với khí hậu ở đây nên hỏng mất rồi?”

    Mèo đen: “…” Nó có thể không thừa nhận cái tên ngốc này là mình trước đây không?

    Ansbach không ừ hử.

    Oregon cũng không để ý, y tiếp tục nói: “Anh đến đây làm gì? Đừng nói là đến làm ăn nha”

    Ansbach gật đầu.

    Oregon rất tò mò, “Anh huyền bí quá à, làm ăn gì mà phải huyền bí như vậy? Lẽ nào là nhiệm vụ bí mật Nữ hoàng giao cho anh. Ý tôi là Nữ hoàng Victoria, đừng nghĩ tôi gán cho ngài Cain mấy danh xưng quái lạ nhé. Nhiều người hiểu lầm lắm.”

    Lời thoại này nghe quen quen.

    Não của mèo đen cuối cùng cũng hoạt động lại. Nếu nó nhớ không lầm, một trăm hai mươi năm trước đúng là mình từng nói câu này với một người trong quán rượu, nhưng người đó rõ ràng là…

    Con ngươi nó nheo lại như chợt nghĩ ra khả năng nào đó. Nó ngay lập tức dùng vuốt cào Ansbach một cái, Ansbach không có phản ứng. A a! Cảm giác có lời muốn nói mà không nói ra được đúng là ức chế muốn chết! Gordon chết giẫm!

    “Còn chưa được biết tên của anh?” Oregon như không nhìn thấy một mèo một người đang xoắn xuýt dưới lớp áo choàng, y vừa thưởng thức món ngon của người ta vừa tán gẫu như người quen cũ.

    Ansbach mất một lúc lâu mới mở miệng đáp: “Joseph.”

    “Joseph Miller.”

    Mọi chuyện quả nhiên tiến triển đến bước này.

    Mèo đen im lặng nằm nghe cuộc đối thoại “vượt thời gian” của Oregon và Ansbach – Đa số đều do Oregon độc thoại. Nghe tiếng mèo lâu rồi, Ansbach rất nhớ cách nói chuyện của Oregon, nhưng Oregon vô cùng hiểu anh, vì vậy anh chẳng dám manh động chỉ sợ bị y nhận ra.

    Ăn uống no say, Oregon chủ động thanh toán, sau đó thẳng thắn nói: “Tuy nói cả nửa ngày vẫn chưa biết mục đích của anh là gì nhưng chỉ muốn nhắc nhở một chút, nơi này không phải nơi có thể một mình làm càn.”

    Ansbach nhẹ nhàng gật đầu.

    Oregon đi hai bước lại quay trở lại, “Tôi ở khách điếm Duyệt Lai phòng chữ Thiên số một, nếu anh gặp phải phiền phức hoan nghênh anh tới than thở. Mấy chuyện như cười trên nỗi đau của người khác tôi không ngại tí nào đâu.”

    Ansbach nói: “…” Cũng tức là lúc trước mình nhiều lần lỡ tay phạm lỗi đều có dính líu đến tính cách của Oregon. Có một khoảng thời gian, anh cơ bản không muốn bất cứ âm thanh gì ngoài tiếng thở của Oregon mà thôi.

    Oregon vừa đi, cảm giác bài xích của mèo đen liền biến mất, nó thở hắt ra, ngoan ngoãn nằm ghé vào đầu gối Ansbach, cùng anh rơi vào trầm tư.

    Vào lúc này trong đầu cả hai đều có quá nhiều tin tức, nhất thời không thể nào xử lý hết.

    Cuối cùng hai người bản cũ soạn lại, tìm một khách điếm yên tĩnh để “ở nhờ”.

    Ansbach nói: “Chúng ta phải nói chuyện nghiêm túc về ‘Joseph Miller’ thôi.” Vì cái tên “cùng gia tộc với Oregon” và lúc nào cũng bám dính lấy y không chút ngại ngùng, anh đã lên cơn ghen bóng ghen gió hết bao lần, để rồi phát hiện người đó chính là mình?! Hoang đường buồn cười đến cỡ nào! Nhưng chuyện như vậy thật sự đã phát sinh.

    Mèo đen mặt mày ngơ ngác. Quả thật không trách nó được. Bởi vì từ ngày hôm nay gặp được Joseph Miller đến lúc biến thành một con mèo suốt ngày giả ngốc ra vẻ đáng yêu, nó chưa bao giờ phát hiện Joseph Miller chính là Ansbach! Nó cứ tưởng người nọ là bề trên nào đó của tộc Gangrel ở ẩn! Thậm chí nó từng nghi anh chính là trưởng lão của Gangrel!

    Nhưng mọi chuyện lại xảy ra một cách hợp lý như vậy.

    Áo choàng xám đậm, nhẫn giấu mùi huyết tộc, lại cảm giác thân quen khi chưa biết mặt, tất cả đều đã có lời giải!

    Ansbach nheo mắt nói: “Nếu tôi là Joseph Miller, vậy về sau cái tên mang mấy lần mang em ra khỏi biệt thự là ai nữa?”

    Sau khi Oregon bị phong ấn, ác cảm của anh với Joseph Miller giảm đi không ít. Đây là một trạng thái tâm lý rất lạ – Trên đời này không chỉ có mình anh quan tâm Oregon. Vì vậy mỗi lần Joseph Miller viết thư “mượn” mèo đen, mà mèo đen cũng không phản đối, anh đều ngầm cho phép. Thậm chí còn chuẩn bị sẵn vé máy bay cho.

    Nhưng nếu Joseph Miller chính là anh, vậy thì người ra ngoài cùng mèo đen lại là ai?

    Trong đầu Ansbach chợt nảy ra một suy nghĩ vô cùng tiêu cực:

    “Lẽ nào tôi không trở về năm 2015 được nên sau 1980, có hai ‘tôi’ cùng tồn tại?”

