Thiên quan tứ phúc – Chương 68-77

    Thuộc truyện: Thiên quan tứ phúc

    Chương 68: Người lên trời cũng là người người xuống dưới cũng là người 3

    Hồng Hồng Nhi đột nhiên xoay người, vùi mặt vào lòng ngực Tạ Liên, càng kêu to hơn.

    Âm thanh này không có câu chữ, chẳng có ý nghĩa gì, cũng chẳng phải tiếng khóc, khiến người ta nghe phải đều sởn tóc gáy. Nếu không biết tiếng kêu này từ đâu mà ra, có thể nhầm thành tiếng kêu của người trưởng thành đang cận kề cái chết đang gào rống hoặc là vài con thú nhỏ bị cắt đứt yết hầu đang hấp hối giãy giụa, chỉ có chết đi mới là giải thoát tốt nhất, không ai đoán được rằng âm thanh này phát ra từ một hài tử mười tuổi cô độc kia. Bởi thế y khiến mọi người sững sờ.

    Một lúc lâu sau, Quốc sư nói: “Ta khuyên thật, vẫn là thả nó đi mới là tốt nhất.”

    Phong Tín lúc này mới phục hồi lại tinh thần, khuyên can: “Điện hạ! Mau buông ra, người để ý…….” Bất quá, cuối cùng cậu ta vẫn không nhẫn tâm nói tiếp. Tạ Liên bảo:”Không sao cả.

    Vị Chúc sư huynh kia thập phần quan tâm đến an nguy của Thái Tử điện hạ, thấy Hồng Hồng nhi đem huyết lệ cùng nước mũi cọ đầy bạch đạo bào của Tạ Liên, liền tiến đến kéo đứa bé ra, miệng nói: “Tiểu bằng hữu, không nên!”

    Ai ngờ, càng kéo thì đứa bé kia lại a a kêu to, chết cũng không buông tay, cả tay chân cùng dùng, ôm chặt hơn. Vài ba đạo nhân ba chân bốn cẳng đều không lôi được y, ngược lại y như con khỉ con treo lên người Tạ Liên. Tạ Liên vừa buồn cười lại vừa thấy thương, một tay nâng Hồng Hồng nhi theo sống lưng gầy yếu của y mà vỗ về trấn an, một bên giơ tay, nói:”Thôi, không cần lo lắng, cứ để đệ ấy như vậy đi.”

    Dừng lại một chút, cảm giác đứa bé trong lòng thả lỏng, dần dần an tĩnh lại, Tạ Liên mới thấp giọng hỏi người khác: “Tiên Lạc cung cháy, có người nào bị thương không?”

    Mộ Tình nói: “Không, trong phòng chỉ bọn ta.”

    Vì Tiên Lạc cung đã bị đốt thành một mảng cháy đen, ngói vỡ tường đổ, Tạ Liên cũng chẳng còn cách nào ở lại.

    Sau khi xác nhận là có mỗi gian nhà bị đốt cháy, không có thiệt hại về người, một tốp đạo nhân lên núi bắt đầu dọn dẹp hiện trường, lật lên những vụn đá vàng và bảo thạch rực rỡ nay đã bị hóa đen, đều đau lòng không thôi, Tạ Liên lại chẳng để ý tới.

    Ngoại trừ sử dụng ít đồ vật tinh xảo hàng ngày một chút, hắn cũng không để lại đồ gì quý trọng ở Tiên Lạc cung. Qúy trọng nhất là hai trăm danh kiếm trong bộ sưu tập, nhưng mà vàng thật không sợ lửa, những danh kiếm này đều thiên chuy bách luyện* trong liệt hỏa nên vẫn bình yên vô sự. Tự mình đem chúng ra khỏi đống đổ vỡ, Tạ Liên tạm thời gửi ở Tứ Tượng cung của Quốc sư.

    ( Danh kiếm: Những thanh kiếm nổi tiếng)

    (Bamboo: *Thiên chuy bách luyện: ýchỉ luyện tập rất nhiều lần. Ở đây là được rèn nhiều lần)

    Còn Hồng Hồng nhi, y ôm Tạ Liên thật chặt khóc lớn một trận, mệt quá, ngủ thiếp đi, Tạ Liên vốn muốn bế y xuống Thái Thương Sơn, tìm một nơi thu xếp an trí, nhưng Quốc sư lại muốn hắn tới Tứ Tượng cung một chuyến, vì thế, Tạ Liên liền bế theo y qua.

    Đem đứa bé đặt lên giường trong phòng, Tạ Liên tiện tay đắp lên người y một góc chăn, thả mành xuống, mang theo Phong Tín cùng Mộ Tình đi ra, hỏi: “Quốc sư, mệnh cách của đứa nhỏ này thật sự đáng sợ như vậy ư?”

    Quốc sư bĩu môi, đáp: “Không bằng ngài thử tính xem, từ khi nó xuất hiện, đã xảy ra những chuyện gì?”

    Ba người im lặng. Đứa bé này được muôn người để ý khi ngã xuống tường thành, khiến cho tế thiên Thượng Nguyên ba vòng liền phải dừng lại. Sau đó là Thích Dung dùng xe ngựa kéo y đi cho hả giận, trên phố lớn quấy nhiễu dân chúng, khiến Phong Tín gãy tay, Tạ Liên xung đột với Quốc chủ, Hoàng hậu khóc. Hiện tại, lại làm oán linh xung quanh tòa Thái Thượng sơn bị vỡ phong ấn bay tứ tung, còn đốt cháy Tiên Lạc cung. Qủa thật là đen đủi, như ảnh tùy hình.

    (Như ảnh tùy hình: Ý chỉ vận rủi luôn đeo bám)

    Tạ Liên hỏi: “Có biện pháp giải quyết không?”

    Quốc sư nói: ” Giải quyết? Ngài muốn nói cái gì? Cải mệnh sao?”

    Tạ Liên gật đầu, Quốc sư liền đáp: “Điện hạ, ngài không theo ta học thuật này, vì thế về phương diện này ngài không biết chút nào. Nếu như ngài biết, thì đã không hỏi như vậy.”

    Tạ Liên ngẩn người, ngồi nghiêm chỉnh, nói: “Nguyện nghe rõ ràng.”
    Quốc sư cầm ấm trà trên bàn, rót ra một chén nước trà: “Thái Tử điện hạ, người còn nhớ, năm người sáu tuổi Bệ hạ cùng Hoàng hậu mời ta tiến cung bói cho ngài một quẻ, ta có thể hỏi người một chuyện không?”

    Nhìn chén kia mịt mờ toàn nước trà, Tạ Liên suy nghĩ một chút, nói: “Ngài muốn nói là, chén nước hai người sao?”1

    Năm đó, vì muốn tính mệnh cho Thái Tử Tạ Liên, Quốc sư đã hỏi hắn rất nhiều điều. Hữu hữu giải chi vấn, hữu vô giải chi vấn, Tạ Liên trả lời một câu Quốc sư liền khen một câu, rất đa dạng lời khen. Thấy được điều đó Quốc chủ cùng Hoàng hậu tươi cười rạng rỡ, cũng không thiếu những vấn đáp về giai thoại. Nhưng lại có một vấn đề, sau khi Tạ Liên trả lời xong Quốc sư lại không hề đánh giá, vốn không quen thuộc với thế giới bên ngoài, ngay cả Phong Tín cũng không hiểu rõ, Mộ Tình còn chưa nghe bao giờ, vấn đề này chính là “chén nước hai người.”

    (Hữu hữu giải chi vấn, hữu vô giải chi vấn: Hỏi cả về cách giải quyết và giải pháp của vấn đề, cái này mình sự giải thích theo nghĩa QT, không rõ đúng sai:v)

    Quốc sư nói: “Hai người đi tới hoang mạc, khát nước vô cùng, đến độ sắp chết nhưng chỉ còn lại một chén nước. Người uống thì sống người không uống sẽ chết. Nếu vậy theo ngài – chén nước đó ai uống? – Ngài trước tiên không cần trả lời, để ta hỏi người khác, ngài chú ý đến cách trả lời của họ.”

    Phía sau hắn là hai người hầu đứng cách đó không xa,liền hỏi. Mộ Tình đắn đo chốc lát, cẩn thận đáp: “Có thể mời Quốc sư giải đáp, hai người đó theo thứ tự là ở phương nào, phẩm tính ra sao, ưu khuyết điểm thế nào? Phải biết gốc biết rễ mới có thể đoán.”

    Phong Tín liền nói: “Không biết! Đừng hỏi ta, để họ tự quyết định.”

    Tạ Liên cười khúc khích, Quốc sư nói: “Ngài cười cái gì? Ngài còn nhớ câu trả lời của mình ra sao không?”

    Tạ Liên thu lại ý cười, nghiêm mặt đáp: “Cho thêm một chén.”

    Quốc sư nhẹ nhàng động vào chén trà, nước trà trong cốc chầm chậm lưu động, như có sinh mệnh. Ông tiếp tục nói: “Dưới bầu trời số mệnh này, tốt xấu, đều được định đoạt sẵn. Cũng như chén nước này, tuy là đầy như vậy, ngài uống rồi người khác cũng không đến uống nữa. Một cái nhiều người, cái khác lại ít đi. Từ xưa đến nay, tất cả đều phân tranh đến cuối cùng đều là do ngài có bao nhiêu cái, nước chỉ có một chén, cho ai đều có lý. Muốn thay đổi mệnh? Tuy rằng rất khó, cũng không phải không thể. Nhưng nếu ngài sửa lại mệnh cho đứa trẻ này, số mệnh của một người khác cũng sẽ bị thay đổi, lại tăng thêm oan nghiệt. Ngài khi ấy nói muốn cho một chén nước cũng như hôm nay nói muốn chọn con đường thứ ba, ý tại khai nguyên, nghĩ đến đương nhiên rất tuyệt, nhưng, để ta nói cho người hiểu, căn bản chẳng thể thực hiện được.”

    Yên lặng lắng nghe, Tạ Liên không tán thành, nhưng cũng chẳng phản bác, nói: “Đa tạ Quốc sư giáo huấn.”

    Quốc sư đem cốc nước trà uống một ngụm, nói: ” Điều đó không cần. Dù sao dạy bảo xong người cũng sẽ không nghe.”1

    “… ” Bị nhìn thấu, Tạ Liên ho một tiếng, nói: “Quốc sư, hôm nay trước điện Thần Võ, đệ tử nhất thời không chú ý, ngôn từ có chút thất lễ, có bao nhiêu là mạo phạm, mong Quốc sư bao dung.”

    Không hiểu ý nghĩa, Tạ Liên nghiêng tai lắng nghe, Quốc sư lại nói: “Ngài có năng khiếu, có hoài bão, chịu để tâm, cố gắng. Xuất thân lại cao quý, bản tính nhân thiện. Không có người nào xứng được trời cao ưu ái hơn ngài, thiên chi kiểu tử chỉ xứng đáng với ngài. Nhưng ta không yên lòng. Ta sợ người không qua nổi cửa ải kia.”

    Tạ Liên nói: “Không yên lòng là muốn nói?”

    Quốc sư đáp: “Tuy rằng ngài đã đến một đẳng cấp như vậy, nhưng mà, có một số thứ ngài lại chẳng hiểu gì, người khác cũng chẳng có cách nào dạy cho ngài. Như chuyện hôm nay ở điện Thần Võ, ngài nói những lời như không nên sùng thần bái thần gì đó, mặc dù rất ít người để ý tới việc đó, ngài còn trẻ tuổi nên có những suy nghĩ riêng, điều này không sai. Nhưng ngài cũng đừng nghĩ rằng từ xưa đến giờ điều này chỉ có mình ngài nghĩ ra.”

    Tạ Liên hơi trợn mắt, Quốc sư lại nói: “Những lời ngài nói ngày hôm nay, có thể từ mấy chục năm trước thậm chí mấy trăm năm trước đã có người nghĩ ra, thế nhưng nó cũng không thể thành một xu thế lớn, chỉ là một âm thanh nhỏ, vì thế chẳng mấy ai nghe theo, tại sao lại như

    Hơi trầm ngâm, Tạ Liên đáp: “Bởi vì những người kia tuy rằng có nghĩ ra nhưng lại không thực hiện nó, hơn nữa không đủ kiên định.”

    Quốc sư hỏi: “Vậy còn ngài? Ngài dựa vào cái gì mà cảm thấy mình đủ kiên định?”

    Tạ Liên nói:”Quốc sư, người cảm thấy ta có thể phi thăng sao?”

    Quốc sư liếc mắt nhìn hắn, nói:”Ngài mà không thể phi thăng thì chẳng còn ai có thể. Chỉ là sớm hay muộn thôi.”

    Tạ Liên hơi hơi mỉm cười, nói: “Vậy thì mời ngài đón xem.”

    Hắn chỉ lên trời nói: “Nếu có một ngày kia, ta phi thăng, ta nhất định sẽ làm cho những lời hôm nay ta nói trở thành đại thế.”

    (Đại thế: Xu thế lớn)

    Phong Tín cùng Mộ Tình canh giữ ngay sau hắn, những lời hắn nói đều thu hết vào tai, hai người cũng không tự giác mà hơi hơi ngẩng đầu. Khóe miệng Phong Tín khẽ nhếch, mà ánh mắt Mộ Tình sáng lên, giống như đúc vẻ mặt Tạ Liên. Quốc sư gật đầu nói: “Được, vậy ta liền xem – có điều, ta không cho rằng ngài được phi thăng sớm là chuyện tốt. Ta hỏi ngài, cái gì gọi là đạo?”

    Tạ Liên rướn đầu lên, nói: “Ngài nói, nhân hành vu lộ, tức là đạo.”

    (Nhân hành vu lộ: Người muốn theo đạo không cần phải đi đúng đường, chỉ cần một lòng hướng đạo)

    Quốc sư nói: “Đúng rồi. Nhưng mà, con đường người đi chưa đủ nhiều. Vì thế, ta cảm thấy, bây giờ người nên xuống núi đi lại một chút.”

    Tạ Liên hai mắt sáng ngời. Quốc sư lại nói: “Năm nay người cũng mười bảy rồi, hiện giờ cho phép người xuống Thái Thương sơn, ra ngoài vân du rèn luyện.”

    Tạ Liên nói:”Vừa đúng dịp!”

    Hắn ở Hoàng Thành một ngày, nghĩ ngay đến Quốc chủ, đám người Thích Dung tụ tập, hơn nữa Tiên Lạc cung hoa lệ như vậy mà bị lụi tàn theo lửa, không muốn cùng phụ mẫu rối rắm nhiều hơn, không bằng lại đi xa hơn chút, chuyên tâm đi trên con đường của chính mình.

    Lúc này, Quốc sư lại nói: “Thái Tử điện hạ,rất nhiều năm rồi, có một câu cửa miệng vẫn được tương truyền, vẫn được coi là một chuyện đương nhiên, nhưng thực tế những lời này là sai, chỉ là người ta không nhận ra.”

    Tạ Liên hỏi:”Câu nào?”

    Quốc sư đáp: “Nhân vãng thượng tẩu, thành thần; Nhân vãng hạ tẩu, thành quỷ.”

    (Người lên trên trời thành thần, người xuống dưới đất thành quỷ)

    Tạ Liên suy nghĩ một chút, hỏi: Câu nói này có chỗ nào không đúng sao?”

    Quốc sư nói: “Đương nhiên không đúng, ngài nhớ kỹ, nhân vãng thượng tẩu, hoàn thị nhân; vãng hạ tẩu, y cựu thị nhân.”

    (Người lên trời vẫn là người, người xuống dưới đất vẫn chỉ là người.”

    Tạ Liên vẫn còn đang nghiền ngẫm lời này, Quốc sư đã vỗ vỗ vai hắn, quay đầu lại nhìn, nói: “Nói chung, từ đứa trẻ kia đi… Ngài không cần phải quá để tâm, mỗi người đều có mệnh riêng. Nhiều khi, không phải ngài cứ giúp đỡ thì sẽ có cách giải quyết, có chuyện gì nói sau. Đi ra ngoài trước thì hảo hảo rèn luyện đi, chỉ mong lúc ngài trở về, sẽ trưởng thành hơn.”+

    Nhưng mà, tất cả mọi người đều không ngờ rằng, buổi tối đó hài tử kia liền chạy trốn khỏi Hoàng Cực quan, biến mất rồi.

    Càng không ngờ tới chính là, sau lần xuống núi này, Thái Tử Tạ Liên mười bảy tuổi của Tiên Lạc quốc với sự đại bại của quỷ hồn vô danh ở cầu Nhất Niệm, cứ như vậy, trong sấm vang chớp giật mà phi thăng.

    Tam giới náo động.

    Chương 69: Vớt tiền của tiên, tướng sĩ lỗ mãng gặp thái tử

    “Mở –”

    Đi kèm với một tiếng hô hào hùng hậu, gấm vóc đỏ thẫm rơi xuống đất. Giữa hàng ngàn người, nhất thời bùng lên tiếng hoan hô ngút trời.

    Đây là một pho tượng thần Thái tử bằng vàng ròng. Một tay cầm kiếm, một tay cầm hoa*, ví với “Vốn có năng lực diệt thế, không đánh mất lòng tiếc hoa”. Đường nét gương mặt tượng thần dịu dàng, mắt ngọc mày ngài, nét môi mỹ lệ, khóe miệng khẽ nhếch, cười như không cười. Nói đa tình mà không ngả ngớn, nói vô tình cũng chẳng hững hờ, là một tướng mạo từ bi mà tuấn tú.

    *Cầm hoa ở đây là chỉ dùng ngón cái và ngón trỏ để cầm nha, tương tự như vầy.

    Đây là tòa điện Thái Tử thứ tám ngàn trong lãnh thổ nước Tiên Lạc.

    Phi thăng ba năm, đất bằng dựng nên tám ngàn tòa điện thần. Sự ủng hộ nhiệt liệt vô tiền khoáng hậu như thế, tuyệt đối là tiền vô cổ nhân, hậu vô lai giả, độc nhất một phần.

    *Tiền vô cổ nhân, hậu vô lai giả: Trước nay chưa từng có ai làm được.

    Nhưng điện thờ thứ tám ngàn này, cũng không phải là tượng thần Thái tử nguy nga quý giá nhất. Trên núi Thái Thương, đỉnh núi nơi Thái tử điện hạ tu hành vào thuở thiếu thời, nay đã được đặt tên là “đỉnh Thái Tử”.

    Chính tại nơi đó, cung Tiên Lạc thứ nhất được dựng nên. Sau khi pho tượng thần Thái tử đầu tiên được đúc xong, cũng chính tại nơi đó, quốc vương bệ hạ đích thân vén màn. Pho tượng thần Thái tử ấy cao đến năm trượng (16.5m), kỹ thuật điêu khắc sinh động như thật. Cả pho tượng chế tạo từ vàng ròng, chính là “thân vàng” hàng thật giá thật.

    Trong cung Tiên Lạc, khách hành hương nườm nượp không ngớt, đạp phá bậc cửa. Đỉnh hương trước điện cắm chi chít nén dài nén ngắn, hòm công đức cũng to lớn bền chắc hơn hòm công đức trong những ngôi miếu bình thường, bởi vì nếu không làm lớn một chút, thông thường chưa đến một ngày đã bị ném đầy đồ cúng, người đến sau không bỏ vào được. Mới vừa vào quán, còn có một hồ nước sâu trong vắt cũng bị ném đầy tiền xu, lấp lóe ánh xanh dưới gợn sóng lăn tăn, mấy con rùa già trong hồ ngày nào cũng bị tiền của khách hành hương trên cầu đá nện cho rụt vào mai rùa không dám ló đầu ra, các đạo nhân khuyên can du khách thế nào cũng vô dụng. Phía trong tường đỏ cao rộng của đạo quán trồng đầy hoa mai, trên cành cây cột vô số dải băng cầu phúc rực đỏ. Băng đỏ tung bay theo gió giữa biển hoa, phồn hoa tựa gấm.