    Chương 29: Thân phận (trung)

    Chẳng lẽ tình địch của mình lại là mình?

    Nhớ lại lời cam đoan của mình dành cho mèo đen, Ansbach bị viễn cảnh tự vẽ ra trong đầu làm cho cả người bứt rứt.

    Nếu Joseph Miller năm 2015 cũng là anh vậy tại sao lại cần thường xuyên mượn mèo? Rõ ràng anh cũng có một con ở ngay bên cạnh! Trừ phi, trừ phi…

    Nhìn mắt Ansbach càng lúc càng đỏ lên, mèo đen cuối cùng nhịn hết nổi đành lên đầu gối anh, đặt hai chân lên ngực anh, dùng lưỡi liếm cổ họng của anh ra chiều có điều muốn nói.

    Ansbach kích động ôm mèo vào lòng, nóng nảy nói: “Tôi nhất định không để em rời xa tôi.”

    Mèo đen nhảy lên bàn, mở nắp bình trà nhúng chân vào trong, vừa rút ra định viết thì bắt gặp bóng Ansbach nhoáng lên!

    Oh no!

    Nó vội rút chân ra nhưng đã chậm mất một bước, cửa sổ rung rinh, sau đó trong phòng không còn ai.

    Đây không phải lần đầu xảy ra chuyện này, lần nào Ansbach cảm thấy mất khống chế đều tự động chạy ra ngoài trút giận để tránh làm tổn thương nó.

    Nhưng mà…

    Lần này đâu cần mất khống chế chứ.

    Chân mèo đen giữ nguyên tư thế cũ một hồi mới ngượng ngùng rụt về, bất đắc dĩ nằm gục xuống bàn. Một lúc sau nó lại ghé vào cửa sổ, ngơ ngẩn nhìn về hướng Ansbach vừa biến mất.

    Trút giận thì trút giận nhưng nhớ mang đồ ăn về nha.

    Oregon đóng gói cả đống thức ăn để về khách điếm từ từ hưởng thụ, nhưng đột nhiên cảm thấy có gì kỳ kỳ, hình như có ai đó đang nhìn chằm chằm vào mình.

    Y đứng dậy đến bên cửa sổ và nhìn xuống.

    Đường phố tấp nập phồn hoa, người qua kẻ lại, ngựa xe như nước, duy chỉ có một người khoác áo choàng xám đậm ngồi như pho tượng ven đường tĩnh lặng đến lạ.

    Từ vị trí của người đó cùng lắm nhìn thấy trần nhà phòng mình, hẳn không phải đang nhìn chòng chọc vào mình… Nhưng còn cảm giác kỳ lạ kia vẫn cứ tồn tại.

    Lẽ nào lại có thêm một người thầm mến?

    Ôi. Có trách thì trách mình quá quyến rũ, khiến người ta vừa gặp đã trúng tiếng sét ái tình. Đối phương vẫn đang trong giai đoạn thầm mến, mình cũng khó mở miệng từ chối. Nhưng nếu không từ chối lại như đang “câu” người ta, chỉ sợ khiến người ta càng lún càng sâu. Tốt xấu gì cũng là người cùng tộc, không nên gieo hy vọng hão huyền cho đối phương.

    Cuộc sống của người điển trai luôn phải sầu não vì những kẻ theo đuổi vậy đấy!

    Thấy người mặc áo choàng hơi ngước lên, trong lòng Oregon cảm xúc ngổn ngang, giơ tay toan chào hỏi thì đối phương đã quay ngoắc đi mất.

    Chắc tại mình nghĩ nhiều, người ta chỉ đi ngang qua thôi mà.

    Oregon đóng cửa sổ lại tiếp tục ăn.

    Ansbach đi một vòng bên ngoài, nghe đầy tai những tiếng xí xa xí xồ trên đường, trong lòng dần bình tĩnh lại.

    Cái gọi là mai sau tức là những ngày của sau này. Nếu đã chưa tới hay chưa xảy ra thì vẫn còn khả năng thay đổi, mình cần gì phải tự hù mình.

    Sau khi suy nghĩ thông suốt, đầu óc của anh tỉnh táo hơn hẳn, cảm giác được mùi máu quen thuộc bèn liếc nhìn một cái, bắt gặp Oregon đang thò đầu ra khỏi cửa sổ. Đây là Oregon của một trăm hai mươi lăm năm trước, diện mạo xinh đẹp lúc nào cũng sáng ngời, mỗi nụ cười, mỗi cái chau mày đều tràn ngập sức sống.

    Nhìn dáng vẻ sinh động của người yêu, trong đầu Ansbach hiện lên hình ảnh một Oregon im lặng bị anh đặt vào quan tài, và còn cả chú mèo đen lúc nào cũng ở bên anh cả trăm năm nay nhưng lại không nói lời nào với anh.

    Thay vì ngồi sầu não, chi bằng tìm cách thay đổi kết quả.

    Anh hơi nhướng mắt, nhìn nụ cười của Oregon bằng ánh mắt tiếc nuối nhưng rồi vẫn quyết đoán xoay người bỏ đi.

    Dù con đường phía trước có là một con đường đã được sắp xếp, anh cũng không định buông xuôi cho số phận.

    Trên đường về, Ansbach mua cả đống thức ăn thơm ngon, đắc ý đẩy cửa phòng ra nhưng lại không nhìn thấy cái tên đáng lý phải đang nằm dài trên bàn đợi mình.

    Giận dữ và hoang mang trong nháy mắt tràn ngập tim anh.

    Thức ăn trong tay rơi xuống đất, giấy gói mở toang, bánh ngọt rơi vung vãi khắp nơi.

    Một cái đầu mèo thò qua cửa, len vào giữa hai chân Ansbach để vào phòng, mũi khịt khịt ngửi bánh, há mỏ toan ngậm lấy miếng bánh, nào ngờ răng vừa chạm đến vỏ bánh, cổ đã bị bàn tay to đùng kéo lên đặt trên bàn.

    Ansbach trở tay đóng cửa, từ trên cao nhìn xuống tên oắt không lúc nào không khiến mình sợ bóng sợ gió, thoắt vui thoắt buồn mà lại chẳng còn nên thân.

    “Nếu không giải thích hợp lý vì sao ra khỏi nhà,” Anh nhặt giấy dầu dưới đất lên cầm trong tay, từ từ nghiền nó thành bột vụn, “thì chỉ được ngửi thôi.”

    Dám chà đạp mỹ thực Trung Hoa! Quả nhiên có bệnh thần kinh!

    Mèo đen đau khổ nhấc móng lên, cố gắng dùng mắt biểu đạt: Hajima~! (tiếng Hàn 하지마: đừng làm thế ==)
    “…” Ánh mắt sinh động của nó khiến Ansbach phải rùng mình một cái, anh dùng ngón tay chỉ vào đầu nó, “Đã biến thành mèo đừng có mô phỏng mấy màn biểu diễn kỳ cục kia nữa.”

    Hồi xưa có một khoảng thời gian Oregon cuồng tác phẩm của Shakespeare gần như tẩu hỏa nhập ma, cả hành vi lẫn cách nói chuyện ngày thường đều bị ảnh hưởng nghiêm trọng, vậy nên thường xảy ra trường hợp Ansbach phải nghe lải nhải cả đoạn mới biết y định nói gì. Đại loại như khi muốn cùng anh uống rượu vang hoặc càm ràm về thời tiết tệ hại của London.

    Màn biểu diễn bị cắt ngang khiến mèo đen lườm anh bằng ánh mắt u oán. Thảo nào mình là người duy nhất có dây dưa tình cảm với anh, loại sinh vật chẳng biết lãng mạn là gì này đúng là chán hơn cả khúc gỗ.

    Ansbach đặt bình trà xuống trước mặt nó, “Nói mau.”

    “Meo…” Chuyện này nói ra thì dài lắm…

    Theo kể lại, lúc Ansbach ra ngoài trút giận, mèo đen đang ngồi chồm hổm trên cửa sổ đóng giả làm hòn vọng phu thì bắt gặp một bóng người quen quen đi ngang trên đường.

    Quen đến cỡ nào?

    Quen cỡ con người vừa mới ra khỏi phòng kia.

    Thấy Ansbach nghênh ngang đi bên dưới mà không buồn ngẩng đầu nhìn mình cái nào, trong lòng mèo đen sốt ruột, lập tức từ trên cửa sổ nhảy xuống đường, bám theo sau anh.

    Ansbach vẫn chưa biết phía sau có một con mèo đang lén lút bám theo, anh nôn nóng chạy vào một quán ăn, lấy một bức tranh ra cho chưởng quỹ xem.

    Chưởng quỹ ngờ vực nhìn anh.

    Ansbach hỏi bằng tiếng Anh: “Từng gặp chưa?”

    Chưởng quỹ trả lời bằng tiếng Trung: “Ngài nói cái gì? Tôi không hiểu tiếng nước ngoài. Nơi này của bọn tôi là quán ăn, kinh doanh nhỏ thôi, không có mối lớn đến thế, cũng không mua nổi người này đâu, hay ngài đến nơi khác tìm đi. Đi thẳng xuống dưới kia có quán do người Tây mở, ngài đến đó hỏi thử xem biết đâu sẽ có.”

    Ansbach nghe gã thao thao bất tuyệt thì tưởng rằng gã biết gì đó, bèn dùng một tay kéo gã ra khỏi quầy.

    Chưởng quỹ giật thót, miệng kêu oai oái: “Ôi chu choa mẹ tôi ơi! Quỷ Tây muốn ăn thịt người kìa!”

    Ansbach thấy mọi người xúm lại thì biết ngay đã hiểu lầm, anh buông gã ra, chỉ chỉ vào bức tranh.

    Ban nãy anh đứng xoay lưng về phía nó nên mèo đen không nhìn thấy, giờ nhìn kỹ được lại phát hiện ra người trong hình rõ ràng là mình, Oregon! Có điều hình như người vẽ bức tranh đó đang căm hận mình lắm, người trong tranh nhìn thế nào cũng thấy gian trá xảo quyệt lạnh lùng vô tình…

    Trong lòng Ansbach chợt có cảm giác, cái tên phụ tình kia hình như đang ở nơi này, ẩn trong bóng tối theo dõi mình.

    Máu trong người lại sôi trào.

    Không rõ là do oán hận hay vì cảm xúc nào khác.

    Trong đầu anh hiện tại chỉ có một suy nghĩ duy nhất – Tìm được Oregon rồi dùng xích sắt khóa tứ chi y lại, nhốt vào lồng sắt và đặt dưới ánh nắng mặt trời, để y đời đời kiếp kiếp không bao giờ nhìn thấy bất cứ sinh vật nào khác ngoài mình ra, cả con ruồi cũng không được. Để y vĩnh viễn không dám phản bội mình nữa, thậm chí không dám có suy nghĩ rời khỏi anh.

    Mèo đen thấy Ansbach lộ ra ánh mắt vừa quen vừa lạ thì rùng mình ớn lạnh.

    Nó lập tức nhận ra Ansbach trước mắt chính là Ansbach của năm 1980. Thì ra anh tới Trung Quốc còn sớm hơn nó tưởng, nhưng vì đủ thứ nguyên nhân nên không gặp nhau.