    Còn trong đại điện, Tạ Liên ngồi ngay ngắn dưới tượng thần của mình, quan sát mọi người. Không ai trông thấy y, nhưng y lại có thể ngồi nhìn đám khách hành hương bên dưới nhao nhao bàn tán: “Sao trong điện Thái Tử này không có đệm hương bồ dùng để quỳ lạy vậy?” “Đúng rồi, quán chủ cũng nói không được quỳ, quán cũng mở rồi mà không được quỳ là sao?”

    Có một người nói: “Các ngươi mới tới cung Tiên Lạc lần đầu tiên nhỉ, cung Tiên Lạc luôn là thế mà. Nghe nói sau khi phi thăng, Thái tử điện hạ báo mộng cho rất nhiều ông từ và quán chủ, nói người tin mình không cần quỳ. Vậy nên trong điện Thái Tử không có chỗ quỳ lạy.”

    Tuy rằng người khác chẳng hề nhìn thấy Tạ Liên, Tạ Liên vẫn gật gật đầu. Ngờ đâu, những người khác lại cười nói: “Đây là cái đạo lý gì? Thần tiên là để quỳ lạy kia mà? Tin nhảm à.”

    Tạ Liên nghẹn họng. Lại nghe có người phụ họa: “Đúng đó, quỳ thì nhất định phải quỳ. Quỳ mới tỏ ra thành tâm chứ!” “Không có đệm hương bồ cũng chẳng sao, chúng ta quỳ dưới đất đi.”

    Thế là một người tiên phong quỳ xuống, ngay lập tức, hàng loạt người khắp bốn bề đều quỳ theo. Hàng trăm hàng ngàn người chen chúc trong điện ngoài điện, dập đầu bái lạy tượng thần hết lớp này đến lớp khác, miệng lẩm nhẩm đọc, âm thầm hứa nguyện cầu phúc. Tạ Liên lẳng lặng tránh ra, nghĩ bụng: “Thôi vậy, cứ từ từ mà tiến.”

    Giây tiếp theo, vô số ầm ĩ tiếng người hệt như sóng lớn từ bốn phương tám hướng ập về phía y. “Cầu trúng tuyển khoa cử! Trúng tuyển khoa cử! Năm nay nhất định phải trúng tuyển khoa cử! Trúng rồi sẽ hoàn nguyện!”

    Hoàn nguyện: Người cầu xin thần phù hộ thực hiện những gì mình hứa với thần sau khi đạt được nguyện vọng.

    “Lên đường bình an!”

    “Cô nương mà ta để ý toàn để ý sư huynh của ta, xin ngài hãy làm cho huynh ấy xấu xí một chút, xin ngài đó.”

    “Con mẹ nó, ta không tin ta vẫn không sinh được một nhóc bụ bẫm!!!”

    … Cầu gì cũng có, Tạ Liên nghe mà đầu to như cái đấu, vội vàng bắt quyết niệm chú, ngăn cách mọi âm thanh. Bên này tai y vừa yên tĩnh lại, chỉ nghe một tiếng kêu to, một người mặc áo đen hai tay bịt lỗ tai chạy ra từ sau điện, la toáng lên: “Cái quỷ gì thế này!!!”
    Chúng khách hành hương hoàn toàn không phát hiện sự xuất hiện của người này, tiếp tục dập đầu bái lạy. Tạ Liên thở dài một hơi, vỗ vai người nọ, cười nói: “Phong Tín, cực thân ngươi rồi.”

    Cung Tiên Lạc nhang đèn dồi dào như vậy, lời cầu nguyện mà mỗi ngày Tạ Liên có thể nghe được nào chỉ hơn một ngàn. Ban đầu, y còn xông xáo nhờ vào tinh thần ham mới lạ, chẳng phân lớn nhỏ tự mình làm hết, về sau người cầu phúc thật sự quá nhiều, y bèn ném một phần cho Phong Tín và Mộ Tình. Những cái nào nằm trong phạm vi chức trách của y, những cái nào có thể bỏ qua, hai người xem qua một lượt, sau đó lọc ra cái nào cần chú trọng giao cho Tạ Liên.

    Mộ Tình xem xong sẽ báo cáo cho y, trước giờ chưa từng phàn nàn câu nào, Phong Tín thì không tài nào hiểu nổi vì sao có người cứ thích cầu bậy bạ một tràng, ngay cả hòa hợp chuyện phòng the cũng đến cung Tiên Lạc để cầu. Tạ Liên là Võ Thần, làm sao quản loại chuyện đó được? Cứ như thế mãi, còn khiến cho những thần quan khác có ý kiến bất mãn, ngấm ngầm ám chỉ bọn họ không ị mà chiếm hầm cầu, quản không được còn muốn lôi kéo tín đồ qua, đúng là cạn lời mà. Tay bịt tai của Phong Tín lần lữa không chịu buông, dù rằng bịt tai thật ra chẳng có tác dụng gì. Hắn nói: “Điện hạ, sao huynh nhiều nữ tín đồ quá vậy!”

    Tạ Liên lồng hai tay vào tay áo, ngồi trong khói mây lượn lờ, mỉm cười nói: “Nhiều nữ tín đồ không tốt sao? Mỹ nhân như mây, cảnh đẹp ý vui.”

    Phong Tín ra chiều sợ hãi: “Không tốt chút nào hết, nữ tín đồ hình như suốt ngày ngoại trừ cầu cho lớn lên xinh đẹp gả vào nhà lành sinh được con trai thì chẳng còn nguyện vọng nào khác, không ai đàng hoàng cả, ta thấy các nàng là đau đầu!”

    Tạ Liên mỉm cười, đang định tiếp lời, đột nhiên, đoàn người náo loạn. Tạ Liên và Phong Tín nhìn ra ngoài điện, chỉ nghe có người hạ giọng nói: “Tiểu Kính Vương tới rồi, đi mau đi mau! Tiểu Kính Vương tới rồi!”

    Vừa nghe ba chữ “Tiểu Kính Vương”, mọi người cứ như nghe được “Đại Ma Vương”, ai cũng sợ xanh mặt, hốt hoảng giải tán. Chỉ trong nháy mắt, hệt như có gió lốc thổi qua, khách hành hương vốn dĩ đang thăm viếng tượng thần tháo chạy gần hết. Lát sau, một thiếu niên áo gấm dáng vẻ cao quý thân khoác áo choàng, hai tay bê một ngọn đèn cúng* làm bằng ngọc lưu ly, bước qua bậc cửa, nghênh ngang tiến vào. Nếu không nhìn cặp mắt, dung mạo của thiếu niên này có ba bốn phần tương tự Tạ Liên, mà khi nhìn cặp mắt lại cảm thấy gã quá ngạo nghễ chói lóa, không phải Thích Dung thì còn ai?

    *Bảo đăng: ý chỉ đèn dùng để cúng thần phật, hoặc đèn chạm trổ hoa lệ.

    Bây giờ Thích Dung cũng tầm mười bảy mười tám tuổi, mặt mày nẩy nở, khí chất trầm lắng, cũng xem như có vài phần phong thái của nam tử quý tộc. Gã vào cửa, nhưng không cho phép thuộc hạ và tùy tùng vào theo, hai tay bê ngọn đèn, bước vào trong điện, vén áo choàng quỳ dưới mặt đất sạch sẽ, nâng đèn qua khỏi đỉnh đầu, nghiêm trạng lạy vài cái. Hai người trên bệ thờ đưa mắt nhìn nhau, Phong Tín chép miệng, Tạ Liên đọc hiểu vẻ bực mình trong mắt hắn.

    Ba năm trước, lúc Tạ Liên rời khỏi hoàng thành ra ngoài du ngoạn, Thích Dung còn đang bị cấm túc, sau khi trở về, y còn chưa kịp gặp biểu đệ này một lần, tối đó đang say giấc nồng đã đùng đoàng phi thăng. Trong ba năm nay, Tạ Liên báo mộng không ít lần cho cha mẹ và quốc sư, cũng báo cho Thích Dung một lần, khuyên bảo Thích Dung từ nay về sau phải thiện chí giúp người, kiềm chế tính tình, không được càn quấy. Thế là Thích Dung hết sức tích cực đi khắp nơi tham gia xây dựng đạo quán miếu thờ, cúng đèn và quyên tặng công đức.

    Tuy rằng gã làm rất gắng sức, vô cùng thành kính, nhưng vẫn thường xuyên gây chút rắc rối như cũ, nhiều lần Phong Tín phải xuống thu dọn tàn cuộc, vì vậy Tạ Liên cũng hiểu được tại sao Phong Tín bực mình.

    Bên kia, Thích Dung bái xong, nói bằng giọng trách móc: “Thái tử biểu ca, đây là ngọn đèn thứ năm trăm mà ta cúng cho huynh, kẻ làm em này trung thành với huynh như thế, chừng nào huynh mới đến gặp ta đây? Báo mộng cho ta lần nữa cũng được mà. Dì dượng cũng nhớ huynh da diết, huynh lại chẳng buồn ngó ngàng đến chúng ta, đúng là cao ngạo lạnh lùng mà.”

    Thích Dung hoàn toàn không phát hiện Phong Tín đang đứng bên cạnh gã nhắc nhở Tạ Liên: “Huynh đừng bao giờ để ý đến gã. Đế Quân đã nói với huynh, nếu sự cố không nghiêm trọng thì thần quan tuyệt đối không thể tự lén lút hiển linh trước mặt người phàm. Họ hàng thân thuộc lại càng phải kiêng kỵ.”

    Tạ Liên nói: “Yên tâm, dĩ nhiên ta biết rồi.”

    Thích Dung nâng ngọn đèn đứng dậy, cầm lấy một cây bút, cúi đầu bắt đầu viết chữ lên đèn. Do lòng mang nỗi ám ảnh với Thích Dung, Tạ Liên và Phong Tín nhịn không được cùng nhích lại gần xem thử rốt cuộc gã viết cái gì, thấy chỉ là mấy lời bình thường như quốc thái dân an mưa thuận gió hoà này kia chứ không phải cầu mong ai đó bị chém cả nhà ở cổng chợ, hai người đều thở phào một hơi. Đến khi nhìn lại Thích Dung viết nắn nót từng nét từng chữ, Tạ Liên không khỏi nhớ đến một việc khác.

    Hồi Thích Dung mới vừa theo mẹ về nhà, một lần nọ, có một đám vương công quý tộc kết bạn với nhau lên núi Thái Thương cầu phúc. Mẹ của Thích Dung bỏ trốn theo dân đen rồi chạy ngược trở về, cho nên không dám ra ngoài gặp người, nhưng vẫn muốn cầu phúc cho con trai, để nó có thêm kiến thức, không thể chui rúc một chỗ với mình suốt ngày rồi biến thành ếch ngồi đáy giếng được, vì vậy mới nhờ hoàng hậu dẫn Thích Dung theo.

    Mặc dù đã cố hết sức ém xuống, nhưng chuyện bê bối của giới quý tộc bao giờ cũng truyền nhanh hơn mũi tên gắn cánh, trong hoàng thành làm gì có ai không biết chuyện của mẹ con Thích Dung? Bởi vậy, con em quý tộc thời đó đều tự giác gạt Thích Dung ra ngoài, không nói chuyện hay chơi đùa với gã. Tạ Liên thấy xích đu bèn chạy lên chơi, tất cả những đứa trẻ cùng tuổi đều chơi chung với y, thay phiên nhau giúp Thái tử điện hạ đẩy xích đu, còn lấy làm vinh hạnh. Lúc Tạ Liên đung đưa lên chỗ cao nhất, tình cờ cúi đầu nhìn thấy Thích Dung núp sau bóng mẫu hậu của mình, thò đầu ra ngửa mặt nhìn mình đầy hâm mộ.

    Tới điện Thần Võ, những người lớn cúng đèn xong, trước tiên cùng các quốc sư đi xin xăm, giải xăm và trò chuyện, để lại một đám nhóc trong điện Thần Võ cúng đèn nhỏ chơi đùa. Lần đầu tiên gặp hoàng hậu, Thích Dung không biết hoàng hậu đã cúng giúp mẹ con mình một ngọn, thấy mấy ngọn đèn kia tinh xảo đẹp mắt nên cũng muốn cúng đèn cầu phúc. Thích Dung tuổi còn nhỏ chưa hiểu nhiều, đi khắp nơi hỏi người ta nên viết lời cầu phúc ước nguyện cho mẹ như thế nào. Mấy đứa nhóc cùng tộc với Thích Dung mọi khi ở nhà cũng rất ghét Thích Dung, chịu sự ảnh hưởng của trưởng bối nên cũng cảm thấy mẹ con bọn họ làm mất mặt nhà mình, thế là cố ý giở trò gạt Thích Dung. Tạ Liên tập trung tinh thần viết xong ngọn đèn của mình, vừa đặt bút xuống thì nghe có người ở sau lưng mình hi hi ha ha, cười một cách bất bình thường, ngoảnh đầu lại nhìn chỉ thấy Thích Dung tay dính đầy mực nước, ôm một ngọn đèn như báu vật, cười hớn hở chuẩn bị đem cúng. Mà trên ngọn đèn đó viết chín chữ xiêu vẹo, “Thích Dung mong sớm ngày quy thiên với mẹ”.

    Tạ Liên ném phăng ngọn đèn đó tại chỗ, nổi trận lôi đình. Khi đó y cũng chưa lớn, nhưng lại dọa tất cả thiếu niên quý tộc sợ đến quỳ rạp dưới đất, không dám hó hé tiếng nào. Phát giận xong, Tạ Liên tự mình viết lại một ngọn đèn khác cho Thích Dung, không còn kẻ nào dám giở trò nữa. Sau đó xuống núi, y lại đi chơi xích đu. Lần này, Thích Dung chạy ra từ sau lưng hoàng hậu, chủ động đứng sau đẩy xích đu cho y. Thích Dung thấp hơn Tạ Liên, nhưng đẩy rất gắng sức, vẫn ở phía dưới ngửa mặt nhìn Tạ Liên, chỉ là ánh mắt từ hâm mộ đổi sang sùng bái. Sau đó nữa, Thích Dung biến thành cái đuôi của Tạ Liên, suốt ngày lắc lư bám theo sau “Thái tử biểu ca”.

    Phải thừa nhận rằng, Thích Dung của ngày trước vẫn được xem là một người khá bình thường, cũng không biết xảy ra chuyện gì mà càng ngày càng vặn vẹo. Có điều trong ba năm qua, người và việc mà Tạ Liên phải quan tâm nhiều vô kể, không có thời gian chú ý người xưa, cũng không biết gã có tiến bộ hay không.

    Nghĩ đến đây, Thích Dung đã cúng đèn xong, chuẩn bị rời khỏi điện. Nào ngờ lùi một hồi lại đụng trúng một người phía sau. Thích Dung lảo đảo, đoạn xoay phắt người, chẳng buồn nhìn đã mắng ngay: “Cái quái gì thế? Ngươi mắt mù hay chết đứng rồi mà không biết tránh ra?”

    Gã vừa mở miệng, Tạ Liên với Phong Tín cùng đỡ trán, nghĩ thầm: “Không thay đổi. Vẫn y như xưa!”

    Có lẽ vì trước năm tuổi luôn sống chung với cha, khó tránh tiêm nhiễm thói chợ búa và tính tình cáu kỉnh của cha, cho dù sau này hoàng hậu kiên nhẫn dạy bảo Thích Dung cỡ nào, hễ mà gã kích động, nói theo lời của quốc sư, thì gã vẫn sẽ “lộ rõ nguyên hình”. Chắn đường Thích Dung là một thanh niên áo quần rách rưới, tầm hai mươi bốn hai mươi lăm tuổi, vác một bọc hành lý thô sơ, đôi giày rơm gần như bị mài đến mất đế mất mép, lam lũ mỏi mệt. Có điều tuy thanh niên này sắc mặt tiều tụy, bờ môi khô nứt, xương gò má lõm xuống, nhưng ngũ quan lại hết sức đoan chính, gầy mà không yếu, ánh mắt sáng rỡ, hỏi: “Đây là đâu vậy?”

    Thích Dung nói: “Đây là cung Tiên Lạc, điện Thái Tử!”

    Người nọ lẩm bẩm: “Điện Thái Tử? Thái tử? Nơi này là hoàng cung thật sao?” Thấy tượng thần trong điện, bị vàng ròng thuần chất rọi cho sắc mặt nhuốm vàng, người nọ hỏi tiếp: “Đây là vàng ư?”

    Thấy đạo quán này quá tráng lệ, người nọ ngỡ rằng điện thần là hoàng cung. Bên cạnh có kẻ hầu bước lên xua đuổi, nói: “Dĩ nhiên là vàng rồi. Điện Thái Tử là điện thần của Thái tử, không phải điện Thái Tử trong hoàng cung! Ngay cả đây là đâu cũng không biết, ngươi là dã nhân đến từ phương nào?”

    Người nọ hỏi: “Vậy rốt cuộc hoàng cung nằm ở đâu?”

    Thích Dung híp mắt nói: “Ngươi hỏi cái này làm gì?”

    Đối phương nói một cách nghiêm túc: “Ta muốn đến hoàng cung gặp quốc vương. Ta có lời muốn nói với ngài ấy.”

    Thích Dung và mấy kẻ theo hầu đều bật cười, mặt lộ vẻ khinh miệt, nói: “Thứ dân quê đến từ nơi nào kia, ngươi muốn tới hoàng cung để làm gì? Lại còn gặp quốc vương nữa, ngươi nói gặp là cho ngươi gặp chắc? Tới hoàng cung rồi, chỉ sợ ngay cả cổng chính ngươi cũng không vào được.”

    Không hề suy suyển vì bị cười nhạo, người nọ nói: “Để ta thử xem. Biết đâu làm được.”

    Thích Dung cười ha ha: “Vậy ngươi thử đi.” Nói đoạn nhấc tay lên, cố ý chỉ hướng ngược lại cho người nọ. Người nọ đáp: “Cảm ơn.” Dứt lời vác bọc hành lý, xoay người đi ra ngoài quán. Lên đến cầu đá, bỗng nhiên dừng chân nhìn xuống. Xuyên qua nước hồ trong vắt, có thể thấy hàng lớp tiền xu lẳng lặng nằm dưới đáy hồ.

    Thanh niên này trông như suy tư chốc lát, giây tiếp theo, hắn trèo qua lan can cầu đá, nhảy xuống dưới hồ.

    Thân thủ của hắn vô cùng mạnh mẽ, sau khi nhảy xuống hồ, hắn khom lưng vớt hết vốc tiền này đến vốc tiền khác dưới đáy hồ, nhét vào trong ngực và bọc hành lý của mình. Bởi vì chưa từng thấy người nào ngay cả tiền của thần tiên cũng dám cướp, Tạ Liên và Phong Tín đều ngẩn ngơ. Thích Dung cũng sửng sốt, sau đó giận tím mặt, xông tới đập lan can quát to: “Mẹ kiếp! Ngươi làm cái gì đấy?! Mau kéo nó lên cho ta!!! Thật đúng là khốn kiếp!!!”

    Vài kẻ hầu vội vã nhảy xuống nước kéo người nọ, ngờ đâu thanh niên này võ nghệ cao cường, tay đấm chân đá, thế mà chẳng ai làm gì được hắn. Thích Dung ở bên trên nhìn mà nổi cơn tam bành, cả đám đạo nhân trong quán cũng đành người bó tay. Thanh niên kia vớt một đống tiền nặng trịch, vác bọc hành lý chuẩn bị trèo lên bờ, nào ngờ đạp trúng rêu xanh, trượt chân một cái, ngã tõm xuống nước với tư thế ngửa mặt lên trời, bấy giờ đám kẻ hầu mới nhân cơ hội tóm cổ hắn, vặn tay đưa hắn lên bờ. Thích Dung nhấc chân đá ngay một cú, mắng: “Tiền này mà ngươi cũng dám cướp!”