    Ansbach nhìn khắp đám đông lại không phát hiện ra người cần tìm, cuối cùng cũng chú ý đến chú mèo đen kỳ lạ.

    Mèo đen lúc này đã tính đường lui, nó vòng qua đám đông, len lỏi chui ra khỏi đó.

    Dù mùi máu vô cùng nhạt nhưng Ansbach vẫn nhận ra nó thuộc về gia tộc Gangrel!

    Mắt anh lóe lên, bất thình lình phóng ra khỏi quán ăn.

    Cả đám người bị tốc độ kinh hồn và sức mạnh của anh dọa cho thét lên oai oái, ai nấy nhao nhao tránh né hỗn loạn vô cùng, mèo đen thừa cơ bỏ trốn.

    Nghe nó kể xong, Ansbach sợ hãi ôm nó vào lòng.

    Ansbach của hơn trăm năm trước nghĩ gì trong đầu không ai rõ bằng anh. Vừa tưởng tưởng cảnh mèo đen suýt nữa rơi vào tay mình, trong lòng anh khiếp sợ tột độ!

    Mèo đen dùng đuôi vỗ vào tay anh, dùng mắt nói với anh: Anh biết trước đây mình đáng sợ đến cỡ nào rồi đúng không, còn không mau bồi thường cho tôi?

    Ansbach tuy không hiểu hết nó muốn nói gì nhưng vẫn cúi xuống nhặt những miếng bánh còn nguyên vẹn lên bày ra trước mặt nó xem như an ủi.

    Mèo đen vừa ăn vừa sung sướng vẫy đuôi.

    So với mèo đen, Ansbach không được bình tĩnh như nó.

    Mình và Oregon của năm 1980 đều đã lên sân khấu, cũng có nghĩa là bánh xe vận mệnh bắt đầu chuyển động. Làm thế nào để ngăn cản không cho bi kịch trong quá khứ phát sinh một lần nữa đây?

    Ăn no nê xong, mèo đen ngẩng lên, đập vào mắt nó là gương mặt viết đầy hai chữ “sầu lo” của Ansbach.

    Ansbach của trước đây lúc nào cũng đứng ở trên cao, kiêu ngạo tự đại ít ai sánh kịp. Nhưng từ khi mình bị phong ấn, gương mặt điển trai ấy dần dần xuất hiện những biểu cảm không hợp với tính anh – Áy náy, chán nản, u buồn… Khiến nó cảm thấy chẳng quen chút nào.

    Mèo đen liếm liếm môi anh.

    Ansbach mỉm cười, dùng lưỡi mình chầm chậm liếm lại những chỗ nó vừa liếm, “Quả nhiên rất ngọt.”

    Mèo đen duỗi chân vào ấm trà, từ từ viết một câu lên bàn.

    Cả gian phòng rơi vào im lặng.

    Nửa phút sau, một giọng nói u ám bất chợt vang lên:

    “Ý em là, Joseph Miller sau này do em giả dạng?”

    “…Meo.”

    Biết bản thân không bị dồn vào con đường phải giả dạng Joseph Miller hơn trăm năm sau, tâm trạng Ansbach khá hơn đôi chút, bắt đầu thanh toán chuyện mèo đen giả làm Joseph Miller. Tâm trạng này, bầu không khí này hệt như phụ huynh biết con mình thi rớt mà còn dám lén ký tên gạt giáo viên.

    Mèo đen nằm trên đất giả chết.

    Ansbach lấy chân khều nhẹ lên bụng nó, “Nói vậy tức là em đã biến thành người được từ lâu rồi?” Khi biết y có thể biến thành người, mình phải sớm đoán ra rồi chứ!

    Mèo đen cảm thấy vô cùng uất ức.

    Thân là huyết tộc phải biến thành mèo đã đủ mệt rồi, thỉnh thoảng biến lại thành người ra ngoài đổi gió chẳng phải bình thường lắm sao? Để anh không lo, mình còn phải giả làm Joseph Miller viết thư báo cáo hành trình, làm sao mà giống mấy đứa oắt con trong thời phản nghịch ra ngoài cả đêm không về. Mình sống quá khuôn khổ luôn ấy! Lúc này phải cảm động chảy cả nước mắt chứ ở đó mà mặt lớn mặt nhỏ.

    Ansbach cũng cảm thấy vô cùng uất ức.

    Có trời biết đất biết, mỗi lần mèo đen bỏ đi chơi với Joseph Miller, trái tim của anh cứ như vừa bị nhúng vào chảo dầu, vừa tự dặn mình phải kiềm chế, đây là cách để tôn trọng Oregon, vừa bị bản tính chiếm hữu cao độ của giống đực và của Malkavian giày vò, chỉ hận không được bằm thây Joseph Miller, nhét mèo đen vào lòng không cho ai chạm vào!

    Một người một mèo trừng mắt nhau thật lâu, ai đều cảm thấy mình vô tội, đối phương vô lý.

    Trừng được nửa ngày, Ansbach đành nhận thua trước: “Em bảo từng nhìn thấy cọc gỗ, vậy rốt cuộc là ở đâu?”

    Mèo đen tính giờ, cảm thấy cũng đến lúc ghé thăm người kia rồi.

    Ansbach chẳng hứng thú gì với người đó mà chỉ tò mò muốn biết vì sao Oregon lại đến tìm người nọ. Theo sự hiểu biết của anh, Oregon tuy sớm đã có suy nghĩ “không an phận” với Trung Quốc nhưng xưa nay khả năng hành động của y đều kém hơn trí tưởng tượng của y nhiều lắm, vì vậy không ít kế hoạch đều chỉ bàn ngoài miệng rồi chết non.

    Lý do gì khiến y phải trèo đèo lội suối tìm đến nơi xa lạ này?

    Anh vô cùng hiếu kỳ.