    Lúc Thích Dung nhấc chân, Phong Tín đứng sát bên cạnh, nắm chắc thời cơ tiện tay cản lại, vì vậy cú đá này tuy Thích Dung ra đòn hung bạo, nhưng thực tế đá vào người đối phương không đến nỗi nghiêm trọng. Mặc dù Thích Dung không thấy Phong Tín đứng bên cạnh phá rối, nhưng cũng phát hiện có chỗ nào là lạ, như thể bị quỷ đè chân, đá mạnh bảy tám cú đều có cảm giác đó, không khỏi có chút buồn bực. Chẳng biết có phải sặc nước không, thanh niên kia ho khù khụ vài tiếng, nói: “Tiền này đặt trong hồ cũng chỉ để đó, tại sao không thể cho ta lấy đi cứu người?”

    Thích Dung đá chưa sướng chân, cuối cùng chán ngán hỏi: “Cứu người nào? Ngươi là ai? Từ đâu đến?”

    Gã hỏi như vậy, đơn giản là vì muốn gán tội danh cho thanh niên này rồi nhốt vào đại lao, thế nhưng thanh niên lại là một người thật thà, đáp: “Ta tên Lang Anh, sống tại Vĩnh An, nơi đó gặp nạn hạn hán, không có nước nên hoa màu không mọc nổi, mọi người không có đồ ăn, không có tiền xài. Nơi này có nước uống, có đồ ăn, có tiền xài, dùng vàng đúc tượng, ném tiền xuống nước, cớ sao không thể chia một ít cho chúng ta?”

    Vĩnh An là một tòa thành lớn trong biên giới nước Tiên Lạc, Tạ Liên đứng dậy, sắc mặt sa sầm, hỏi: “Phong Tín, gần đây bên Vĩnh An gặp nạn hạn hán à? Sao ta không nghe nói gì hết?”

    Phong Tín quay đầu đáp: “Không biết, ta cũng chưa nghe nói bao giờ, lát nữa hỏi Mộ Tình xem sao?”

    Chương 70: Tượng vàng ngã, tướng sĩ lỗ mãng gặp đứa con tội nghiệp

    Tạ Liên nói: “Gọi cho Mộ Tình ngay.”

    Phong Tín khép ngón trỏ và ngón giữa tay phải, đặt lên huyệt thái dương, thông linh với Mộ Tình. Bên kia, Thích Dung mắng: “Ra là chạy đến từ cái xó Vĩnh An, đúng là núi nghèo nước độc sinh điêu dân. Bộ nghèo là được quyền cướp tiền của thần tiên à?”

    Lang Anh nói: “Ta không có cướp. Bây giờ ta lạy thần tiên mà các ngươi thờ, ta quỳ gối dập đầu trước ngài ấy, cầu xin ngài ấy cho ta tiền cứu mạng người dân quê nhà ta, ngài ấy có cứu chúng ta không?”

    Thích Dung nghẹn họng, nhủ thầm nếu như nói có, chắc không phải cái thằng này sẽ trèo lên từ lan can ôm tiền bỏ chạy như đúng lý hợp tình chứ? Vì vậy, gã nói: “Thái tử điện hạ là thần tiên, thần tiên đều bận tối tăm mặt mũi, ai mà rảnh để ý tới hạng điêu dân các ngươi!”

    Nghe vậy, Lang Anh chậm rãi gật đầu, nói: “Ta cũng cho rằng sẽ không để ý. Đâu phải chúng ta chưa từng van lạy, chẳng phải từ đầu chí cuối đều vô dụng sao? Nên chết vẫn chết thôi.”

    Lòng Tạ Liên chấn động, một đạo nhân quát lên: “Cái kẻ này, dám nói lời bất kính như thế trong điện thần, không sợ thiên nhân giáng tội sao!”

    Lang Anh lại nói: “Chẳng sao cả. Giáng thì giáng đi. Đã không sợ ngài ấy không cứu, còn sợ ngài ấy giáng tội sao?”

    Thích Dung phất tay, một đám kẻ hầu chờ chực đã lâu đua nhau xông lên, vây quanh thanh niên kia tay đấm chân đá. Phong Tín ở bên trong tận dụng mọi điều kiện có thể, tiêu trừ độ lực đấm đá của bọn chúng, vì thế tuy Lang Anh trông như bị đè xuống hành hung, nhưng mặt mũi lại ngớ ra, không tránh không né, chỉ thỉnh thoảng nâng tay che bọc hành lý trên lưng mình. Thích Dung thì cầm một nắm hạt dưa, vừa cắn vừa rung đùi, quát: “Đánh, đánh mạnh vào cho bản vương!” Đúng là rặt một bộ kẻ gian ác. Nghe gã tự xưng, Lang Anh bỗng dưng ngẩng đầu lên, hỏi: “Ngươi là vương? Vương gì cơ? Ngươi sống trong hoàng cung sao? Ngươi gặp được quốc vương sao?”

    Thích Dung thuận miệng phun một cái: “Ta là ông nội của ngươi đấy! Ngươi còn trông mong được gặp quốc vương bệ hạ à? Bệ hạ ngày bận ngàn việc, ai mà rảnh để ý tới ngươi.”

    Lang Anh lắc lắc cổ, ngoan cường hỏi: “Tại sao không rảnh để ý tới ta? Thần tiên không rảnh để ý tới ta, bệ hạ cũng không rảnh để ý tới ta, vậy cuối cùng ai rảnh để ý tới ta đây? Rốt cuộc ta nên đi tìm ai? Quốc vương có biết bên Vĩnh An đã chết rất nhiều người không? Người trong hoàng thành có biết không? Nếu biết thì tại sao thà ném tiền xuống nước cũng không muốn cho chúng ta?”

    Thích Dung cười sằng sặc: “Tiền của bọn ta, thích tiêu thế nào thì tiêu thế nấy, cho dù chơi lia đồng xu trên mặt nước cũng chẳng mắc mớ gì đến người khác, dựa vào đâu phải chia cho các ngươi? Ngươi nghèo thì ngươi có lý à?”

    Tuy rằng lời trên cũng có lý lẽ nhất định của nó, nhưng nói vào lúc này thật sự không phù hợp cho lắm. Tạ Liên đang định nghĩ cách bịt miệng Thích Dung lại, ngay lúc đó, một thiếu niên áo đen vội vã vòng ra từ sau điện, hỏi: “Điện hạ cho gọi ta có chuyện gì?”

    Tạ Liên ngoắc tay, nói: “Mộ Tình mau tới đây. Mấy ngày nay trong số những lời cầu nguyện ngươi nhận được, có nghe về tin tức Vĩnh An gặp nạn hạn hán không?”

    Mộ Tình cũng sửng sốt: “Không có nghe nói.”

    Phong Tín buột miệng thốt ra trong lúc cấp bách: “Làm sao không có được? Dân chạy nạn bên kia trốn đến đây luôn rồi!”

    Giọng điệu của Phong Tín quá chắc chắn, khiến cho sắc mặt Mộ Tình hơi đanh lại, gượng gạo nói: “Ta nói đúng sự thật thôi, đích xác là không có. Chẳng lẽ ý của ngươi là ta cố tình biết mà không báo? Vậy ngươi có nhận được không? Nếu thật sự có người Vĩnh An khẩn cầu giải hạn, điện Thái Tử là tháng lẻ do ta phụ trách, tháng chẵn do ngươi phụ trách, chắc không đến mức toàn bộ lời cầu phúc liên quan đến nạn hạn hán đều tập hợp vào tháng lẻ đâu nhỉ, nên ngươi cũng chẳng biết tẹo nào hết.”

    Phong Tín ngẩn ra, ngẫm lại đúng là có lý, bèn nói: “Ta đâu có nói ngươi cố tình. Ngươi nghĩ nhiều quá rồi.”

    Nghe như bọn họ lại sắp bắt đầu cãi cọ, Tạ Liên đau đầu làm dấu “tạm dừng”, nói: “Được rồi, Phong Tín không có ý đó đâu. Ngừng ngay đi.”

    Hai người lập tức ngậm miệng không tranh cãi nữa. Đúng lúc Thích Dung nhìn thuộc hạ đánh Lang Anh rốt cuộc cũng phát ngán, gã vớ cái túi nhỏ đựng vỏ hạt dưa, nói: “Lôi thằng trộm cắp này vào đại lao nhốt đi.” Đám người hầu đáp: “Tuân lệnh!” Sau đó vài kẻ nhấc Lang Anh lên.

    Tạ Liên nói: “Giải quyết vấn đề hiện tại trước đã, cứu người này ra, rồi ta sẽ hỏi kỹ hắn về chuyện của Vĩnh An.”
    Sắc mặt dịu lại, Mộ Tình dè dặt đáp: “Điện hạ muốn giải quyết thế nào? Huynh không thể tùy tiện hiển linh được.”

    Sau khi phi thăng, quy tắc mà Tạ Liên không tài nào hiểu được chính là cái này. Bảo rằng thần quan phải cứu rỗi chúng sinh, thế mà cứ khăng khăng muốn ra vẻ ta đây, ngự trị trên chúng sinh, không được tùy tiện hiển linh, khiến cho y thường xuyên khoanh tay bó gối, phiền muộn vô cùng. May là Tạ Liên cũng có không ít cách đối phó, y không nghĩ ngợi gì, cũng chẳng buồn ngoảnh đầu, đưa tay đẩy một cái. Phát hiện cái bóng trên mặt đất thoáng lắc lư, đám người phía trước ngờ vực xoay người lại. Giây tiếp theo, Thích Dung kêu thảm thiết: “Thái tử biểu ca –”

    Cái đẩy này, Tạ Liên thế mà lại đẩy ngã tượng thần của mình!

    Pho tượng vàng cầm kiếm cầm hoa tao nhã tuấn tú như nghiêng mà không nghiêng, từ từ ngả sang một bên. Sắc mặt Thích Dung trông tan nát ruột gan cứ như nhìn thấy mẹ mình thắt cổ đá ghế, chẳng còn hơi sức để ý Lang Anh, chạy ào qua ôm chặt đùi tượng thần, ngoan cường chống đỡ, gào khản cổ: “Lũ vô dụng các ngươi còn chờ gì nữa! Mau giúp ta đỡ huynh ấy! Đừng để Thái tử biểu ca ngã!! Huynh ấy không thể ngã được!!!”

    Thích Dung thì đau xé ruột, còn Tạ Liên lại bình chân như vại đi lướt qua người gã, bước ra khỏi điện Thái Tử, mặt của Phong Tín và Mộ Tình muốn nứt cả ra. Hồi lâu sau, Phong Tín mới nói: “Điện hạ! Đây là tượng thần của huynh đó!”

    Chuyện ngã tượng này là điềm xấu, ít nhiều cũng sẽ kiêng kỵ phần nào. Thần quan tự đẩy ngã tượng thần của mình như thế, đúng là mới nghe lần đầu, chuyện lạ ba giới. Tạ Liên nói: “Một cục vàng to thôi mà, không làm vậy sao dời lực chú ý của bọn chúng được. Các ngươi đè tượng vàng đó đi, đừng để bọn chúng thoát ra được, ta sẽ đi gặp người kia.”

    Dù rằng không nói tiếng nào, nhưng Phong Tín và Mộ Tình chỉ có thể nghe lệnh, mỗi người đứng cạnh tượng thần duỗi một ngón tay đè tượng. Bọn họ chỉ cần ra nhiêu đó sức là đủ, mấy người kia dốc hết sức bình sinh mà cũng không nâng lên nổi, chỉ còn cách miễn cưỡng cầm cự, nghiến răng nghiến lợi nói: “… Không hổ là vàng thật, đủ cân lượng phết!”

    Thấy cả đám người chẳng để ý đến mình nữa, Lang Anh ngã ngồi bên ngoài nhìn chằm chằm tượng thần lấp lánh ánh vàng kia hồi lâu, cuối cùng vẫn đứng dậy, phủi phủi bụi trên người, vác bọc hành lý chạy ra ngoài. Tạ Liên đi theo sau hắn, chờ hắn chạy tuốt ra xa, chui vào một rừng cây rậm rạp xanh tươi, dáo dác nhìn quanh, sau cùng mới ngồi nghỉ dưới một gốc cây. Tạ Liên thì núp ở sau cây, tiện tay bắt quyết niệm chú, biến thành một tiểu đạo sĩ áo trắng.

    Biến hình xong, Tạ Liên nhìn mình từ trên xuống dưới, sau khi xác định không có sơ hở, y vung phất trần một cái, đang nghĩ xem xuất hiện kiểu nào mới không đột ngột thì thấy Lang Anh ngồi chồm hổm bên một vũng nước cạnh gốc cây, miệt mài dùng hai tay đào một cái hố dưới đất.

    “……”

    Đôi tay của thanh niên này rất thô to, một bàn tay xúc xuống, đã rộng mà còn sâu, đào cho bùn đất văng tung tóe, hệt như một con sói đen gầy gò. Tạ Liên đang kinh ngạc với việc tự dưng Lang Anh lại đào hố, chỉ thấy hắn chùi bùn đất lên quần, đoạn dùng tay múc một vốc nước trong vũng nước, đưa đến bên miệng.

    Thấy thế, Tạ Liên không trốn được nữa, vội vã bước ra chặn tay hắn lại, lấy một bình nước từ túi càn khôn trong tay áo, đưa cho hắn.

    Lang Anh đã ngậm một ngụm nước múc từ vũng nước, đang phồng má nuốt xuống, thấy tiểu đạo sĩ này thình lình xuất hiện cũng chẳng lấy làm lạ, hơn nữa cũng không chối từ, nhận bình tu ừng ực một hơi cạn sạch, uống xong mới nói: “Cảm ơn.”

    Nếu đã đột ngột xuất hiện, Tạ Liên cũng không chú trọng lời dạo đầu tự nhiên gì nữa. Y cố gắng vẫy phất trần sao cho trông đáng tin cậy và đầy cốt cách tiên nhân, nói: “Anh bạn này, ngươi từ đâu đến, muốn đi nơi nào?”

    Lang Anh đáp: “Chúng ta đến từ Lang Nhi Loan của thành Vĩnh An, lẽ ra muốn đến hoàng cung. Bây giờ ta đổi ý rồi, không đi nữa.”

    Tạ Liên sửng sốt, hỏi: “Chúng ta?”

    Lang Anh gật đầu: “Chúng ta. Ta, và con ta.”

    Tạ Liên càng bối rối hơn, trong lòng lại thoáng thấy ớn lạnh. Chỉ thấy Lang Anh tháo bọc hành lý trên lưng xuống, mở ra, nói: “Con ta.”

    Thứ được quấn trong bọc hành lý trên lưng hắn, thế mà lại là thi thể của một đứa con nít!!!

    Thân hình của đứa bé cực nhỏ, xem ra chưa đầy hai ba tuổi, mặt mũi vàng vọt, đôi má lõm xuống, vài sợi lông tơ vàng nhạt lưa thưa trước trán, ngoài ra còn nổi một ít rôm sảy. Gương mặt nhỏ nhắn của nó nhíu thành một biểu cảm kỳ quặc, trông như sắp khóc tới nơi, khó chịu tột cùng. Hai mắt đã nhắm lại, nhưng miệng vẫn còn há, tiếc rằng không phát ra được tiếng nào nữa.

    Con ngươi của Tạ Liên chợt co rút, cõi lòng bàng hoàng, thốt không nên lời. Thảo nào y cứ cảm thấy thái độ của thanh niên này có gì đó không ổn, không nói được kỳ quặc chỗ nào, chỉ cảm thấy không giống người bình thường. Nói năng, hành động, như thể hoàn toàn không suy xét đến hậu quả, xông ngang đánh thẳng, bất chấp ngọn ngành. Bây giờ xem ra, người này làm gì còn hậu quả nào cần suy xét nữa.

    Cho Tạ Liên xem con trai xong, Lang Anh bọc con lại, cẩn thận nhét góc bọc. Nhìn nét mặt và động tác chuyên tâm của hắn, trong lòng Tạ Liên khó chịu khôn tả. Đây là lần đầu tiên y nhìn thấy thi thể của đứa trẻ nhỏ như thế, lắp bắp hỏi: “Ngươi… con của ngươi chết như thế nào?”

    Lang Anh vác bọc hành lý trên lưng, ngơ ngác nói: “Chết thế nào hả… ta cũng không biết chết thế nào nữa. Vừa khát, vừa đói, vừa bệnh, hình như cái nào cũng có một chút.”

    Hắn gãi gãi đầu, nói: “Lúc vừa cõng ra khỏi Vĩnh An, nó còn ho được vài tiếng, ở đằng sau kêu ta cha ơi cha ơi. Dần dà nó không lên tiếng nữa, chỉ ho khù khụ thôi. Rồi sau đó, ngay cả ho cũng không có, ta còn tưởng nó đang ngủ. Đến khi tìm được đồ ăn, lúc định gọi nó dậy, nó chẳng dậy nổi nữa.”

    Không ngờ đứa bé này lại chết trên đường chạy nạn.

    Lang Anh lắc đầu, nói: “Ta không biết chăm sóc trẻ con. Nếu vợ ta biết con trai đã chết chắc sẽ mắng ta té tát cho mà xem.”

    Im lặng một hồi, hắn nói tiếp: “Ta ước gì vợ ta còn có thể mắng ta.”

    Ánh mắt của hắn từ đầu chí cuối vẫn bình thản như thường, tựa như một khúc cây chết rũ, một đầm nước tối mịt, không dậy nổi chút sức sống và gợn sóng. Cổ họng Tạ Liên sít chặt, hồi lâu sau mới khẽ mở miệng: “Ngươi… ngươi… chôn đi.”

    Lang Anh gật đầu: “Ừ. Ta muốn chọn nơi tốt một chút, nơi này không tệ, có cây chắn ánh nắng, còn có nước nữa. Chôn xong ta sẽ quay về. Cảm ơn nước của ngươi.”

    Hắn ho khan vài tiếng, đoạn cúi người tiếp tục dùng tay đào hố. Tạ Liên lại lầm bầm: “Không. Ngươi đừng nói cảm ơn ta… đừng nói cảm ơn ta, đừng nói.”

    Bấy giờ, Phong Tín và Mộ Tình cũng chạy tới, thấy bên này một người đào hố một người đờ đẫn thì ù ù cạc cạc. Tạ Liên chẳng còn tâm trạng nói nhiều, ngơ ngác lặp lại vài câu, nửa ngày sau mới sực nhớ, chỉ cho nước là chưa đủ, người này còn phải về Vĩnh An, thế là y bèn thò tay vào tay áo, mò mẫm hồi lâu, cuối cùng móc ra một thứ, đưa cho đối phương: “Ngươi lấy cái này đi.”

    Lang Anh dừng động tác, nhìn kỹ thứ trong tay Tạ Liên. Đó là viên ngọc đỏ thẫm lớn chưa bằng móng tay, màu sắc trong suốt, sáng bóng lấp lánh, đẹp đến động lòng. Dẫu cho không biết đây là cái gì, chỉ cần nhìn một cái cũng hiểu vật nhỏ này chắc chắn giá trị liên thành.

    Đây chính là bên khuyên tai còn lại trong đôi khuyên tai ngọc san hô đỏ mà Tạ Liên đeo vào buổi diễu hành Thượng Nguyên tế trời ba năm trước. Mộ Tình cũng xem như có ấn tượng sâu sắc với viên ngọc này, vừa thấy nó là thay đổi sắc mặt. Lang Anh cũng không chối từ, như đã mất sạch lễ tiết và đắn đo mà người bình thường nên có, hắn đưa tay nhận ngay, nói: “Cảm ơn.”

    Lang Anh cẩn thận cất viên ngọc vào trong đai lưng, đoạn tháo bọc hành lý trên lưng, nhẹ nhàng thả xuống hố, nói: “Cha sẽ quay về gặp con ngay.”

    Nói xong, hắn trịnh trọng dùng tay vun đất phủ lên bọc vải. Tạ Liên đỡ trán, nhắm nghiền mắt. Qua một hồi nữa, hắn bước nhanh đi mất, Phong Tín ngạc nhiên hỏi: “Điện hạ, hắn chôn thứ gì thế? Hắn nói “cha”? Này là chôn người sao?”

    Mộ Tình thì lại quan tâm chuyện khác, nói: “Điện hạ, ta mới vừa đi điều tra, làm rõ sự việc rồi. Bên Vĩnh An vốn dĩ đã không giàu có, cung quán miếu thờ xây rất ít, chưa kể hình như đạo quán bên kia có nơi quy định rằng, người không thờ phụng thì không được vào cung quán thăm viếng, vì thế vào được điện Thái Tử toàn là người giàu có, còn người nghèo gặp nạn căn bản không vào được…”

    Tạ Liên không trả lời, trầm giọng nói: “Các ngươi, đến Vĩnh An xem tình hình. Ta, đến gặp quốc sư, hỏi cho ra lẽ rốt cuộc là chuyện thế nào.”

    Từ trước đến nay sắc mặt y chưa bao giờ khó coi như thế, hai người hầu không dám sơ suất, đồng thanh đáp lời, lập tức xuất phát. Tạ Liên thì xoay người lao nhanh về phía núi Thái Thương.

    Xem ra tình hình thiên tai ở Vĩnh An, e rằng chỉ lớn chứ không nhỏ. Nhưng mà, cho dù y không nghe được tiếng cầu phúc, bên hoàng cung không thể nào không biết!

    Chương 71: Thần tiên trên trời không thể nhúng tay chuyện nhân gian

    Núi Thái Thương, đỉnh Thái Tử.

    Đến canh giờ này, du khách trên núi không thể nán lại nữa, tất cả đều đã bị mời ra ngoài cổng chùa, rời khỏi Hoàng Cực quán. Trong cung Tiên Lạc, tiếng tụng kinh vang từng đợt, hơn một ngàn đạo nhân đang học lớp buổi tối, còn bốn vị quốc sư thì chủ trì việc hành đạo bên chân tượng vàng cao đến năm trượng.

    Trong điện Thái Tử, hai bên là đèn cầu phúc xếp thành hàng từ mặt đất đến nóc điện. Tạ Liên giáng xuống từ trên trời, nhẹ nhàng đáp lên bệ thờ, vừa khéo ngồi ngay ngắn trước tượng thần của mình.

    Y phất tay, đất bằng bỗng nổi một trận gió, vô số ngọn đèn bắt đầu xoay chầm chậm. Đèn đuốc chập chờn, các đạo nhân rối rít ngẩng đầu lên, tặc lưỡi bảo lạ, tiếng thì thầm vang loáng thoáng. Lẽ ra quốc sư đang nhắm nghiền hai mắt ngồi yên trên ghế, thế rồi đột nhiên mở mắt ra, nói: “Hôm nay dừng ở đây. Về hết đi.”

    Các đạo nhân đứng dậy lui ra ngoài, ba vị phó quốc sư còn lại tuy không nhìn thấy chân thân của Tạ Liên, nhưng cũng đoán được có thứ gì đó vừa đến, cả ba đồng loạt lui ra, đóng cửa lớn của điện thần. Cửa lớn vừa khép lại, Tạ Liên vội vã mở lời. Y nói: “Quốc sư, ngài có biết chuyện đại hạn ở Vĩnh An không? Phía phụ hoàng dường như chẳng có động tĩnh gì, phải chăng trong triều đã xảy ra chuyện gì? Hay là phụ hoàng không nắm rõ tình hình cụ thể?

    Thần quan không thể tự lén lút hiển linh trước mặt người phàm, chỉ có một trường hợp ngoại lệ, đó là trước mặt người tu đạo có địa vị cao như quốc sư hay chưởng giáo (người quản lý một giáo phái). Người có đạo hạnh cao thâm đến cấp bậc như thế chính là người thay mặt cho thần quan dưới phàm trần, vậy nên Tạ Liên có thể trao đổi trực tiếp với quốc sư. Quy tắc “không được quỳ lạy trong điện Thái Tử”, chính là Tạ Liên mượn lời quốc sư truyền đạt xuống.

    Y cứ ngỡ là có tình huống đặc biệt nào đó khiến quốc vương không có thời gian giải quyết tình hình thiên tai ở Vĩnh An, chỉ bất đắc dĩ mà thôi, hoặc quốc vương không biết chuyện đã nghiêm trọng đến mức chết nhiều người như thế, ngờ đâu quốc sư lại đáp: “Quốc vương bệ hạ vẫn khỏe, không xảy ra chuyện gì lớn, cũng nắm rõ tình hình thiên tai ở Vĩnh An.”

    Tạ Liên ngẩn ra, hỏi: “Vậy tại sao mỗi lần phụ hoàng đến Hoàng Cực quán, con chẳng bao giờ nghe người cầu phúc cho Vĩnh An? Tại sao ngay cả một câu cũng không nhắc tới?”

    Mặc dù y và cha quanh năm bất hòa, nhưng cũng biết quốc vương không phải là một vị vua hồ đồ. Tuy rằng luôn tự phụ mình là thiên tử cao quý, đặt nặng tôn ti, nhưng cũng không đến nỗi thờ ơ với người dân gặp nạn. Quốc sư đáp: “Chuyện này không liên quan đến quốc vương bệ hạ, là ta đề nghị người và hoàng hậu không nhắc tới Vĩnh An trong lúc cầu phúc.”

    “….”

    Tạ Liên hỏi: “Vì sao?”

    Quốc sư đáp: “Vì vô dụng thôi.”

    Tạ Liên kinh ngạc: “Vô dụng là sao?”

    Ngừng một chút, đầu óc y mới kịp thông, nói: “Ý ngài là, vì con là Võ Thần nên không thể quản chuyện hạn hán, bởi vậy đề cập với con là vô dụng ư? Nhưng phải chăng ngài đã quên, con không chỉ là Võ Thần, con còn là Thái Tử Tiên Lạc. Dân chúng nước con giờ đang chìm sâu trong nước sôi lửa bỏng, làm sao con có thể ngồi yên phớt lờ?” Suy nghĩ một lát, Tạ Liên nói tiếp: “Việc cấp bách lúc này chính là cứu chữa nạn dân Vĩnh An. Phiền ngài thay con góp ý với phụ hoàng, đừng xây thêm miếu thần điện thần gì nữa, điện Thái Tử khắp cả nước đã nhiều lắm rồi, con cũng không cần nữa. Còn đống tượng vàng kia nữa, có thể nung chảy hết, phát tiền cứu trợ thiên tai. Phía Tây Vĩnh An đại hạn thiếu nước, vậy thì đào một con sông, dẫn nước từ phía Đông sang, tưới tiêu hoa màu, bồi dưỡng đất đai…”

    Tạ Liên vừa nói, quốc sư vừa lắc đầu, lẩm bẩm: “Quá sớm. Quá sớm.”

    Tạ Liên hỏi bằng giọng khó hiểu: “Ngài nói cái gì quá sớm cơ?”

    Quốc sư đáp: “Vì đâu ta lại nói con không nên phi thăng quá sớm, bây giờ con đã hiểu chưa? Bởi vì dân chúng nước con vẫn chưa chết hết.”

    “……” Tạ Liên trợn tròn hai mắt, trầm giọng tức giận nói: “Quốc sư! Ngài… ngài đang nói lời gì thế? Cái gì gọi là… cái gì gọi là dân chúng nước con chưa chết hết?!”

    Quốc sư đáp: “Con đã là thần, nhưng con vẫn không quên được thân phận khi làm người phàm của mình, vương vấn không dứt, chưa thể đoạn tuyệt với trần gian. Nhưng nếu con dấn thân vào rồi lại bất lực, cuối cùng chỉ có một mớ rối ren mà thôi.”

    Tạ Liên ngồi trên bệ thờ, quốc sư đứng bên dưới, rõ ràng là Tạ Liên đang nhìn xuống, nhưng khi quốc sư nói những lời này, dường như lão mới là người ngồi tít trên cao. Tạ Liên hỏi: “Sao con có thể bó tay bất lực được? Chỉ cần chịu làm, sẽ có hồi báo. Cứu được bao nhiêu hay bấy nhiêu, cho dù chỉ cứu được một người trở về cũng còn hơn không hỏi han đến. Nếu ngài không muốn thay con chuyển lời tới phụ hoàng, vậy để con tự đi tìm người.”
    Tạ Liên đột nhiên đứng dậy, quốc sư túm tay áo của y, quát: “Quay lại đây! Con có biết tại sao thần quan không thể tùy tiện hiển linh trước mặt người phàm không? Quy định được đặt ra hàng trăm ngàn năm qua, tất có đạo lý của nó, đừng làm chuyện ngu xuẩn!”

    Tạ Liên quay phắt đầu lại, nói: “Vậy con có thể làm gì đây? Cái này không được, cái kia cũng không nốt, quốc sư, hiện giờ trên lãnh thổ của con, rất nhiều người đã chết! Thần được xưng là thần chẳng phải vì có thể cứu vớt chúng sinh sao? Nếu lúc này mà con cũng không thể xuất hiện, vậy lúc nào mới xuất hiện được đây?! Rốt cuộc ý nghĩa của việc con phi thăng là gì?!”

    Quốc sư bắt lấy y, thở dài: “Thái Tử điện hạ ơi Thái Tử điện hạ à, con có biết, ta nhìn thấy gì không?”

    Giây lát sau, Tạ Liên bình tĩnh lại, ngồi xuống đáp: “Mời nói.”

    Quốc sư chăm chú nhìn y, nói: “Ta nhìn thấy tương lai của con, tối đen như mực.”

    Tạ Liên nhìn thẳng vào quốc sư, nói: “Chắc ngài nhìn lầm rồi. Con chỉ thích mặc đồ trắng.”

    Quốc sư nói: “Ta sợ con không cứu vớt được dân chúng nước con, ngược lại còn bị họ kéo xuống khỏi thần đàn.”

    Tạ Liên đáp: “Dân chúng nước con không như thế đâu, họ biết phân biệt rạch ròi phải trái mà. Nếu con không thể cứu vớt họ, bản thân con ngồi trên thần đàn cũng chẳng có ý nghĩa gì.”

    Một lúc sau, quốc sư than thở: “Tuy việc phụ hoàng con làm không thể nói là đúng, nhưng cũng không thể nói là sai. Con nói muốn phát tiền cứu trợ thiên tai, thật ra không phải phụ hoàng con chưa từng phát, con có thể xem thử hiệu quả thế nào. Con nói muốn đào sông dẫn nước, con hãy tự đi mà xem con sông kia liệu có làm được hay không.”

    Tạ Liên gật đầu: “Hiểu rồi. Cảm ơn quốc sư.”

    Sau khi rời khỏi núi Thái Thương, y đi một mạch về phía Tây, tới thành Vĩnh An của nước Tiên Lạc.

    Hai mươi năm qua, Tạ Liên chưa bao giờ cảm thấy mặt trời lại nóng cháy và trí mạng đến thế. Bước chân đầu tiên đặt lên mảnh đất này, y lập tức cảm thấy khô nóng khó chịu, dường như mọi vật trong không khí đều bị bóp méo. Mặt trời chói chan giữa trời cao, đất đai nứt nẻ thành từng mảng vỡ vụn, cằn cỗi một cách đáng sợ. Ven đường có một rãnh sâu, hình như trước đây nó là một đường sông, nhưng vì hạn hán mà khô đến thấy cả đáy, lòng sông đen ngòm tỏa ra mùi tanh hôi khác thường. Sau khi đi thật lâu, Tạ Liên vẫn chẳng nhìn thấy bất cứ một mảnh ruộng nương nào. Biết đâu có đấy, nhưng ắt hẳn chẳng còn nhận ra nó từng là ruộng nương nữa rồi.

    Tạ Liên vừa đi vừa nhìn bốn phía, làn gió khô nóng thổi mái tóc dài của y bay tán loạn, nhưng y hoàn toàn chẳng có tâm trạng mà chỉnh lại. Bấy giờ, chợt nghe phía sau có một người kêu lên: “Điện hạ!”

    Tạ Liên vừa quay đầu lại, chỉ thấy hai bóng người áo đen hối hả chạy tới, chính là Phong Tín và Mộ Tình. Tạ Liên hỏi ngay: “Có tin tức gì không?”

    Phong Tín giũ vạt áo trước ngực để quạt gió, đáp: “Có. Trong một hai năm qua, toàn bộ phía Tây đều thiếu nước, năm nay mới bùng phát. Vĩnh An là nơi bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất, sông khô cạn, trời không mưa, đất không thể trồng trọt. Nhà nào có tiền thì đỡ hơn, chỉ cần bỏ tiền là mua được nước và thức ăn ở phương xa. Có điều đại đa số những người có tiền đã sớm dọn nhà sang phía Đông cả rồi. Những người còn sót lại, một là nghèo, hai là chạy không nổi.”

    Tạ Liên chau mày: “Quốc sư nói không phải phụ hoàng của ta chưa từng làm gì, cũng như đã hạ lệnh cứu trợ thiên tai, tại sao vẫn nghiêm trọng như vậy?”

    Mộ Tình lạnh lùng đáp: “Phát mười phần, cứ xuống một tầng lại bị bòn rút một tầng, cuối cùng bòn rút hết sạch chẳng còn lại gì nữa, tất nhiên vẫn sẽ nghiêm trọng như vậy thôi. Theo ta thấy, so với việc tặng không nuôi lũ sâu mọt kia, thà rằng không phân phát nữa.”

    Nín lặng chốc lát, Tạ Liên nén giận nói: “Ta phải làm cho lũ sâu mọt đó phun ra nguyên vẹn những thứ đã nuốt vào.”

    Mộ Tình nhắc nhở: “Điện hạ, huynh lại quên nữa rồi, việc này không phải do huynh cai quản. Thần quan không thể nhúng tay vào thị phi thế gian. Băng dày ba thước không phải do cái lạnh trong một ngày tạo nên (một việc xảy ra đều có nguyên nhân ẩn tích lũy trong lâu dài), quốc vương bệ hạ là người chuyên quản chuyện nhân gian, đây là chức trách của ngài ấy, ngài ấy còn chưa quản nổi, bản thân huynh gánh trên mình vô số lời cầu nguyện của các tín đồ, làm sao ứng phó được? Huynh cái này cũng muốn quản, cái kia cũng muốn quản, cuối cùng sẽ rước họa vào thân. Huống hồ, đây cũng chỉ là trị ngọn không trị gốc.”

    Phong Tín lấy tay che nắng, nói: “Muốn trị tận gốc, vẫn phải có nước mới được. Bằng không thì, điện hạ nhờ quốc sư chuyển lời đến quốc vương bệ hạ, chuyển nước từ phía Đông sang chia đều cho phía Tây?”

    Tạ Liên lắc đầu: “Lúc nãy ta đã nói ý định này với quốc sư rồi.”

    Phong Tín hỏi: “Quốc sư nói thế nào?”

    “……” Tạ Liên nghẹn lời một lát mới đáp: “Tóm lại là nói không được. Có điều bây giờ ta phát hiện, đích thực không khả thi cho lắm. Muốn chuyển nước, trước tiên phải đào sông, nhưng đào sông phải huy động sức dân, cũng không biết cần bao nhiêu năm, hơn nữa còn hao người tốn của, không thể tiêu phí được nữa.”

    Phong Tín gật đầu: “Cũng đúng, nước xa không cứu được lửa gần.”

    Suy tính chốc lát, Tạ Liên nói: “Tuy nhiên, nếu con đường của người phàm không giải quyết được, biết đâu chừng có thể thử con đường của Thiên giới. Nghe nói mấy năm trước, Vũ Sư thay nhiệm kỳ, có một vị Vũ Sư mới phi thăng, tính tình lầm lì quái gở, để ta xem thử có thể tới cửa thăm hỏi, thỉnh cầu hắn liệu có thể dùng hình thức đổ mưa dẫn nước từ phía Đông sang phía Tây không.”

    Kể từ sau khi phi thăng, ngoại trừ đi gặp Quân Ngô, Tạ Liên chưa hề chủ động ghé thăm bất cứ thần quan nào, cũng không cố ý lôi kéo quan hệ với bất cứ ai, đối xử bình đẳng với mọi người trong Thông Linh trận. Y muốn đi thăm hỏi vị thần quan nào, quả thật là chuyện vô cùng hiếm thấy. Mộ Tình lại nói: “Không được.”

    Tạ Liên quay đầu hỏi: “Sao vậy?”

    Mộ Tình đáp: “Điện hạ, vừa rồi ta đã điều tra kỹ lưỡng, thực chất hai năm qua, không phải Vĩnh An hay phía Tây thiếu nước, mà là toàn bộ Tiên Lạc đều thiếu nước. Chỉ là phía Đông Tiên Lạc sát biển, gần hồ, dọc sông, nên không biểu hiện quá rõ ràng, vì vậy trước mắt vẫn chưa thành tai họa, nhưng toàn bộ lượng nước và lượng mưa đều ít hơn trước nhiều.”

    Tạ Liên trợn to mắt, Mộ Tình nói tiếp: “Nếu thật sự đào một con sông, hoặc dùng cách đổ mưa chuyển nước từ phía Đông sang phía Tây, vậy nhìn chung bên Vĩnh An đúng là có thể thuyên giảm đôi chút, nhưng không cứu được triệt để, chỉ có thể xem như cho bọn họ thêm một hơi kéo dài tính mạng thôi. Mà cùng lúc đó, phía Đông Tiên Lạc rất có khả năng sẽ xảy ra hạn hán.”

    Cõi lòng bắt đầu căng thẳng, Tạ Liên nói: “Nhưng khu vực phồn hoa và đa số dân cư của Tiên Lạc đều tập trung ở phía Đông, gấp hơn ba lần phía Tây, đặc biệt là hoàng thành. Một khi bên này xảy ra hạn hán…”

    Phong Tín cũng lập tức phản ứng lại, nói: “Chắc chắn hậu quả còn nghiêm trọng hơn Vĩnh An, người chết cũng sẽ nhiều hơn!”

    Mộ Tình gật đầu, nghiêm túc nói: “Do đó bạo loạn nổi lên cũng sẽ lớn hơn nhiều.”

    Hít sâu một hơi, Tạ Liên lên tiếng: “Vậy nên, đây là nguyên nhân mà quốc sư nói, việc phụ hoàng ta làm chưa chắc là đúng nhưng cũng chưa chắc là sai ư? Chẳng qua phụ hoàng đang lựa chọn mà thôi.”

    Mộ Tình nói: “Vậy nên, điện hạ à, không ai đến điện của huynh cầu phúc cho Vĩnh An là chuyện tốt. Huynh nên giao cho quốc vương bệ hạ lựa chọn đi.”

    Tạ Liên không đáp, quay đầu đi.