    Đằng sau hiếu kỳ là ganh tỵ.

    Có kẻ lại thu hút được người trong lòng mình, bất luận vì lý do gì, anh đều cảm thấy khó chịu.

    Mèo đen không muốn giải thích mà chỉ lười biếng nằm dài trên đất chẳng thèm động đậy.

    Uy hiếp dụ dỗ mãi không có kết quả, Ansbach đành ra đòn sát thủ: “Tôi cho em hai lựa chọn. Hoặc giải thích vì sao năm đó phản bội tôi, hoặc giải thích vì sao tìm người đó.”

    Mèo đen kinh ngạc.

    Từ khi thân phận của nó bị Ansbach phát hiện, anh luôn nuông chiều nó hết mực, không hề nhắc đến chuyện xưa nửa lời, hoặc nếu có đề cập đến đều là áy náy nhận lỗi. Nhưng nó đã quên, Ansbach tuyệt đối không phải người dễ quên chuyện cũ, ngược lại anh vốn bụng dạ hẹp hòi, việc nó làm năm xưa mang đến ảnh hưởng sâu tận xương tủy cho anh, chẳng qua nhiều chuyện xảy ra tiếp đó khiến lòng áy náy của anh tạm thời lấn át tất cả, vậy nên mới không nhắc lại sai lầm của nó.

    Thấy động tác cứng đờ của mèo đen, trong lòng Ansbach dấy lên nỗi xót xa.

    Có những thứ đã đâm sâu vào máu thịt, gần như biến thành một bộ phận của cơ thể, dù có đau đớn vẫn phải giả vờ như chúng vốn là bẩm sinh. Nhưng khi vạch máu thịt ra lại nhìn thấy cây gai nằm lồ lộ trong đó, lâu đến đâu cũng không thể biến mất.

    Mèo đen trở người ngồi dậy, nghiêm túc nhìn anh.

    Ansbach nơm nớp lo sợ. Kẻ địch trước mắt, nội bộ trong anh không nên tranh đấu với nhau!

    “Sáng mai muốn ăn điểm tâm gì?”

    Cách chuyển chủ đề mới sượng sùng làm sao.

    Mèo đen phóng xuống giường, nhảy lên bàn, nhúng chân vào bình trà… Lúc nó biến thành người, số chữ viết trong một năm còn chưa nhiều như bây giờ.

    Muốn giúp anh bình tĩnh lại.

    Phản bội anh, phong ấn anh, là để anh bình tĩnh lại, tránh cho anh đánh mất bản thân trong cơn điên cuồng.

    Không ngại đường sá xa xôi đến Trung Quốc là vì muốn tìm cách giúp anh bình tĩnh.

    Dù có bị anh căm hận cũng phải đưa ra lựa chọn tốt nhất cho anh, đây là cách tôi yêu anh.

    Trời đã về đêm, trong phòng có ánh đèn, nét nước trên bàn sóng sánh ánh vàng khiến tâm Ansbach dần dần lắng đọng.

    “Em phát hiện ra khi nào?”

    Mèo đen nhanh chóng viết xuống: Chính vào lúc anh bắt đầu bất thường.

    Nhìn đôi mắt trong veo của mèo đen, hàng phòng ngự cuối cùng trong tim Ansbach sụp đổ.

    Chương 30: Thân phận (hạ)

    Chẳng lẽ tình địch của mình lại là mình?

    Sau cơn mưa là một ngày mai tươi sáng.

    Chủ đề từng bị cấm nay lại có thể thoải mái bàn luận.

    Mèo đen múa vuốt kể lại hết mọi chuyện. Sau khi phát hiện tính tình Ansbach càng lúc càng tàn nhẫn, nó vô cùng lo lắng bàng hoàng. Kể đến chuyện quyết định phong ấn Ansbach, nó chợt ngừng chân, đôi mắt đảo tròn trộm liếc xem sắc mặt anh một cái, thấy không có sự giận dữ như mình tưởng tượng, nó mới thở phào nhẹ nhõm, ngã nghiêng xuống bàn nằm phịch ra đó, bốn chân chổng vó, đuôi nhỏ ngoe nguẩy làm nũng.

    Ansbach đang tập tung tiếp thu.

    Dáng vẻ của mình năm đó thế nào anh là người rõ hơn ai hết.

    Những suy nghĩ trong tim anh nói phức tạp thì rất phức tạp, nói đơn giản cũng rất đơn giản. Anh muốn hoàn toàn độc chiếm Oregon.

    Nếu đã là yêu nhau, anh muốn đối phương phải dâng hiến cả người lẫn tâm cho mình.

    Nếu đã là chiến đấu, anh muốn giành được thắng lợi áp đảo!

    Nhưng tính cách trời sinh của Oregon lại định sẵn, bất luận anh có cố gắng tiếp cận y đến mức nào, ngoài mặt y vẫn tỏ ra thờ ơ dửng dưng, có cũng được không cũng chẳng sao. Dù là hiện tại biết được nội tâm y nào có bình tĩnh như bề ngoài, trong lòng anh vẫn khó tránh cảm thấy bất mãn.

    Tại sao không thể bày tỏ tất cả quan tâm ra ngoài như anh?

    Tại sao không thể ở sát ngay bên cạnh anh, để anh chỉ cần quay đầu là có thể nhìn thấy, chỉ cần vươn tay là có thể chạm vào?

    Tại sao không thể…

    Lúc ấy trong đầu anh toàn những nghi vấn, vì vậy sự uất ức tích tụ mỗi lúc một nhiều, hành vi mỗi lúc một điên cuồng, cuối cùng dồn cả hai đến sát bờ vực.

    Nếu không cùng nhau sa đọa, thì chỉ có một bên giành được chiến thắng.