    Dọc đường, y nhìn thấy người nào cũng đen trũi gầy trơ xương, đàn ông hay trẻ nhỏ đều để tay trần, xương sườn trước bộ đều tỏa ra mùi tanh tưởi của kẻ hấp hối, khiến người ta muốn thét lên, trốn chạy khỏi mảnh ngực nhô lên từng hàng, rõ ràng tột độ, phụ nữ da dẻ khô nứt, hai mắt thẫn thờ. Mọi người chẳng ai muốn nhúc nhích, cũng không còn sức để động đậy, tất cả bốc đầy mùi hấp hối tanh tưởi, khiến cho người ta muốn ré lên trốn khỏi vùng đất thoi thóp này, lập tức trở về vương đô phồn hoa ca múa vàng son.

    Hồi lâu sau, Tạ Liên mở miệng: “Các ngươi ở lại đây giúp ta trước đi, chuyển được bao nhiêu nước qua đây hay bấy nhiêu. Để ta nghĩ xem.”

    Phong Tín đáp: “Được. Huynh cứ từ từ suy nghĩ, nghĩ được rồi thì nói cho ta biết nên làm sao là được.”

    Tạ Liên vỗ vai Phong Tín, xoay người rời đi. Mộ Tình lại ở phía sau hờ hững nói: “Điện hạ, huynh nên suy nghĩ thật kỹ. Chúng ta có thể giúp mười ngày hai mươi ngày, nhưng không thể giúp một năm hai năm, cứu được một trăm người nhưng không cứu được mấy trăm ngàn người. Dù sao huynh cũng là Võ Thần, không phải Thủy Thần, cho dù là Thủy Thần, cũng không thể tạo nước vô cớ. Nếu không giải quyết được tận gốc, cứ như vậy cũng không phải cách hay. Chỉ như muối bỏ biển thôi.”

    Chương 72: Gặp người trong đời, gặp hoa trong mưa

    Tên nghe hay quá >< Nghe vậy, bước chân của Tạ Liên khựng lại, cuối cùng vẫn không ngoái đầu, vẫy vẫy tay rồi tiếp tục đi về phía trước. Trở về hoàng thành Tiên Lạc, trước tiên Tạ Liên đến hoàng cung. Y cũng không biết tại sao mình muốn đến, có điều không phải vì muốn gặp cha mẹ. Không riêng gì nguyên nhân thân là thần quan không được tự lén lút hiển linh trước mặt người phàm, quan trọng hơn là, tuổi tác càng cao, rời nhà càng lâu, y càng không biết nên nói chuyện với cha mẹ thế nào, có lẽ tất cả những người làm con trên đời này đều như thế. Chính vì vậy, y ẩn thân đi lung tung một vòng khắp hoàng cung mà mình rõ như lòng bàn tay, nhưng không tìm được quốc vương bệ hạ ở nơi nào khác, cuối cùng đến cung Tê Phượng mới nhìn thấy cha mẹ. Hai người đã lệnh cho cung nhân lui xuống, đang trò chuyện với nhau. Hoàng hậu ngồi bên tháp, tay nghịch một chiếc mặt nạ vàng, chính là chiếc mà Tạ Liên đeo trong buổi diễu hành Thượng Nguyên tế trời ba năm trước. Gương mặt và ngũ quan của chiếc mặt nạ vàng được dày công điêu khắc dựa theo mặt thật của Tạ Liên, vì vậy Tạ Liên đeo nó rất vừa vặn, không cảm thấy có gì khác thường, nhưng khi thấy nó trong tay người khác lại hơi rờn rợn. Quốc vương ngồi bên cạnh nói: "Đừng nghịch cái đó nữa, mau đặt xuống qua ấn đầu cho ta đi." Dù rằng trước mặt người khác, quốc vương và hoàng hậu làm chu toàn mọi lễ nghĩa, nhưng từ nhỏ Tạ Liên đã thấy rõ nhất, sau lưng người khác, cha mẹ mình chỉ là một cặp vợ chồng bình thường cũng sẽ cằn nhằn lải nhải thôi. Quả nhiên, hoàng hậu thả mặt nạ xuống, qua ngồi xoa nhẹ hai bên huyệt thái dương giúp quốc vương, rồi bỗng gạt tóc của ông, nói: "Tóc chàng lại bạc rồi." Tạ Liên tập trung nhìn kỹ, hai bên tóc mai của cha mình đúng là lốm đốm bạc, vô cớ thêm ba phần già cỗi. Y nhủ thầm: "Chẳng phải dạo trước phụ hoàng mới đến Hoàng Cực quán cầu phúc sao? Lúc đó tóc phụ hoàng còn đen mà, sao tự dưng lại bạc?" Hoàng hậu lấy một chiếc gương đồng định cho quốc vương xem, quốc vương lại nói: "Không xem không xem. Lần sau trước khi lên núi Thái Thương nhuộm chút là đen thôi." Bấy giờ Tạ Liên mới kịp phản ứng: "Tóc của phụ hoàng không phải mới bạc gần đây! Mà đã bạc từ lâu rồi, chỉ là trước mỗi lần đến gặp mình đều nhuộm đen. Còn mình suốt ngày nghe tín đồ cầu nguyện, bôn ba mệt mỏi, ít bao giờ chủ động về thăm cha mẹ nên mới không phát hiện." Sau khi nghĩ thông suốt điều này, trong lòng Tạ Liên hổ thẹn vô cùng, thật may là bây giờ cha mẹ không nhìn thấy y ở đây. Hoàng hậu vừa xoa bóp đầu cho quốc vương vừa trách móc: "Ngày nào thiếp cũng bảo chàng nghỉ ngơi sớm đi, chàng không nghe lời của thiếp, còn nói thiếp suốt ngày cằn nhằn chàng. Nhìn xem bây giờ xấu như vầy, hoàng nhi mà thấy thì càng không muốn ngó ngàng tới chàng cho coi." Quốc vương hầm hừ: "Từ lúc hoàng nhi của nàng trưởng thành đủ lông đủ cánh, vốn dĩ đã không ngó ngàng tới ta." Nói thì nói vậy, ông lại nhịn không được len lén liếc gương đồng bên giường, lầm bầm: "Cũng đâu có xấu lắm, chẳng phải vẫn là gương mặt này sao?" Tạ Liên không khỏi sửng sốt, thật sự không ngờ rằng sau lưng mình, phụ hoàng còn có một mặt như thế, lại còn "nói xấu" mình với giọng điệu chua chát vậy nữa, khiến y lập tức phì cười. Hoàng hậu cũng nín cười nói: "Rồi rồi rồi, không xấu. Sức khỏe lớn hơn trời, hôm nay nghỉ ngơi sớm đi." Quốc vương lắc đầu: "Không nghỉ ngơi được. Dạo này có nhiều người Vĩnh An chạy đến hoàng thành. Đến thì đến đi, thế mà cứ phải rêu rao khắp nơi, làm cho lòng người hoang mang, nan giải vô cùng." Thì ra cha mình bạc tóc là vì đại hạn ở Vĩnh An, trong lòng Tạ Liên khó chịu khôn tả. Hoàng hậu gật đầu đáp: "Thiếp nghe Dung nhi nói, hôm nay nó cũng gặp phải một người Vĩnh An, nghe đâu muốn cướp tiền trong miếu, thật đáng sợ." Quốc vương trầm ngâm nói: "Đúng thế, đáng sợ. Mấy chục hay mấy trăm người tới thì thôi, nhưng ngộ nhỡ hơn trăm ngàn người bọn họ đổ xô tới, rồi cả bọn chạy tán loạn trong hoàng thành, hậu quả thật khó tưởng tượng nổi." Do dự một hồi, hoàng hậu nói: "Vậy cũng chưa hẳn. Nếu đàng hoàng an phận, tới thì tới đi." Quốc vương nói: "Vua của một nước, sao có thể lấy "chưa hẳn" ra mạo hiểm? Hơn nữa bọn họ tuyệt đối không thể tới đây, nuôi thêm vài người không chỉ đơn giản như bày thêm vài đôi đũa, bên trong phức tạp lắm, nàng không rõ đâu, không nói nữa." Hoàng hậu đáp: "Được, không nói nữa. Những gì mà chàng nói, từ đầu thiếp đã không hiểu rồi, nếu hoàng nhi còn ở đây thì tốt quá, ít nhất cũng có thể san sẻ phần nào cho chàng." Quốc vương lại hầm hừ: "Nó? Nó thì làm được gì? Không làm ta lo lắng thêm đã đỡ lắm rồi." Nhắc đến Tạ Liên, quốc vương có vẻ dậy hứng ngay: "Ta không thèm nói đến hoàng nhi của nàng nữa, hơn mười mấy tuổi đầu mà nuôi y như công chúa. Nó có biết cũng vô dụng, chỉ tổ thêm phiền não mà thôi. Nó cứ ngoan ngoãn bay trên trời đi, không biết gì là tốt nhất, làm chuyện của riêng nó, bây giờ nó đâu còn là Thái tử, nhân gian không liên quan đến nó, thích bay thì cứ cho nó bay đủ." Tạ Liên im lặng nghe cha trách móc mình hăng say, hoàng hậu thì mỉm cười đẩy quốc vương một cái: "Bây giờ chàng biết nói nó là công chúa rồi hả, công chúa còn không phải vì chàng nuông chiều từ nhỏ mà ra sao? Còn muốn trách ngược lại thiếp à?" Nói đoạn, hoàng hậu thở dài: "Thằng nhóc này cái gì cũng tốt, mỗi tội không nhớ nhà thôi. Lúc trước học nghệ ở Hoàng Cực quán đã thế rồi, hở ra là mấy tháng không về nhà. Bây giờ phi thăng còn lợi hại hơn, ba năm cũng không gặp được một lần, chẳng biết bao giờ mới gặp được đây." Hoàng hậu bắt đầu phàn nàn, quốc vương lại giải vây cho Tạ Liên: "Phụ nữ như nàng thì biết gì. Quốc sư nói quy tắc của Thiên giới là như thế, sao có thể tiếp tục xem nó như người phàm? Nàng gọi hoàng nhi của nàng về khác nào muốn kéo chân sau của nó?" (kéo chân sau = gây cản trở) Hoàng hậu vội nói: "Thiếp chỉ nói vậy thôi. Thiếp sẽ không nói ra yêu cầu này trước mặt nó." Bà lại lầm bầm: "Nhìn tượng thần cũng được, không khác gì mấy, đâu đâu cũng là tượng thần của nó."1 Nhìn cha mẹ hồi lâu, lồng ngực Tạ Liên dâng từng cơn chua xót, cổ họng như nhét thứ gì đó, nghẹn đến khó chịu tột độ, chỉ cảm thấy không chờ thêm được nữa, nhưng y lại không thể xuất hiện, không phải vì sợ vi phạm thiên quy, mà là xuất hiện rồi cũng không biết nên nói gì cho phải. Đối với chuyện ở Vĩnh An, tạm thời y cũng chưa nghĩ ra được cách giải quyết nào tốt, đột ngột xuất hiện chỉ làm cha mẹ luống cuống mà thôi. Tạ Liên nhanh chóng rút khỏi hoàng cung, đi ra bên ngoài, hít sâu vài hơi, bấy giờ tâm trạng mới bình phục. Ổn định cảm xúc, vực dậy tinh thần, nghĩ thầm thở dài chi bằng hành động, y tiện tay bắt quyết niệm chú, đổi sang hình hài tiểu đạo sĩ áo trắng, chạy một vòng quanh hoàng thành, đo lường và ghi chép khắp nơi. Chạy đôn chạy đáo, bận rộn cả ngày, cuối cùng y cũng lấy được đáp án xác định. Mặt nước của tất cả sông hồ trong hoàng thành Tiên Lạc, đích thực đều thấp hơn trước đây. Lúc còn ở Hoàng Cực quán, có vài lần y chuồn xuống núi chơi, từng chèo thuyền du ngoạn trên con sông lớn nhất chạy dài xuyên nước Tiên Lạc - sông Lạc, mặt nước ngày ấy chỉ thấp hơn bờ đê một chút, nhưng bây giờ lại thấp hơn nhiều xích, hơn nữa cư dân trong thành đều bảo đã như vậy từ lâu chứ không phải mới đây. Lúc trước Tạ Liên không để ý, bây giờ để ý mới ngộ ra đủ mọi dấu hiệu nhìn mà phát hoảng. Ban đầu y còn hy vọng thông tin của Mộ Tình nhầm lẫn nên mới tự đến chứng thực, bây giờ không thể không thừa nhận, Mộ Tình vẫn không làm mình thất vọng như cũ. Sau khi xác nhận sự thật này, Tạ Liên ngẩn người đứng lặng ven bờ sông, như có điều nghiền ngẫm. Thỉnh thoảng có người đi đường lướt ngang qua Tạ Liên, hoặc mỉm cười gật đầu, hoặc tò mò nhìn ngó, còn lại chủ yếu vẫn vui vẻ chuyện ai nấy làm. Chẳng biết đứng bao lâu, mây mù xa nơi chân trời tụ lại, bốn phía tí ta tí tách, thế mà lại đổ mưa lâm râm. Người đi đường rối rít che đầu nhìn trời, nói: "Xui xẻo ghê! Trời mưa rồi, mau về thôi!" "Đúng đó, ghét thật!" Hạt mưa rơi tí tách, nện vào mặt và người Tạ Liên, lúc này y mới kịp phản ứng, lẩm bẩm: "Mưa rồi ư?" Người trong hoàng thành gặp mưa tránh còn không kịp, chỉ trời mới biết một đầu khác của nước Tiên Lạc có bao nhiêu người khao khát được một trận mưa lớn đã đời như thế. Vài người bung dù chạy ào qua, thấy Tạ Liên vẫn đứng dưới mưa bèn kéo y một cái, thúc giục: "Ơ tiểu đạo trưởng này, sao ngươi còn không chạy? Mưa càng lúc càng lớn kìa!" Thế là Tạ Liên cũng lóng ngóng chạy theo, cùng chạy đến dưới một hàng hiên dài. Những người kia cất dù, cười ha ha với nhau: "May là hôm nay ra cửa thấy nhiều mây nên mang dù theo, không thì ướt như chuột lột rồi." "Đã lâu trời không mưa, e rằng trận này tích tụ lâu rồi, sẽ mưa lớn cho xem." "Ôi trời ngươi nhìn đi, lớn thật rồi kìa! Sắp thành mưa xối xả rồi!" Hạt mưa rơi xuống đất, tan vỡ văng tung tóe. Chất giọng hết sức thân thuộc của những người này càng khiến Tạ Liên cảm nhận được sâu sắc rằng, đây là nơi mình sinh ra và lớn lên, đây là con dân mà mình quen thuộc. Trò chuyện một hồi, trận mưa từ từ nhỏ dần, mấy người kia nói: "Nhân lúc bây giờ nhỏ được chút, mau đi thôi!" Dứt lời lũ lượt bung dù rời khỏi mái hiên, còn Tạ Liên vẫn đứng yên tại chỗ. Mấy người kia ngoái đầu nhìn y, bàn bạc vài câu, một người đi tới, đưa một cây dù cũ trong tay cho y, nói bằng giọng khách sáo: "Tiểu đạo trưởng ơi, có phải không về được không? Ta thấy mưa vẫn còn hơn lớn đó, hay là ngươi lấy dù này dùng đi." Bấy giờ Tạ Liên mới hồi thần, hỏi: "Cảm ơn nhé. Vậy ngài thì sao?" Mấy người đứng trong mưa phía trước nói lớn: "Chúng ta còn dù đây, chen vô chung được mà, đi thôi đi thôi!" Nghe đồng bạn thúc giục, người nọ nhét dù vào tay Tạ Liên rồi chạy mất. Cả bọn lạch bạch đạp nước chạy xa, Tạ Liên thì nắm cây dù kia, đứng yên chốc lát. Đột nhiên, y thấy phía trước cách đó không xa có một ngôi miếu nhỏ không quá bắt mắt, bèn bung dù đi về phía đó giữa làn mưa. Đến gần miếu rồi, thấy câu đối trước hai bên cửa miếu lần lượt viết "Thân tại vô gián" "Lòng tại đào nguyên", cuối cùng mới xác định đây là một tòa điện Thái Tử. Trong ba năm dựng nên tám ngàn đạo quán, tất nhiên không phải tòa đạo quán nào cũng nguy nga tráng lệ khiến người thán phục như tòa trên núi Thái Thương, trong số đó cũng có không ít tòa là nhân sĩ thôn làng dân gian xây cho đủ số để góp vui. Không dựng hòm công đức, không có ông từ, chỉ lập một pho tượng bằng đất sét, bày mấy cái khay, cúng một ít bánh ngọt và trái cây. Người có lòng thỉnh thoảng tới quét dọn một chút là có thể tự chiếm một điện rồi. Núp trong xó xỉnh không bắt mắt ấy, chính là một điện Thái Tử cũng chẳng bắt mắt là bao. Còn chưa vào trong, Tạ Liên đã trông thấy một pho tượng thần Thái tử gần như có thể nói là ngây ngô đáng yêu: Áo quần lòe loẹt, gò má loang lổ phấn trắng, điệu cười ngớ ngẩn, chẳng khác gì một con búp bê lớn. Nếu không phải lòng đầy tâm sự, chắc chắn Tạ Liên đã cười ra tiếng. Ba năm qua, tượng Thái tử mà Tạ Liên nhìn thấy không năm ngàn cũng được ba ngàn, trước giờ chưa từng thấy pho tượng Thái tử nào giống mình như đúc, giống nhất có lẽ chỉ tầm bảy phần, còn lại không phải quá xấu thì là quá đẹp. Đa số các thần quan khác đều là tượng thần quá xấu, vừa khéo Tạ Liên thì trái ngược, có cái đẹp đến mức biến dạng, đẹp đến mức bản thân y cũng thấy ngại. Vốn dĩ y cũng không nhìn kỹ pho tượng đất sét này, chỉ lia mắt qua thôi, nào ngờ lại tình cờ bắt gặp một vật gì đó trắng muốt, thế là đường nhìn lại lia trở về. Tay trái của pho tượng Thái tử làm bằng đất sét thô sơ ấy, cầm một bó hoa trắng như tuyết. Cánh hoa trắng noãn, dính một ít giọt sương lóng lánh, mềm mại đến lạ, một mùi thơm dịu như có như không thoang thoảng trong không khí, đáng yêu vô ngần. Tư thế chuẩn mực của tượng Thái tử Tiên Lạc là "một tay cầm kiếm, một tay cầm hoa", nhưng hoa mà tay trái cầm, tất nhiên là hoa vàng, hoa đá quý, hoa ngọc thạch được chế tạo bằng kỹ thuật tuyệt đỉnh, đây là lần đầu tiên Tạ Liên nhìn thấy có tượng thần của mình cầm hoa thật, vì vậy không khỏi nhích lại gần hơn. Nhìn kỹ y mới phát hiện, ban đầu tay trái của pho tượng Thái tử này hẳn là thật sự từng cầm một cành hoa đất sét. Nhưng không biết do thợ khắc tượng không khéo tay nên cành hoa rớt mất, hay bị ai đó đùa dai tháo xuống, bây giờ trong nắm tay trái chỉ còn một lỗ nhỏ. Bó hoa trắng nho nhỏ ấy, vừa khéo cắm trong lỗ nhỏ này. Nếu ai đó hái tới chỉ để lấp đầy lỗ hổng trong tay trái của pho tượng đất sét này, vậy đúng là có lòng. Vừa nghĩ đến đây, Tạ Liên chợt nghe được tiếng bước chân dồn dập. Y không quay đầu lại, đầu tiên ẩn thân mình, cầm dù nhẹ nhàng phóng lên bệ thờ, lúc này mới xoay người nhìn xuống dưới. Chỉ thấy trong làn mưa tầm tã mịt mù ngoài miếu, một thiếu niên chạy ào vào. Thiếu niên này chỉ tầm mười hai mười ba tuổi, toàn thân ướt đẫm, trên người là quần áo sờn cũ, trên mặt là băng vải bẩn thỉu. Tay phải khum lại bao lấy nắm tay trái, như thể đang che chở thứ gì đó. Sau khi chạy đến giữa miếu, nó mới từ từ mở hai tay ra. Một bó hoa nho nhỏ trắng ngần, lẳng lặng nở rộ trong tay nó.