    Giờ đây nghĩ lại, có lẽ chiến thắng của Oregon là lối giải thoát tốt nhất.

    Nếu mình thắng, với tâm lý biến thái khi ấy của mình, quan hệ giữa hai người sẽ càng ngày càng mâu thuẫn, càng ngày càng biến chất… Kết quả biết đâu còn be bét hơn hiện tại.

    Đúng là khó có thể tưởng tượng nổi, bây giờ mình lại bình tâm suy xét được như vậy.

    Có lẽ lúc mô phỏng Oregon, anh đã bị ảnh hưởng quá sâu.

    Ansbach đang lâm vào trầm tư, bị đuôi mèo quét trúng mấy cái mới hoàn hồn, thấy dáng vẻ nũng nịu của nó thì sự lạnh lẽo trong lòng vơi đi quá nửa. Anh đưa tay đè xuống bụng nó: “Sao nữa đây?”

    Mèo đen hơi ngẩng đầu lên nhìn mấy ngón tay đang chọt chọt bụng mình, chắc chắn anh không nổi giận mới yên tâm dùng lưỡi liếm móng, ra vẻ mình viết nhiều nên mệt rồi.

    Ansbach cầm lấy chân nó và nhẹ nhàng xoa bóp.

    Được hầu hạ thoải mái, mèo đen sung sướng híp mắt, vẻ mặt thỏa mãn đến phát ghét.

    “Tức là em liên lạc với mười ba trưởng lão phong ấn tôi là vì muốn tốt cho tôi?” Ansbach bình tĩnh hỏi.

    Người mèo đen hơi cứng lại, nó nhìn anh một cái, “Meo.” Tiếng kêu vừa ngọt vừa dịu.

    Ansbach nói: “Sau khi phong ấn, em đến Trung Quốc là để tìm cách khống chế tính nóng nảy của tôi?”

    Mèo đen gật đầu thật mạnh, hơn nữa còn ngồi dậy, ưỡn ngực ra vẻ ta đây thật lòng.

    Ansbach suy nghĩ rồi nói: “Thảo nào sau khi phong ấn, tôi không bị đưa đến vùng đất phong ấn mà được giấu trong nhà của em.” Thấy mèo đen gật đầu lia lịa, anh phì cười, chậm rãi nói tiếp: “Hóa ra em muốn nhốt tôi lại để độc chiếm.”

    Mèo đen: “…” Thật ra là do mười ba trưởng lão lười phải đưa anh đi, mà tôi cũng… lười.

    Vừa nghĩ đến chuyện người yêu phải chạy đôn chạy đáo vì mình, trong lòng Ansbach thấy ngọt ngào êm dịu, nhưng vấn đề vẫn cần phải hỏi: “Vậy tại sao gặp tôi ở Trung Quốc, trông em lại kinh hãi và rầu rĩ như vậy?”

    Nếu không phải lúc gặp lại nhau, sự kinh hoàng và thất vọng của Oregon thể hiện quá rõ trên mặt, anh cũng sẽ không mất đi chút lý trí cuối cùng.

    Mèo đen nghĩ: Tại bản mặt của anh lúc đó quá sức hãi hùng chứ bộ!

    Đương nhiên, dù có muốn nói sự thật thì cũng phải dùng kỹ xảo để biểu đạt.

    Nó vẫy đuôi lướt qua bình trà thấm chút nước rồi từ từ viết chữ.

    Rốt cuộc Ansbach vẫn biết xót mèo, thường nó mới viết được một nửa chữ, anh đã đoán ra trước ý của nó: “Em lo lắng cho tôi càng lúc bệnh càng nặng hơn. Sợ không chữa khỏi được cho tôi thì hai đứa không được ở bên nhau.” Miệng anh nhoẻn lên, dường như muốn cười nhưng khi ánh mắt nịnh bợ của mèo nhìn qua, anh lấy lại vẻ lạnh lùng. “Lời em nói càng ngày càng ngọt nhỉ.”

    Mèo đen cúi đầu xuống, dùng đầu cạ vào cánh tay anh.

    Lòng Ansbach lại chộn rộn, anh bèn hắng giọng một tiếng: “Làm sao em biết ở Trung Quốc có cách giúp tôi?”
    Mèo đen viết ra một cái tên.

    Ansbach cau mày, “Trưởng lão?”

    Chỉ mèo đen đến Trung Quốc hóa ra là trưởng lão của Malkavian.

    Mèo đen gật đầu, ngẫm nghĩ một chút rồi lại dùng đuôi viết tiếp. Ý nó muốn khuyên anh đừng bao giờ hận trưởng lão Malkavian. Nó vẫn nhớ rõ cơn giận của anh khi biết trưởng lão của Malkavian liên kết với trưởng lão các tộc khác. Phải biết chứng điên loạn này vốn di truyền từ trưởng lão, thường ngày ông ấy vô cùng dung túng bao che cho con cháu, lần đó không chỉ Ansbach thấy khó tin, những trưởng lão khác cũng vô cùng ngạc nhiên. Chỉ có mèo đen biết, ông ấy vì muốn giải quyết triệt để chứng điên loạn của dòng họ Malkavian.

    Nhưng vẻ mặt Ansbach vẫn rất lạ.

    Sợ anh để bụng chuyện vụn vặt, mèo đen cố dùng đầu huýnh anh.

    Ansbach vuốt lưng nó, chậm rãi nói: “Em có biết là ai giải bỏ phong ấn và thả tôi ra không?”

    Mèo đen ngây ra, cái đuôi xìu xuống một lúc mới viết lên bàn: Gordon.

    Ansbach lắc đầu: “Là trưởng lão.”

    Mèo đen sửng sốt.

    Hành vi của trưởng lão nhà Malkavian dù giải thích bằng góc độ của mèo đen hay Ansbach đều rất vô lý.