    Chương 73: Gặp người trong đời, gặp hoa trong mưa. 2

    Nhớ tới gì đó, Tạ Liên khẽ “ồ” một tiếng.

    Gương mặt quấn hàng lớp băng vải ấy, không khỏi khiến y liên tưởng đến đứa bé mình gặp vào ba năm trước. Nhưng y cũng không dám chắc chắn, nghĩ theo khía cạnh bi quan, sau khi một thân một mình trốn xuống núi Thái Thương, đứa bé đó thật sự có thể sống thêm ba năm sao?

    Lúc này, thiếu niên nọ đi tới, nhón đầu ngón chân, lấy bó hoa khỏi tay tượng đất sét, đổi thành bó hoa trong tay mình. Tạ Liên ngồi trên bệ thờ thấy rất rõ ràng, bó hoa mới thay ấy, cánh hoa càng mềm mại, tươi tốt, căng mọng, mùi hương càng thêm thơm ngào ngạt, nhất định là vừa vừa mới hái. Chẳng lẽ ngày nào nó cũng đến ngôi miếu không bắt mắt này, thay một bó hoa tươi mới hái cho tay trái của pho tượng đất sét đó?

    Chưa kể sau khi hiến tặng hoa tươi, thiếu niên nọ đứng dưới tượng đất sét Thái tử, khép tay kết ấn, yên lặng cầu phúc, chẳng hề quỳ xuống rồi hẵng nói một cách vô tội vạ như người ngoài, đích thực đã để những lời Tạ Liên nói vào tai.

    Ba năm. Biết bao tín đồ từng thăm viếng Tạ Liên, có quan lại quyền quý, có nhân vật kiệt xuất đương thời, có tài lực kinh thế hãi tục, nhưng người thật sự khiến Tạ Liên cảm thấy “có lòng” lại là một đứa nhóc mới mười hai mười ba tuổi, hơn nữa còn là đứa nhóc áo quần tả tơi mà những điện vàng lộng lẫy tráng lệ không đời nào cho vào, bởi vậy chỉ có thể đến miếu thần thôn làng này thăm viếng.

    Cảm xúc này quả là khó diễn tả.

    Lúc này, ngoài cửa miếu truyền đến tiếng đạp nước bành bạch, một đám con nít bung dù cười đùa ầm ĩ chạy qua. Ban đầu Tạ Liên cho rằng chúng nó chỉ đi ngang qua, nào ngờ đám thiếu niên này chạy qua rồi lại chạy ngược về, như thể phát hiện thứ gì hiếm lạ lắm, vỗ tay nói: “Ái chà chà, thằng xấu xí lại bị đuổi cổ kìa!”

    Đám thiếu niên này cũng cỡ tuổi tín đồ nhỏ trong miếu, nhưng ai cũng cao lớn hơn nó, xem ra được cha mẹ nuôi dưỡng rất tốt. Hẳn do sắp đến ngày lễ, đứa nào đứa nấy cũng mặc áo mới xỏ giày mới. Chúng nó đứng trước cửa miếu đạp nước đùa giỡn, nụ cười hồn nhiên hoạt bát, không mang nửa điểm ác ý, dường như không hề cảm thấy “thằng xấu xí” là lời nói bậy, cũng chẳng cảm thấy ngôn từ của mình tổn thương người khác, thật sự chỉ cho rằng gọi như vậy thú vị mà thôi. Thiếu niên nọ siết tay thành đấm, nhưng vì nắm tay quá nhỏ, không hề có sức uy hiếp, đám nhóc ngoài cửa lại la to: “Hôm nay thằng xấu xí lại ngủ trong miếu rồi, coi chừng về nhà mẹ ngươi đánh chết ngươi!”

    Tạ Liên nhíu mày. Một con mắt chi chít tơ máu của thiếu niên lộ ra dưới băng vải, nó giơ nắm đấm giận dữ gào lên: “Ta không có nhà!! Ta không có mẹ! Bà ta không phải là mẹ ta! Cút đi! Cút hết đi! Còn la nữa ta đánh chết các ngươi đó!!!”

    Đám nhóc kia lại chẳng hề sợ hãi, le lưỡi nói: “Ngươi dám đánh bọn ta, coi chừng bọn ta lại mách cha ngươi, cho ổng dạy dỗ ngươi.”

    Có đứa nháy mắt ra hiệu, nói: “Đúng đó, ngươi không có mẹ là vì mẹ ngươi không cần ngươi. Ngươi cũng không có nhà, người nhà ngươi cũng ghét bỏ ngươi, nên ngươi chỉ còn nước ở trong cái miếu đổ nát này…”

    Nói đến đây, thiếu niên nọ thình lình hét lớn một tiếng, bổ nhào qua.

    Đầu nó tuy nhỏ nhưng khí thế tràn trề, tiếng hét hung bạo của nó dọa cho mấy đứa nhóc kia muốn chạy trốn, nhưng cái đứa đang đánh nhau túi bụi với nó lại hô lên: “Sợ cái gì! Bọn mình đông người mà!” Thế là cả đám lại quay trở về, bảy tay tám chân kéo nó đánh nó. Tạ Liên thật sự không nhìn nổi nữa, y phất tay một cái, một luồng năng lượng kỳ lạ bỗng nhiên xuất hiện trong không khí tách hai tốp thiếu niên ra. Ngay sau đó, mặt đất ầm ầm sủi lên một đống bọt nước, hất đám thiếu niên kia ngã lộn nhào.

    Dù sao cũng là con nít, tự dưng ngã nhào một cách quỷ dị như thế, còn uống một ngụm nước bẩn lẫn bùn đất, đồ mới trên người cũng ướt nhẹp, trở nên còn te tua bẩn thỉu hơn cả đối tượng mà mình cười nhạo, đám nhóc thoắt cái chuyển từ cười ha ha sang khóc hu hu, bò dậy khỏi mặt đất, khóc bù lu bù loa cầm dù chạy biến.

    Tạ Liên lắc đầu. Mình đây đường đường là Võ Thần, diệt trừ tà ma quỷ quái, đảm bảo lên đường bình an, đây là lần đầu tiên can thiệp vào loại tranh chấp trẻ con này, dù rằng vẫn là đuổi cổ bên xấu xa, nhưng chẳng có chút cảm giác thành tựu nào. Quay đầu lại nhìn thiếu niên nọ, Tạ Liên hơi sửng sốt.

    Trong lúc hỗn loạn, băng vải trên đầu nó bị kéo xuống phân nửa, để lộ nửa gương mặt toàn là vết bầm tím sưng tấy, hiển nhiên không phải do vừa rồi bị đánh. Tạ Liên còn chưa kịp nhìn kỹ, nó đã lẳng lặng quấn băng lại, ôm đầu gối, ngồi bên chân tượng đất sét.

    Tạ Liên đến gian miếu Thái tử này, ý định ban đầu là muốn tìm chỗ nào gần để triệu tập Phong Tín và Mộ Tình, truyền lệnh bàn bạc chuyện quan trọng, nào ngờ lại gặp được bạn nhỏ này, thế rồi kiềm lòng không đặng bắt đầu chú ý, sau khi phát lệnh triệu tập, y ngồi chồm hổm bên cạnh quan sát nó. Ngồi chưa được bao lâu, từ bụng thiếu niên nọ truyền ra tiếng ùng ục. Trong khay cúng có chút trái cây và bánh ngọt, dù trông khô quắt không ngon miệng lắm, nhưng có còn hơn không. Tạ Liên bèn chọn một quả, nhẹ nhàng ném lên người nó.
    Bị trái cây đập trúng, thiếu niên bỗng chốc đưa hai tay ôm đầu, cuộn thành một cục, bày ra tư thế phòng ngự, như thể thứ ném lên người mình là một tảng đá, hơn nữa lập tức sẽ có nhiều đá hơn ném tới. Qua một hồi lâu, sau khi dáo dác nhìn xung quanh, phát hiện chỉ là trái cây chứ không có người thứ hai ở đây, nó chần chờ một hồi rồi nhặt trái cây lên, lau vào áo mấy cái, đoạn thả vào khay cúng, rốt cuộc thà chịu đói chứ không ăn đồ cúng trong khay.

    Tiếp theo, nó đi tới cửa, nhìn mưa tầm tã ngoài miếu, trông có vẻ muốn ra ngoài tìm thức ăn, nhưng mưa thật sự quá lớn, không muốn dầm mưa nữa nên lại quay trở về, cuộn mình ngủ bên chân tượng đất sét.

    Lúc này, Phong Tín và Mộ Tình nghe lệnh chạy tới. Hai người vòng ra từ sau miếu, Phong Tín buồn bực hỏi: “Điện hạ, huynh tìm đâu ra gian miếu Thái Tử nhỏ xíu này vậy? Tại sao phải truyền lệnh ở đây?” Vừa cúi đầu, chợt thấy một người co mình nằm dưới đất, suýt nữa thì đạp trúng, Phong Tín buột miệng thốt ra: “Mẹ nó sao lại có thằng nhóc ở đây nữa?!”

    Mộ Tình cũng cúi đầu, nhìn kỹ vài lần rồi vội hỏi: “Điện hạ, đây là đứa bé trốn khỏi núi Thái Thương ba năm trước sao?”

    Tạ Liên lắc đầu: “Không dám chắc. Chẳng biết nó tên gì, cũng không biết mặt mũi trông như thế nào.”

    Ba người đứng quanh một đứa bé hoàn toàn không hay biết gì nói vài câu, thiếu niên nọ trở mình lăn qua lăn lại dưới đất, lau mặt một cái, thế mà lau ra máu ở miệng mũi và khóe môi. Thấy vậy, Tạ Liên càng cho rằng không thể mặc nó tiếp tục nằm như thế, nói: “Để đứa bé này rời khỏi đây trước đi. Sắc trời tối rồi, miếu này không phải nơi tốt để qua đêm.”

    Phong Tín nói: “Phải chăng nó không có nơi nào để đi? Nếu là như vậy, e rằng chỉ có thể qua đêm ở đây thôi.”

    Tạ Liên nói: “Nó có nhà, nhưng chắc ở nhà không tốt lắm. Dù vậy, miếu này cũng không phải nơi tốt, trước khi đi hãy tìm cho nó chút đồ ăn, trên người nó còn có vết thương.”

    Mộ Tình lại nói: “Điện hạ, thứ lỗi cho ta nói thẳng, trước mắt không có thời gian lo mấy chuyện vặt vãnh này. Huynh triệu chúng ta tới đây phải chăng đã có quyết định gì?”

    Thần quan Thượng thiên đình, xưa nay chưa từng có vị nào thu hết lời cầu nguyện của tất cả tín đồ. Phải biết tín đồ trên đời hàng ngàn hàng vạn, gặp ai cũng lo chẳng phải sẽ phiền chết hay sao, bởi vậy đôi lúc sẽ mở một mắt nhắm một mắt, vờ như không nghe thấy một số lời cầu nguyện thâm ảo hoặc nhỏ nhặt không đáng kể, nhờ vậy bớt được rất nhiều phiền toái. Nhưng mà, có lẽ do Tạ Liên tuổi còn rất trẻ, tinh lực dồi dào, còn chưa đến lúc tán đồng với kiểu ứng biến linh hoạt này. Suy nghĩ một hồi, y cầm chiếc dù được người qua đường tặng, đi ra ngoài miếu.

    Tạ Liên chậm rãi mở dù ra, hạt mưa nện lộp độp xuống mặt dù. Nghe tiếng động này, thiếu niên nằm dưới đất cứ tưởng có người đến gần nên khẽ khàng cựa mình. Nhưng hẳn do nghĩ rằng có người đến cũng không liên quan đến mình, nó lại nằm trở xuống. Tạ Liên đặt chiếc dù đã mở bung ở cửa, thiếu niên nghe tiếng động vẫn vang mãi không dứt, có lẽ cuối cùng cũng thấy kỳ lạ, nó bèn đứng dậy đi ra xem thử, chỉ thấy một chiếc dù đỏ đặt nghiêng dưới đất trong làn mưa, tựa như đóa hoa đỏ thẫm nở rộ một cách trơ trọi. Thiếu niên lập tức ngây ngẩn cả người.

    Thấy thiếu niên bước lên ôm dù, Mộ Tình nói: “Điện hạ, đến bước này là được rồi. Làm lộ liễu quá, để nó phát hiện chỉ tổ rước phiền phức.”

    Ngờ đâu Tạ Liên chưa trả lời, thiếu niên lại nhào trở vào, đứng sau bọn họ gọi lớn: “Thái tử điện hạ!”

    Ba người đồng loạt giật cả mình, ngoái đầu lại nhìn, chỉ thấy thiếu niên nọ ôm dù, mắt đỏ ngầu, kích động cực độ, ngửa đầu nói với tượng đất sét: “Thái tử điện hạ! Là huynh sao?!”

    Phong Tín không biết trước đó Tạ Liên đã giúp nó đuổi một đám trẻ ranh, còn ném trái cây cho nó, nên ngạc nhiên nói: “Thằng nhóc này cũng nhạy phết, vậy mà lại bị nó phát hiện.” Mộ Tình lại như đã đoán được tương lai, đưa mắt nhìn Tạ Liên.

    Thiếu niên nọ nói: “Nếu huynh có ở đây, xin huynh trả lời ta một vấn đề!”

    Ngồi tít trên thần đàn cao ngất, mỗi ngày Tạ Liên nghe được vô số lần “Xin ngài hiển linh đi”. Âm thanh nào nghe nhiều rồi cũng sẽ mất cảm giác. Nhưng mà, mỗi khi nghe được tiếng gọi đó, y vẫn sẽ vô thức ngắm nhìn, vô thức dừng chân. Mộ Tình ở bên cạnh nhắc nhở: “Điện hạ, không cần để ý đâu.”

    Tạ Liên không đáp.

    Hai tay ôm ghì chiếc dù, thiếu niên nọ cắn răng nói: “Ta đau đớn lắm! Ngày nào ta cũng hận không thể chết quách cho xong, ngày nào cũng muốn giết sạch người trên thế giới này rồi tự giết chính mình! Ta sống rất đau đớn!”

    Một đứa trẻ mười hai mười ba tuổi hét lên những lời như thế, cảnh tượng này đúng là vừa buồn cười vừa đáng thương. Thế nhưng trong thân thể bé nhỏ của nó như có thứ gì đó bùng nổ, chống đỡ sự căm phẫn và tiếng gào rống của nó.

    Phong Tín cau mày hỏi: “Nó bị gì thế? Giết sạch người trên thế giới này, đây là lời mà con nít nói sao?”

    Mộ Tình hờ hững đáp: “Tại nó còn nhỏ quá thôi. Lớn thêm chút nữa, nó sẽ nhận ra rằng những gì bây giờ mình nếm trải chẳng thấm vào đâu cả.”

    Dừng một thoáng, Mộ Tình nhìn Tạ Liên, nói: “Những người đau đớn trên đời này nhiều vô kể. Chẳng hạn như đại hạn ở Vĩnh An, có người Vĩnh An nào đau đớn thua nó đâu. Điện hạ không cần phải để ý. Nên làm gì thì làm thôi.”

    Tạ Liên nói khẽ: “Chắc là vậy.”

    Với người khác mà nói, có lẽ sự đau đớn của một người chỉ là chút phiền toái vặt vãnh không đáng nhắc đến mà thôi.

    Thiếu niên nọ ngửa đầu nhìn Tạ Liên, con mắt đỏ rực nhưng lại không rơi lệ, một tay ôm dù, một tay chìa ra níu vạt áo của tượng đất sét, chất vấn: “Rốt cuộc vì sao ta còn sống trên đời này? Rốt cuộc con người sống sót có ý nghĩa gì chứ?”

    Lặng im hồi lâu, không ai trả lời, dường như đã lường được kết quả này, thiếu niên từ từ cúi thấp đầu.

    Ngờ đâu, một giọng nói bất chợt phá vỡ sự yên lặng, vang lên trên đầu nó: “Nếu không biết phải sống tiếp như thế nào, vậy sống tiếp vì ta đi.”

    Phong Tín và Mộ Tình đứng cạnh Tạ Liên không nghĩ rằng y sẽ thật sự trả lời, hơn nữa còn trả lời kiểu đó, cả hai trợn trừng mắt, nói: “… Điện hạ?!”

    Thiếu niên nọ ngẩng phắt đầu lên, nhưng không nhìn thấy bất kỳ ai, chỉ nghe một giọng nói dịu dàng như ẩn như hiện truyền đến từ phía trên tượng đất sét:

    “Vấn đề mà đệ hỏi, ta cũng không biết nên trả lời thế nào. Có điều nếu đệ không biết mình sống tiếp có ý nghĩa gì, vậy chi bằng tạm thời xem ta là ý nghĩa đó đi.”

    Sắc mặt Phong Tín và Mộ Tình như nứt ra, cả hai đồng loạt đưa tay bụm miệng Tạ Liên, hét lớn: “Đừng nói nữa điện hạ! Huynh phạm quy rồi! Phạm quy rồi!”

    Trước khi bị bọn họ bụm miệng, Tạ Liên vẫn tranh thủ hô một câu: “Cảm ơn hoa của đệ! Đẹp lắm, ta rất thích!”

    Chương 74: Mưa khó, xin Vũ Sư cho mượn nón mưa

    Thiếu niên nọ ngây ngẩn cả người.

    Phong Tín và Mộ Tình chỉ hận không thể mọc tám tay bảy chân chặn Tạ Liên lại, khó khăn lắm mới kéo được y xuống, y lại hất hai người họ ra, nói: “Biết rồi! Không nói nữa! ta biết mình phạm luật mà, các ngươi vờ như không nghe thấy chẳng phải được rồi sao. Chỉ cần các ngươi không nói, sẽ không ai biết cả. Chỉ một lần này thôi. Không được phép truyền ra ngoài, nghe rõ chưa?”

    Nét mặt trông như bị ép nhai tất, Mộ Tình lắc đầu lẩm bẩm: “Sao lại có người như huynh chứ… Hùng hồn nói ra mấy lời như “sống tiếp vì ta”, thật đúng là…”

    Tạ Liên vốn chẳng cảm thấy có vấn đề gì, nghe Mộ Tình nói vậy lại cảm thấy có vấn đề thật, thoáng cái đỏ bừng cả mặt. Phong Tín lập tức nghiêm mặt nói: “Được rồi! Điện hạ đã bảo không nói nữa, ngươi còn nhắc làm gì?” Nhưng khóe miệng của chính hắn lại giật giật. Tạ Liên không nhìn nổi nữa, biện bạch: “Gì đó gì đó, rõ ràng lời ta nói rất hữu dụng mà. Các ngươi nhìn kìa.”

    Thiếu niên nọ ngồi đờ đẫn hồi lâu, không nghe được tiếng của Tạ Liên nữa, thế là dùng sức xoa mặt, lấy khay đồ cúng trên bàn xuống, ôm vào trong ngực, bắt đầu ăn trái cây và bánh ngọt khô quắt trong khay, cố gắng nhai nuốt, ăn như một con thú nhỏ vừa đáng thương vừa hung hăng. Tạ Liên khom lưng nhìn nó, đoạn nở nụ cười, nói với hai người kia: “Các ngươi nhìn đi, hữu dụng nha. Hồi nãy nó không ăn, giờ đã ăn rồi này.”

    Mộ Tình đáp: “Rồi rồi, hữu dụng. Huynh là thần mà.”

    Phong Tín cũng đáp: “Đúng đúng, hữu dụng. Huynh là thần mà.”