    Mèo đen nghĩ: Ông ấy vì muốn cứu Ansbach, vì muốn tìm cách giải thoát cho gia tộc.

    Ansbach lại nghĩ: Ông ấy muốn giúp mình nên mới lật mặt với những trưởng lão khác.

    Nhưng nếu hai mạch suy nghĩ này hợp lại, hành vi của Malkavian lại chỉ có thể dùng từ “quái dị” để miêu tả.

    Tại sao ông ấy lại làm như vậy?

    Mèo đen ngẫm nghĩ rồi tìm ra cách giải thích duy nhất: Ông ấy là trưởng lão tộc Malkavian.

    Thân là người sáng lập ra dòng họ điên loạn, thỉnh thoảng lên cơn cũng là bình thường.

    Ansbach cũng chỉ đành chấp nhận lời giải thích đó.

    Đêm hôm ấy, khúc mắc giữa hai người đều được hóa giải, hai trái tim trở nên gần nhau hơn bao giờ hết.

    Sau khi biến thành dơi, Ansbach tựa vào mèo đen ngủ yên. Hai trái tim vốn đã rất gần gũi, thể xác không cần tiếp xúc quá nhiều cũng cảm thấy vô cùng ấm áp.

    Ngày hôm sau, trong tay Ansbach xách một cái giỏ to, mang mèo đen đi dạo khắp kinh thành một lần để mua đủ hết tất cả các món ngon bỏ vào giỏ. Mèo đen sung sướng, đoàn buôn ấy tốt thật, số bạc cho họ đều tiêu được cả.

    Tiêu tiếp cho đến tối, Ansbach chỉ còn vài đồng trong túi.

    Ansbach nghiêm túc cân nhắc nên cướp hay trộm để có tiền nhanh hơn, hay cứ phát triển đời sau ở đây rồi thành lập một lãnh địa của Malkavian? Dù sao ngoài Oregon và anh cũng đâu còn huyết tộc nào đến để giành địa bàn. Người có tư cách tranh giành duy nhất là Vương Tiểu Minh, nhưng hơn trăm năm sau mới sinh ra cơ mà.

    Mèo đen biết cách nghĩ của anh, đầu tiên nó nhấn mạnh với anh đây là một sự nghiệp vĩ đại, sau đó mới phát biểu cảm nghĩ cá nhân: Dòng tộc cao quý như Malkavian tuyệt đối không thể cứ tìm đại con chó con mèo nào để nối dõi, nhất định phải có thử thách nghiêm túc, nhưng hiện tại không đủ thời gian, ngày mai họ phải đến núi Vụ Linh thăm vị thầy pháp trốn ở Trung Quốc kia.

    Ansbach nhìn vẻ mặt nghiêm túc của nó thì khóe miệng bất giác nhoẻn lên, “Không đồng ý thì cứ nói thẳng là được mà.”‘

    Mèo đen cười thầm trong bụng. Ha ha. Đúng rồi, cứ nói thẳng là được, sau đó để anh lấy cớ ăn hiếp.

    Dường như nhìn thấu suy nghĩ của nó, Ansbach nói: “Từ nay về sau, chỉ cần không vi phạm nguyên tắc, tôi có thể chiều ý em bất cứ chuyện gì.”

    Mèo đen lại ha ha cười thầm. Đúng rồi, không vi phạm nguyên tắc. Nhưng nguyên tắc của anh là không có nguyên tắc gì hết.

    Ansbach thật sự bị ánh mắt quá sức biểu cảm quá sức phức tạp của nó chọc cười, “Nguyên tắc duy nhất của tôi chính là em phải mãi mãi yêu tôi, mãi mãi không được rời khỏi tôi, không làm bất cứ chuyện gì phản bội tôi nữa, nếu có ý kiến hoặc quyết định gì phải thương lượng với tôi, nhỡ mà…”

    Ban đầu mèo đen còn lắng tai nghe, đến cuối nó híp mắt lại và ngáp dài một cái.

    Ansbach dùng tay chọt nó, nó rơi thẳng xuống đất. Vừa tiếp đất, lông trên người mèo ta dựng ngược lên, cả người cong lại, cảnh giác nhìn chung quanh, thấy chỉ có Ansbach mới thả lỏng.

    “Buồn ngủ vậy cơ à?” Ansbach nửa đùa nửa thật.

    Mèo đen vẫy đuôi, dùng nước viết lên bàn: “Nguyên tắc duy nhất của anh nói xong chưa?” Nó cố ý viết chữ “duy nhất” thiệt to.

    Ansbach mỉm cười đáp: “Chỉ cần không liên quan đến em, tôi đều nghe lời em hết.”

    Cũng tức là từ nay về sau nó chỉ có thể vì dân vì nước, không còn được mưu lợi cá nhân nữa rồi.

    Mèo đen rầu rĩ ngã xuống bàn.

    Trời hơi âm u, mây có vẻ chìm, gió khá lớn, mưa phùn bị thổi lất phất, có mang theo dù vẫn bị tạt dính vài giọt.

    Nhưng Ansbach bồng mèo đen di chuyển bằng tốc độ phi thường đến thẳng dưới chân núi, cả người không hề dính một giọt nước mưa nào.

    Mèo đen lười biếng đứng dậy duỗi người, nhìn cả tòa núi bị vây trong mây mù, bắt đầu lục lại lộ trình trong ký ức xa xăm, một lúc thật lâu mới vươn móng ra chỉ đường.

    Thật ra còn ba ngày nữa mới tới cuộc hẹn của Oregon và thầy pháp, nhưng để tránh Ansbach suy nghĩ hồ đồ thật sự phát triển tập đoàn huyết tộc ở Trung Quốc, nó mới vội đến đây. Dù sao thầy pháp đó từng nói, ba ngày trước ả không có nhà, mình và Ansbach có thể thỏe thuê dạo chơi trên núi.