    “……”

    Tạ Liên nghiêm nghị nói: “Đúng vậy, ta là thần. Gọi các ngươi tới, đích thực là vì ta đã có quyết định.”

    Nói đến đây, bầu không khí vừa thoải mái chưa được bao lâu bỗng chốc lại trở nên nặng nề, Phong Tín hỏi: “Làm thế nào?”, còn Mộ Tình lại hỏi: “Vẫn quản à?”

    Tạ Liên nói: “Quản chứ. Rất đơn giản. Nước trong Tiên Lạc không đủ, vậy thì đến quốc gia ngoài Tiên Lạc thôi.”

    Mộ Tình ngập ngừng lên tiếng: “Đến quốc gia khác? Vậy có xa quá không? Chỉ sợ phải mượn pháp bảo của một ít thần quan thủy pháp (thần quan có pháp thuật liên quan đến nước), hơn nữa thần quan trấn giữ quốc gia khác chưa chắc đã đồng ý.”

    Dĩ nhiên Tạ Liên đã cân nhắc đến điều này, nói: “Ta cứ thử trước xem sao, còn hơn là không làm gì cả. Các ngươi tiếp tục ở lại Vĩnh An trước đã, tăng cường cứu trợ vùng bị ảnh hưởng nghiêm trọng, ta trở về Thượng thiên đình, có vấn đề gì không?”

    Phong Tín đáp: “Không vấn đề gì. Phía sau có ta gánh cho.”

    Mộ Tình ngẫm nghĩ rồi lại hỏi: “Điện hạ, vậy những lời cầu nguyện của tín đồ trong điện Thái tử bên huynh thì sao?”

    Tạ Liên đáp: “Đây cũng là chuyện ta định nói. Trước tiên ngươi cứ lọc ra những việc quan trọng giải quyết thay ta, những việc không quá nguy cấp có thể tạm ém xuống.”

    Mặc dù không thấy lạc quan lắm, Mộ Tình vẫn nói: “Huynh là Thái tử điện hạ, nghe lời huynh vậy. Nhưng mà, ta kiến nghị không nên ém quá lâu.”

    Ta Liên vỗ vai hai người, Phong Tín và Mộ Tình hành lễ rồi lui xuống. Trong một tấc vuông của ngôi miếu nhỏ, chỉ còn lại Tạ Liên và đứa bé kia. Tạ Liên đi ra khỏi miếu, ngoảnh đầu nhìn một cái, không nán lại nữa mà lao thẳng lên Tiên kinh.

    Ban đầu y định đi thăm hỏi mấy vị thần quan thủy pháp trước, nhưng lạ ở chỗ mấy vị đứng đầu đều trùng hợp không có mặt trong phủ ở Tiên kinh, chỉ còn đúng một vị Vũ Sư không sống ở Tiên kinh. Tạ Liên đang đi vội trên con đường ở Tiên kinh, người đầu tiên đi lướt qua là một nữ văn quan áo đen cầm mấy xấp tài liệu, cô nàng mỉm cười cất giọng: “Thái tử điện hạ, xem như ngài đã về rồi.”

    Tạ Liên vội hỏi: “Nam Cung, ngươi đến đúng lúc lắm, ngươi có biết phủ đệ của Vũ Sư ở đâu không?”
    Cô gái mặc áo đen này tên là Nam Cung Kiệt, là một văn quan cấp thấp của Hạ thiên đình. Sau khi Tạ Liên phi thăng, rất nhiều việc lặt vặt đều do nàng giao nhận và xử lý. Vì nguồn tin của nàng nhanh nhẹn và làm việc thỏa đáng, Tạ Liên rất có thiện cảm với nàng. Nam Cung Kiệt đáp: “Hiện giờ Vũ Sư đại nhân vẫn chưa xây xong phủ đệ, đang tạm trú tại nước Vũ Sư ở phía Nam.” Sau khi chỉ cho Tạ Liên chỗ ở của Vũ Sư, nàng lại hỏi: “Ngài tìm vị đại nhân đó làm gì thế?”

    Tạ Liên đáp: “Có việc gấp, cảm ơn nhé.” Đang định rời đi, y chợt xoay người lại, ho nhẹ một tiếng, ngượng ngùng hỏi: “Nam Cung à, ngươi quen khá thân với các thần quan trên Thượng Thiên Đình, có thể cho ta biết, Vũ Sư đại nhân có… đặc biệt thích cái gì không?”

    Thông thường sau khi thần quan mới nhậm chức phi thăng, nếu khôn khéo một chút sẽ đến thăm miếu lớn của tất cả các vị thần quan cùng thiên đình và tặng quà một lượt. Đây chính là nể mặt, mà cũng gần như là quy luật bất thành văn, song vì Tạ Liên phi thăng quá đột ngột, lúc vừa lên không có ai dẫn dắt hay dạy bảo y. Đến tận sau này quốc sư nhắc nhở y, một là đã bỏ lỡ thời cơ tốt nhất, lại tặng nữa thì rất kỳ cục, hai là loại chuyện này khó tránh khiến người ta liên tưởng đến tham quan đi cửa sau ở nhân gian. Với tư cách là Thái tử, Tạ Liên cảm thấy việc này không ổn, cuối cùng y vẫn quyết định thuận theo tự nhiên, chung quy sẽ có cơ hội dùng cách thức chân thành và thỏa đáng để kéo gần quan hệ với các tiên liêu (những người cùng làm tiên).

    Ban đầu phong thái đẹp đẽ là thế, bây giờ thái độ lại hoàn toàn trái ngược, chủ động hỏi một vị thần quan thích thứ gì cứ như chuẩn bị hối lộ người ta, khó tránh cảm thấy ngượng ngùng, nhưng nếu không làm vậy cũng chẳng còn cách nào khác. Mấy vị sống ở Tiên kinh chí ít cũng từng nói chuyện trong Thông Linh trận, có điều kiện hay ân tình gì cũng dễ dàng thương lượng được. Nhưng Vũ Sư thì lại chưa hề tiếp xúc bao giờ, lần đầu đến nhà thăm hỏi, Tạ Liên cũng ngại khiến người ta hiểu lầm mình muốn mượn không pháp bảo.

    Nam Cung Kiệt lập tức hiểu ra, đáp: “Ngại quá, e rằng không giúp được điện hạ rồi. Vũ Sư đại nhân tính tình khiêm tốn, đừng nói là ta, chỉ sợ cả thiên giới cũng chẳng ai biết sở thích riêng của vị đại nhân ấy. Xin lỗi nha.”

    Mặt Tạ Liên hơi đỏ: “Không sao, đừng để bụng, cảm ơn.”

    Nam Cung Kiệt lại nói: “Nhưng nếu ngài có chuyện quan trọng cần tìm gặp, đừng ngại trực tiếp đến nhà thăm hỏi. Theo tính cách của Vũ Sư đại nhân, chưa chắc sẽ không gặp ngài.”

    Tạ Liên cảm ơn lần nữa rồi đi một mạch về phía Nam theo hướng nàng chỉ, đến nơi Vũ Sư đang ở tạm.

    Đó là một thôn trang nho nhỏ, non xanh nước biếc, phong cảnh tươi đẹp, nhưng Tạ Liên hoàn toàn không có lòng dạ nào mà thưởng thức. Băng ngang qua một thửa ruộng, cuối cùng cũng nhìn thấy tấm bia đá có khắc chữ “Vũ”. Theo lý mà nói, đi qua bia đá này chính là địa bàn Vũ Sư đang ở tạm, đáng ra những vật sinh hoạt tại đây đều là thuộc hạ của Vũ Sư. Tuy nhiên suốt chặng đường Tạ Liên đi, chỉ thấy khắp nơi đều là ruộng đồng mơn mởn, trong ruộng có trâu kêu ò ò, có guồng nước xoay cuồn cuộn, có nông phu đang cần cù cấy mạ, cạnh ruộng còn có một gian nhà tranh xiêu vẹo, chẳng hề có chút phong thái tiên phong đạo cốt nào, khiến cho Tạ Liên thật sự hoài nghi mình đến nhầm chỗ rồi. Chẳng phải nơi này là một thôn nhỏ làm nông tàn tạ hẻo lánh sao?

    Giữa lúc y đang ngờ vực, con trâu đen đang cày bừa bên kia đột nhiên tru vài tiếng ò ò, sau đó đứng thẳng dậy, duỗi hai chân trước tự tháo lưỡi cày cho mình. Thân thể cường tráng từ từ thu nhỏ, mũi trâu dài thòng cũng dần dần thu ngắn lại. Chỉ trong nháy mắt, từ một con trâu đen bóng loáng đã hóa thành một nông phu vai trần.

    Nông phu cao to tráng kiện, bắp thịt từng múi rõ ràng, đường nét gương mặt rắn rỏi, mũi đeo một cái khuyên sắt sáng loáng hệt như con trâu kia, miệng còn đang ngậm một cọng cỏ. Mấy nông dân còn lại tận mắt chứng kiến màn biến hình đáng sợ này vẫn tiếp tục làm việc như đã nhìn mãi thành quen. Bấy giờ Tạ Liên mới khẳng định, những vật ở đây đều không phải là người phàm, y bước lên trước, chắp tay hỏi: “Xin hỏi đạo hữu, Vũ Sư đại nhân đang sống tạm ở nơi này sao?”

    Nông phu hóa thành từ trâu đen chỉ tay sang bên bờ, đáp: “Ừ. Vũ Sư đại nhân sống trong đó.”

    “……”

    Tạ Liên nhìn đi nhìn lại mấy lần, cuối cùng xác định hướng mà nông phu chỉ cho mình, chỉ có gian nhà tranh nhỏ trông như gió thổi là sụp mưa rơi là dột kia.

    Dẫu cho là miếu Thái Tử thôn quê tồi tàn nhất của y, so ra cũng danh giá và sung túc hơn gian nhà nhỏ này, Tạ Liên không khỏi cảm thấy kỳ lạ. Nghe bảo trước khi Vũ Sư đại nhân phi thăng cũng giống như y, là hậu duệ hoàng tộc của nước Vũ Sư, chính vì lẽ đó, y mới không trực tiếp dùng những loại đá quý hiếm có trên đời làm quà tặng Vũ Sư, có lẽ cảm nhận của Vũ Sư về chúng cũng như y thôi, chẳng lấy làm lạ gì. Vì đâu sau khi phi thăng, Vũ Sư lại sa sút đến mức này? Có lẽ, đây cũng là một cách thức tu luyện.

    Tạ Liên không giảm bớt chút lễ nghi nào, cảm ơn nông phu kia rồi đến gần gian nhà nhỏ, đứng bên ngoài cất cao giọng gọi: “Vũ Sư đại nhân, Thái tử Tiên Lạc Tạ Liên mạo muội đến thăm, chưa kịp báo trước, mong ngài lượng thứ.”

    Trong nhà không có tiếng động, nông phu kéo lưỡi cày đi tới, hỏi: “Hả? Ngươi là vị Thái Tử điện hạ mười bảy tuổi đã phi thăng đấy sao?”

    Tạ Liên đáp: “Hổ thẹn.”

    Nông phu nói: “Có gì đâu mà hổ thẹn, sự thật mà. Nhưng Vũ Sư đại nhân không thích gặp người, gần đây còn bị thương, e rằng không thể ra gặp ngươi được.”

    Nghe vậy, Tạ Liên thấy hơi thất vọng, nhưng vẫn ôm lòng muốn thử: “Có thể nhờ ngài chuyển lời thay ta không? Tại hạ có chuyện quan trọng muốn nhờ. Nếu Vũ Sư đại nhân nghe xong mà thấy có điều bất tiện, ta tuyệt đối không miễn cưỡng.”

    Nông phu cười ha ha đáp: “Không cần ta phải chuyển lời, chúng ta biết tỏng ngươi đến làm gì mà. Tiên Lạc không có nước, cảm giác không mấy dễ chịu nhỉ?”

    Tạ Liên sửng sốt, hỏi: “Ngài biết chuyện Tiên Lạc ư?”

    Nông phu đáp: “Dĩ nhiên là biết. Đâu chỉ mấy kẻ sống ở khe núi bần cùng hẻo lánh như chúng ta biết, Tiên Lạc tai họa ập đầu, bây giờ còn ai mà không rõ? Chuyện của ngươi, chính ngươi không thấu được, nhưng người khác nhìn chằm chằm ngươi cả ngày, còn rõ hơn bản thân ngươi nữa, nói không chừng trong lòng còn đang hí hửng đấy, ha ha. Ngươi đến xin Vũ Sư cho mượn pháp bảo để cứu trợ đúng không?”

    Bị nông phu vạch trần, lúc này Tạ Liên mới nhận ra, những thần quan trên Thượng thiên đình không phải là trùng hợp vắng mặt, mà đã quá rõ mục đích tìm gặp của y, cố ý đóng cửa không tiếp, hoặc đã tránh đi từ sớm, không muốn vướng vào vụ rắc rối này. Tạ Liên thở dài, nghĩ thầm: “Chẳng lẽ ngay từ đầu, đáng ra phải đến thăm một lượt từng ngôi miếu lớn, về sau gặp lại mới dễ giải quyết?” Nghĩ đến có chút chán nản, y nói khẽ: “Đúng là như thế, nếu Vũ Sư đại nhân không tiện, tại hạ quyết không bám riết.”

    Nông phu lại hỏi: “Sao ngươi lại không bám riết? Tự ái à? Đây là chuyện lớn sống còn của dân chúng nước ngươi, chẳng phải ngươi nên bám dai như đỉa sao? Muốn ngươi hạ mình xuống một chút đã không chịu nổi hả? Người trẻ tuổi không thể thiếu kiên nhẫn như vậy được. Nói câu này hơi khó nghe, Vũ Sư đại nhân giúp ngươi là vì tình cảm, không giúp ngươi là giữ bổn phận. Cho ngươi mượn là tâm trạng tốt, không cho ngươi mượn thì sau này ngươi cũng không được oán trách.”

    Tạ Liên biết rõ những lời hắn nói đều có lý, nhưng giờ đã sứt đầu mẻ trán, lại thêm giọng điệu không mấy thân thiện, sự bực bội hơi trào lên, ngẩng đầu nghiêm mặt nói: “Những gì ngươi nói ta đều rõ cả, ta cũng tuyệt đối sẽ không oán trách sau lưng, ngươi cần gì phải suy diễn ta như thế? Ta nói sẽ không bám riết chỉ vì không muốn phí công mà còn làm Vũ Sư đại nhân khó xử. Nếu Vũ Sư đại nhân không thấy khó xử, chỉ cần ta bám riết là mượn được pháp bảo, vậy bảo ta chắp tay dâng lên tám ngàn đạo quán, quỳ xuống dập đầu lạy ngươi một trăm cái cũng có gì khó đâu?”

    Nông phu cười ha ha: “Giận rồi hả? Tính khí trẻ con. Bắt lấy này!”

    Nông phu vừa ném, Tạ Liên giơ tay đón lấy một chiếc nón trúc màu xanh, chính là cái mà thoạt đầu nông phu đeo trên lưng. Tạ Liên hỏi: “Đây là?”

    Nông phu đáp: “Thứ ngươi muốn mượn đấy. Trước khi ngươi tới, Vũ Sư đại nhân đã bảo ta giao cho ngươi. Dùng cho cẩn thận, nếu làm hỏng chúng ta không tha cho ngươi đâu.”

    Tạ Liên trợn to mắt, hỏi: “Tại sao?”

    Nông phu đáp: “Đã nói tại sao rồi mà? Cho ngươi mượn là vì tâm trạng tốt. Thần quan khác không cho ngươi mượn, Vũ Sư đại nhân cứ muốn cho ngươi mượn đấy. Vũ Sư đại nhân muốn làm gì thì làm nấy thôi.”

    Tạ Liên luôn miệng nói: “Cảm ơn! Cảm ơn!”

    Nông phu lại cất lời: “Ngươi cũng đừng vui mừng quá sớm, Thái tử điện hạ à. Tuy Vũ Sư đại nhân phi thăng lâu hơn ngươi, nhưng tín đồ lại không nhiều bằng ngươi, pháp lực cũng kém xa ngươi, hơn nữa còn đang bị thương, ngoại trừ cho ngươi mượn vật này, những việc còn lại ngươi chỉ có thể tự dựa vào mình thôi. Nước xa không cứu được lửa gần, nón Vũ Sư chỉ có thể dời mưa, không thể tạo nước. Nước của Tiên Lạc các ngươi không đủ dùng, chỉ có thể đi mượn quốc gia khác, nhưng chưa chắc quốc gia khác đã bằng lòng, chỉ có nước Vũ Sư quanh năm dồi dào mới có dư. Thế nhưng núi dài nước xa, mỗi lần dùng đều phải tiêu hao một lượng lớn pháp lực của ngươi, pháp lực ngươi có nhiều hơn nữa rồi cũng có lúc cạn kiệt thôi.”

    Tạ Liên lại hiểu rất rõ, chịu cho một người không có quan hệ gì mượn pháp bảo của mình là chuyện khó khăn nhường nào. Y khom người thật thấp, gọi với về phía nhà tranh: “Vũ Sư đại nhân bằng lòng vươn tay giúp đỡ, tại hạ đã cảm kích muôn phần. Đại ân không lời nào cảm tạ hết, sau này nếu có gì ta giúp được, xin Vũ Sư đại nhân cứ việc sai bảo. Cáo từ!”

    Mượn được pháp bảo, Tạ Liên tức khắc tìm một sông hồ ở phía Nam, dùng nón Vũ Sư thu một lượng nước lớn trong hồ, băng qua nghìn dặm, trở lại Vĩnh An ở Tiên Lạc, tìm đến thôn trang hạn hán nghiêm trọng nhất, Lang Nhi Loan, đứng trên mây lật nón lại.

    Ngay lập tức, từ trên trời đổ xuống một trận mưa nhỏ tí tách. Tạ Liên nhảy khỏi đám mây, hai chân tiếp đất, các thôn dân đang sống dở chết dở chưa thể nào tin nổi, có người lao ra cửa tắm mưa nhảy nhót reo hò, có người vội vã xách chậu lớn chậu nhỏ rửa mặt rửa chân trong nhà ra hứng mưa.

    Thấy thế, Tạ Liên thở phào nhẹ nhõm, bấy giờ mới nở nụ cười. Lúc này, chợt nghe một tiếng gọi từ xa vọng tới: “Thái tử điện hạ!”

    Y quay đầu lại, chỉ thấy Mộ Tình nửa mặt u ám, vòng ra từ sau một thân cây. Thấy sắc mặt Mộ Tình không tốt, Tạ Liên biết ngay có chuyện không ổn, bèn hỏi: “Sao thế, xảy ra chuyện gì rồi?”

    Chương 75: Đóng cổng thành, Vĩnh An tuyệt đường sống

    Mộ Tình nói: “Điện hạ, sao huynh đi một phát nhiều ngày thế?”

    Tạ Liên ngẩn ra: “Ta đi lâu lắm sao?”

    Đi đi đến đến, lên trời xuống đất, thu nước trong hồ, đạp mây tạo mưa, chẳng phân ngày đêm, sớm đã tiêu tốn rất nhiều thời gian, mà y lại không hề phát giác. Mộ Tình nói: “Nhiều ngày lắm rồi! Lời cầu nguyện của tín đồ bên điện Thái Tử đã chất thành núi.”

    Lúc này, Tạ Liên phát giác mưa phùn yếu dần, bèn vươn tay ra, nói: “Chẳng phải ta đã dặn dò, bảo các ngươi mau chóng giải quyết những việc quan trọng sao?”