    Ansbach đi theo đường nó chỉ, nhìn thấy căn nhà nhưng không có khói bếp thì cảm giác là lạ, “Tại sao không có ai?”

    Mèo đen vươn vuốt cào lên cổ anh. Dù sao có cào thành chữ anh cũng không thấy, vậy nên nó cứ cào bừa.

    Ansbach đang vui nên cũng hùa theo đoán mò, chốc chốc thì nói đường xá không phát triển, chưa có xe hơi và tàu điện ngầm, nơi này cách thành thị lại xa, đi tới đi lui mua đồ không tiện, chốc chốc lại bảo thời tiết nơi này giống với London nên người dân mới chán ngán bỏ đi.

    Để anh đoán sai mãi mèo đen bắt đầu thấy ngứa ngáy tay chân, nó nhảy khỏi người anh, lấy đuôi cuộc một cành cây viết xuống đất.

    “Núi bị phong tỏa?” Ansbach nhún vai, “Đáp án chẳng thú vị gì hết.”

    Lúc đó, hai người đã lên đến vị trí cao hơn tầng mây, dõi mắt nhìn ra xa, bốn bề đều là tầng tầng lớp lớp những đám mây nhưng không dày lắm, vẫn có thể thấy được phong cảnh dưới chân núi mờ mờ ảo ảo, như thật như giả.

    Mèo đen ngồi xổm xuống một hòn đá ngắm nhìn đắm đuối như hoàn toàn bị phong cảnh trước mặt mê hoặc.

    Bên cạnh nó sớm đã chẳng còn bóng người mà chỉ có một con dơi đang giang rộng cánh che trên đầu nó, ngồi sóng vai với nó cùng ngắm cảnh mây trôi lững lờ.

    Mưa tạnh dần, mây cũng tan đi.

    Mèo đen có vẻ buồn buồn.

    Ansbach biến lại thành người bồng nó vào lòng, “Sao thế?”

    Mèo đen u sầu ngước mặt lên, dùng cành cây viết xuống: “Thèm kẹo bông đường quá.”

    Ansbach: “…”

    Mèo đen nhìn khắp bốn phía. Những chiếc “kẹo bông đường” to tướng chẳng còn nữa rồi.

    Ansbach mỉm cười nâng mặt nó lên để mắt hai người nhìn thẳng vào nhau, trong mắt nó chỉ còn hình ảnh phản chiếu của anh, “Tôi quan trọng hay kẹo bông đường quan trọng?”

    Trong lòng mèo đen còn đang suy nghĩ xem vấn đề này có liên quan tới mình hay không.

    Sự chần chừ của nó khiến sắc mặt Ansbach từ từ sầm xuống, còn u ám hơn cả màu trời ban nãy.

    Mèo đen giật mình hoàn hồn, vung đuôi cuốn lấy cành cây viết xoẹt xoẹt xuống đất: “Kẹo bông đường là cái quái gì mà dám so sánh với anh!”

    Sắc mặt Ansbach thay đổi trong vòng một giây, “Có tôi bên cạnh, em còn lý do gì để buồn?”

    Anh có ăn được đâu, mà cũng chả ngon lành gì.

    Mèo đen vừa nghĩ vừa vẫy đuôi tỏ vẻ em đây đang rất chi rất chi là vui vẻ!

    Đêm hôm ấy, hai người tìm đại một căn nhà nào đó để ở tạm chứ không ở trong ở trong nhà của thầy pháp.

    Một là do nơi ở của thầy pháp nhất định có đặt vài loại bùa phép mang tính nguy hiểm tương đối. Hai là bởi mục đích của họ là cọc gỗ, lần mèo đen được nhìn thấy là khi ả đang cầm trong tay, rất có khả năng lúc nào cũng giữ bên người, xâm nhập vào nhà cũng chỉ đánh rắng động cỏ.

    Hiếm khi Ansbach không phản đối ý kiến của nó.

    Trải qua bao nhiêu chuyện, tính nóng nảy của anh chẳng những đỡ hơn rất nhiều, khôi phục lại lý trí, mà gan cũng nhỏ lại như bình thường. Bị dạy dỗ một lần, anh mới rõ thì ra trên đời còn có việc anh không thể không sợ.

    Nửa đêm trời lại đổ mưa.

    Gió núi mạnh làm mưa ào ạt quất vào nhà hết đợt này đến đợt khác. Ngôi nhà này lâu năm chưa tu sửa, cửa sổ đã hư hại phần lớn, gió vừa thổi là bật tung ra.

    Nước mưa tạt trúng vào đầu mèo đen, đôi tai nhỏ xíu run rẩy không ngừng do bị những giọt mưa đập trúng, cuối cùng nó cũng giật mình tỉnh giấc, mơ màng mở mắt ra.

    Nó vừa nhúc nhích, con dơi bên cạnh cũng thức dậy, nhìn thấy đôi tai ướt sũng của nó cụp xuống trông vô cùng tội nghiệp thì lập tức biến lại thành người, lấy áo choàng xám đậm lau người cho nó, rồi kéo bàn đến dựng lên chắn ngay cửa sổ để mưa khỏi tạt vào.

    Lúc đóng cửa sổ, anh nhìn thấy một bóng dáng quen thuộc đang đi men theo đường núi cách đó không xa, chỉ chớp mắt là không thấy đâu nữa.

    Dù có hóa thành tro anh cũng chỉ cần liếc một cái là nhận ra ngay.

    Nhưng tại sao lại xuất hiện ở đây vào đúng thời điểm này?

    Thuộc truyện: Thất lạc phong ấn – Chương 21-30