    Mộ Tình đáp: “Những gì giải quyết được, tất nhiên chúng ta đã giải quyết hết rồi, nhưng mà… còn rất nhiều lời cầu nguyện mà chúng ta không đủ tư cách vượt cấp làm thay. Bởi vậy trước đó ta mới bảo điện hạ đừng ém quá lâu, mau mau trở về.”

    Mộ Tình nói hết câu, mưa cũng tạnh. Thời gian kéo dài của cơn mưa này còn ngắn hơn tưởng tượng của Tạ Liên, lòng y không khỏi trĩu nặng. Mây đen giữa trời dần dần tản ra, chầm chậm rơi vào chiếc nón trúc màu xanh, Tạ Liên chìa hai tay bắt lấy, nói: “Nhưng ngươi nhìn tình hình này đi, ta cũng không thể phân thân được.”

    Mộ Tình nhíu mày: “Điện hạ, huynh mượn được pháp bảo của Vũ Sư rồi sao? Nước này dời đến từ đâu?”

    Tạ Liên nói: “Nước Vũ Sư ở phía Nam.”

    Mộ Tình hỏi: “Xa vậy ư? Một lần dời thế này tốn bao nhiêu pháp lực của huynh? Hơn nữa phạm vi mỗi lần đổ mưa rất nhỏ, lại không kéo dài được bao lâu, cứ hao tốn kiểu này, huynh làm sao ứng phó nổi lời cầu nguyện của tín đồ trong điện Thái Tử?”

    Không cần Mộ Tình nói, Tạ Liên cũng tỏ tường. Y là Võ Thần, tín đồ trong điện Thái Tử là căn cơ lập điện và cội nguồn pháp lực của y. Hành động này chẳng khác nào bỏ căn cơ theo đuổi cái khác, hễ mà sơ sẩy, sợ rằng hai bên đều lo không xong, nhưng ngoại trừ làm thế, còn cách nào nữa chứ?

    Tạ Liên nói: “Ta biết. Nhưng cứ cái đà này, nếu bên Vĩnh An bùng phát bạo động, sớm muộn gì cũng lan đến điện Thái Tử.”

    Mộ Tình lại nói: “Đã sắp bùng phát rồi!”

    Tạ Liên hoảng hốt: “Gì cơ?”

    Sau khi nghe Mộ Tình thông báo, Tạ Liên tức tốc trở về hoàng thành Tiên Lạc. Đi đến đường Thần Võ, vừa khéo gặp phải một nhóm binh sĩ hoàng gia võ trang đầy đủ, đang cầm lợi khí (vũ khí sắc bén) áp giải một đám đàn ông đầu tay đeo gông áo quần rách rưới đi tới. Dân chúng đứng đầy hai bên đường, sắc mặt ai nấy cũng vừa kích động vừa căm phẫn. Phong Tín tay giương cung đen, bày thế trận sẵn sàng đón địch, dường như đang đề phòng dân chúng hai bên bạo động. Tạ Liên quát: “Phong Tín! Những người bị áp giải là ai? Phạm tội gì? Đưa đi đâu?”

    Nghe giọng Tạ Liên, Phong Tín bước nhanh tới, nói: “Điện hạ! Những người này đều là người Vĩnh An.”

    Hàng đàn ông này ai cũng cao gầy, màu da hơi sạm, tầm vài chục người. Phía sau nhóm binh sĩ áp giải bọn họ còn có vài cụ già, cùng với một ít phụ nữ và trẻ em mặt đầy hoảng hốt. Tạ Liên hỏi: “Đằng sau cũng toàn là người Vĩnh An?”

    Mộ Tình đáp: “Phải.”

    Thì ra mấy tháng nay Vĩnh An gặp đại hạn, những người trước đây định cư ở Vĩnh An lục tục chạy nạn sang phía Đông. Một nhóm vài chục người thì chưa thấy rõ, nhưng tính đến hiện tại đã có hơn năm trăm người chạy nạn sang đây. Hơn năm trăm người đó tụ lại một chỗ, đầu người đông nghìn nghịt, vậy thì thấy rất rõ.

    Nhóm người Vĩnh An này chưa quen với cuộc sống nơi đây, hai bàn tay trắng, vừa mở miệng là lộ rõ chất giọng vùng khác, đặt chân đến một thành trì xa lạ mà phồn hoa, dĩ nhiên muốn xúm thành một tốp sưởi ấm cho nhau, vì vậy bọn họ tìm khắp hoàng thành Tiên Lạc, cuối cùng tìm được một vùng đất xanh tốt không người sinh sống, thế là vui mừng khôn xiết, dựng nhà lều ở đây làm chỗ nghỉ chân.

    Thật không may là, tuy vùng đất xanh tốt này đích thực không người sinh sống, nhưng lại là ánh trăng sáng trong lòng nhân sĩ hoàng thành. Người Tiên Lạc người quen hưởng thụ và thưởng thức, vì cái đẹp nơi đây, rất nhiều người dân hoàng thành rảnh rỗi không có gì làm sẽ đến vùng đất xanh tốt này tản bộ, khiêu vũ, luyện kiếm, ngâm thơ, vẽ tranh, tụ họp. Còn Vĩnh An tọa lạc tại phía Tây Tiên Lạc, đất đai cằn cỗi, vốn đã nghèo nàn, tính tình và phong tục của dân chúng nơi đó cũng khác xa dân chúng phía Đông Tiên Lạc. So với bọn họ, dân chúng hoàng thành thường có thể ý thức sâu sắc hơn rằng mình mới là “người Tiên Lạc” chính thống. Giờ đây, chốn khi xưa thanh nhã lại bị một đám dân chạy nạn chiếm đóng, suốt ngày nấu thuốc, khóc than, giặt quần áo, nhóm lửa, mùi mồ hôi và mùi thức ăn thừa thúi rình bay đầy, khiến cho rất nhiều người dân sống lân cận không tài nào chịu nổi, oán giận không ngớt.
    Thật ra mấy cụ già Vĩnh An dẫn đầu thừa biết điều đó chứ, bọn họ cũng muốn dời sang nơi khác, nhưng hoàng thành vốn đã đông dân cư, dời đến đâu cũng chật ních người, không tìm được nơi nào khác có thể xếp chỗ cho nhiều người như thế, huống chi trong hơn năm trăm người này còn có trẻ em và phụ nữ già yếu bị thương bị bệnh, không thích hợp di chuyển nhiều lần, vậy nên buộc phải hành xử thận trọng, mặt dày ở lì không đi. Dân chúng hoàng thành tuy bất mãn là thế, nhưng dù sao cũng là người một nước, nếu đã gặp nạn thì tạm thời ráng nhịn vậy.

    Nghe đến đó, hàng binh sĩ áp giải vài chục gã đàn ông Vĩnh An đi tới cổng chợ, quát tháo ra lệnh: “Quỳ xuống!”

    Những người Vĩnh An kia tỏ vẻ không phục, nhưng đao kề trên cổ, không quỳ cũng phải quỳ. Thấy bọn họ quỳ xuống nhấp nhô cao thấp không đều, dân chúng hoàng thành đứng vây xem có người thở dài, có người hả giận. Tạ Liên hỏi: “Theo lời ngươi nói, hai bên đều đang nhẫn nhịn, vậy hôm nay là sao đây?”

    Phong Tín và Mộ Tình còn chưa trả lời, trong đám dân có một người phụ nữ dập đầu gào khóc*: “Lũ trộm cướp man rợ các ngươi! Trộm gà trộm chó rồi còn đánh tướng công ta ra nông nỗi đó, muốn bò dậy cũng bò không nổi, nếu tướng công ta có mệnh hệ gì, ta liều mạng với các ngươi!”

    *Nguyên văn là 哭天抢地: ý bảo miệng kêu trời, đập đầu xuống đất gào khóc tức tưởi.

    Vài người bên cạnh vội vàng an ủi nàng, có người còn trách mắng: “Kẻ bỏ nhà rời quê đến địa bàn của người khác mà chẳng biết an phận thủ thường!”

    “Đúng đấy, đến nhà người khác mà không khách sáo tí nào, còn trộm đồ nữa!”

    Một chàng trai trẻ đeo gông không giữ được bình tĩnh, biện bạch: “Từ đầu đã nói không phải là bọn ta trộm! Kẻ ra tay trước cũng không phải bọn ta! Chưa kể bên bọn ta cũng có người bị thương…” Một cụ già quát bảo ngừng: “Đừng nói nữa!”

    Chàng trai trẻ kia tức tối ngậm miệng. Phong Tín nói: “Trong hoàng thành có người mất một con chó, bởi vì trước đây có trẻ em Vĩnh An đói quá trộm vịt của người ta luộc ăn, nên lần này cũng tình nghi là bị người Vĩnh An bắt đi nướng ăn, thế là chạy sang bên bọn họ hỏi, nói không hợp một câu đã choảng nhau.”

    Tạ Liên chỉ cảm thấy không lý giải nổi: “Chỉ vì một con chó mà làm ầm ĩ như thế, bắt nhiều người như thế sao?”

    Phong Tín đáp: “Đúng vậy, chỉ vì một con chó mà ầm ĩ như thế. Hai bên nhịn nhau đã lâu, chuyện nhỏ cũng thành chuyện lớn. Hai bên đều thề thốt nói rằng đối phương ra tay trước, là lỗi của đối phương, choảng nhau túi bụi một trận, không hiểu sao càng đánh càng lớn.”

    Một binh sĩ dẫn đầu quát: “Tụ tập gây rối, nghiêm trị không tha! Đeo gông thị chúng, không được tái phạm!” Nói xong lùi ra, giây tiếp theo, hàng loạt người bắt đầu ném rau cải và trứng thối vào đám đàn ông Vĩnh An kia. Mấy người lớn tuổi thì khom lưng nói khắp bốn phía: “Xin lỗi, các vị, xin lỗi.” “Xin thủ hạ lưu tình, thủ hạ lưu tình.”

    *Thị chúng: bêu trước đám đông, thường chỉ trừng trị phạm nhân trước công chúng.

    Mặc dù Tạ Liên cho rằng đúng là chuyện bé xé ra to, hoang đường tột độ, nhưng đại khái vẫn thông hiểu được, nói: “Vậy rốt cuộc có phải bọn họ trộm không? Tìm được con chó kia chưa?”

    Phong Tín lắc đầu: “Chuyện đó ai biết được. Ăn xong chỉ cần đổ vụn xương, còn ai tìm được nữa? Có điều nhìn nét mặt, ta cảm thấy không giống là do bọn họ trộm.”

    Nhưng mà, hiển nhiên binh sĩ hoàng thành sẽ phán xét nghiêng về phía dân chúng hoàng thành, bất luận có trộm hay không, nếu đã đánh nhau thì chắc chắn là do người Vĩnh An không đúng. Nhất là khi cánh đàn ông hoàng thành rất thích vui đùa, không giỏi đánh nhau như đàn ông Vĩnh An, xem ra lần này bị người vùng khác đánh tơi bời, mất sạch thể diện, oán thù kết sâu. Tạ Liên lắc đầu, lia mắt qua nhìn, chợt phát hiện trong hàng đàn ông Vĩnh An này có một thanh niên cúi đầu đứng giữa trông vô cùng quen mắt, chính là thanh niên Lang Anh chôn con trong khu rừng nhỏ kia.

    Tạ Liên lập tức ngẩn ra. Lúc này, gần đó có người oán trách: “Sao ta cảm thấy mấy tháng nay người Vĩnh An trong hoàng thành càng đến càng đông nhỉ, hôm nay còn dám đánh người nữa.”

    “Chắc không phải bọn họ muốn qua đây hết chứ?”

    Một gã đàn ông trông như thương nhân vung hai tay loạn xạ, nói: “Quốc vương bệ hạ sẽ không đồng ý đâu! Mấy hôm trước nhà của ta đã bị người Vĩnh An vào trộm đồ, nếu bọn họ túa qua đây hết, vậy còn được sao?”

    Nghe gã nói thế, Lang Anh vẫn một mực cúi đầu mặc cho rau quả ném đầy mặt thình lình ngẩng đầu lên, nói: “Ngươi nhìn thấy à.”

    Không ngờ người này lại nói chuyện với mình, thương nhân kia thuận miệng đáp: “Cái gì?”

    Lang Anh hỏi: “Người Vĩnh An trộm đồ nhà ngươi, là ngươi tận mắt nhìn thấy sao?”

    “……” Thương nhân kia nói: “Ta không tận mắt nhìn thấy, nhưng trước giờ luôn yên lành, sau khi các ngươi tới mới tự dưng bị trộm, chẳng lẽ nó không liên quan chút nào đến các ngươi?”

    Lang Anh gật đầu: “Thì ra là thế. Ta hiểu rồi. Trước khi chúng ta đến, kẻ trộm đồ đều là các ngươi, sau khi chúng ta đến, kẻ trộm đồ đều là chúng ta…”

    Lời còn chưa dứt, một trái hồng chín rữa bay xoáy tới, đập vào khóe miệng của Lang Anh, trông như nôn ra một đóa hoa máu lớn. Thương nhân kia phì cười ra tiếng, ánh mắt Lang Anh hờ hững, ngậm miệng không nói nữa.

    Tạ Liên biến đổi những hòn đá sắc nhọn ném về phía các thanh niên Vĩnh An, để bọn họ không đến mức máu chảy đầu rơi. Trận thị chúng này tiến hành mãi đến chập tối, dân chúng vây xem từ từ giải tán, đám binh sĩ thấy đủ rồi, bây giờ mới ngạo mạn mở gông, cảnh cáo sau này không được gây chuyện thị phi nữa, bằng không nhất định không dễ dàng bỏ qua. Mấy người lớn tuổi một mực cúi người gật đầu cười làm lành, cam đoan sẽ không tái phạm, Lang Anh lại tỏ ra bình thản, tùy ý bỏ đi. Thấy hắn đi một mình, Tạ Liên chộp đúng thời cơ, vụt ra từ sau thân cây, chặn đường của hắn.

    Tạ Liên bất chợt xuất hiện, đầu tiên ánh mắt của Lang Anh chuyển lạnh, trong phút chốc, dường như muốn ra tay bóp cổ họng của y. Ngay tích tắc sau khi thấy rõ người đến, hắn rút lại cánh tay còn chưa duỗi ra, nói: “Là ngươi.”

    Hình dạng mà Tạ Liên hóa thành chính là tiểu đạo sĩ kia. Bị cái vồ hụt khi nãy của Lang Anh làm cho thoáng sửng sốt, y nghĩ thầm: “Võ nghệ của người này khá lợi hại.” Sau đó nói: “Ta đã tặng viên ngọc đó cho ngươi, sao ngươi không mang nó về Vĩnh An?”

    Lang Anh nhìn y, đáp: “Con ta ở đây, ta cũng ở đây.”

    Ngừng một hồi, hắn lấy viên ngọc san hô ra khỏi dây lưng, nói: “Ngươi muốn lấy lại cái này không? Trả ngươi.”

    Trên bàn tay Lang Anh đưa viên ngọc qua còn có vết bầm do đeo gông. Im lặng chốc lát, Tạ Liên không nhận, nói: “Về đi. Hôm nay Lang Nhi Loan mưa rồi.”

    Y chỉ trời, nói: “Ngày mai! Sẽ còn mưa nữa. Ta đảm bảo đấy, nhất định sẽ mưa.”

    Lang Anh lại lắc đầu, nói: “Bất luận có mưa không cũng không về được nữa.”

    Nhìn bóng lưng Lang Anh bỏ đi, Tạ Liên ngớ người giây lát, chỉ cảm thấy phiền muộn vô cùng.

    Thuở xưa lúc chưa phi thăng, dường như chẳng có muộn phiền chi, y muốn làm gì là sẽ làm được tuốt. Nào ngờ sau khi phi thăng, dường như trong lúc bất chợt, y đã bị phiền muộn vô cùng vô tận bủa vây. Có phiền muộn của người khác, cũng có phiền muộn của chính mình. Muốn làm một chuyện mà lại khó khăn như thế, được này mất nọ, lực bất tòng tâm. Tạ Liên thở dài rồi cũng xoay người rời khỏi, quay về điện Thái Tử, giải quyết lời cầu nguyện tồn đọng suốt nhiều ngày của các tín đồ.

    Dẫu vậy, Tạ Liên cũng không phải là người phiền muộn nhất. Quốc vương mới phải.

    Nỗi lo của quốc vương Tiên Lạc trở thành sự thật, hơn năm trăm người Vĩnh An kia chỉ là bước đầu mà thôi.

    Trong nhiều lần xuôi Nam ngược Bắc, Tạ Liên cầm nón Vũ Sư mượn được, dùng năng lực của một mình mình, làm phép tạo mưa. Mỗi lần tạo mưa phải tốn ít nhất năm sáu ngày và lượng lớn pháp lực, nếu không phải là y, e rằng thật sự không có người nào chịu được kiểu bôn ba chạy đôn chạy đáo như thế. Tất nhiên, ngoại trừ Quân Ngô. Nhưng nơi cai quản của Thần Võ Đại Đế rộng hơn y nhiều, tín đồ và lãnh thổ cần tiêu tốn tinh lực cũng nhiều hơn một nước Tiên Lạc, làm sao Tạ Liên có thể đi xin Quân Ngô hao tâm tổn trí vì việc này? Huống chi một lần chỉ có thể tưới mát một phần đất nhỏ của Vĩnh An, mà còn không kéo dài được bao lâu, tuy có thuyên giảm nhưng không thể trị tận gốc. Vì vậy một tháng sau, người Vĩnh An bắt đầu chính thức kết bè kết đội di cư về phía Đông. Ban đầu là một nhóm vài chục người, bây giờ là vài trăm người, vài nghìn người, nhiều vô số kể, hội tụ thành sông.

    Qua thêm một tháng, quốc vương Tiên Lạc ban hành một mệnh lệnh: Xét thấy mấy tháng nay giao tranh không ngừng, ẩu đả liên miên, vì duy trì an ninh trong hoàng thành, bắt đầu từ hôm nay, người Vĩnh An lang bạt trong vương đô Tiên Lạc phải rút hết khỏi hoàng thành. Mỗi người được cho lộ phí nhất định, đến thành trấn khác an cư trú tạm.

    Ngay trước mặt dòng người Vĩnh An nườm nượp đi về phía Đông, đóng cổng chính hoàng thành Tiên Lạc.

    Chương 76: Đóng cổng thành, Vĩnh An tuyệt đường sống. 2

    “Mở cổng!”

    “Cho chúng ta vào!”

    Các binh sĩ lùi vào trong thành, cổng lớn ngàn cân khép lại. Những người bị đám binh sĩ trục xuất ra ngoài cổng túa về như cơn thủy triều đen kịt, nện ầm lên cổng. Các tướng sĩ trên cổng thành hét lớn: “Rút đi! Rút đi! Ai đã lãnh lộ phí có thể khởi hành rồi, đi về phía Đông, đừng dừng dọc đường!”

    Tuy nhiên, những người Vĩnh An này rời bỏ quê hương, chạy nạn suốt một đường, đi đến hoàng thành gần với mình nhất. Cổng chính hoàng thành đóng trước mặt bọn họ, nếu muốn sống thì phải vòng qua hoàng thành, đi đoạn đường dài hơn để đến thành trì càng xa về phía Đông.

    Thế nhưng đi cả chặng đường đến đây đã trải qua biết bao gian khó, tử thương vô số, nào còn thừa sức tiếp tục đi về phía trước? Cho dù mỗi người được phát cho một ít lộ phí, nước và lương khô, nhưng liệu chống được mấy ngày trên đường đây?

    Ai nấy cũng mặt xám mày tro, có người kéo lê nồi niêu xoong chảo, có người cõng trẻ con, có người khiêng cáng cứu thương, dìu thì dìu, nằm thì nằm, đi không nổi nữa, ngồi thành từng tốp trước tường thành. Đám đàn ông trẻ tuổi còn sức để nổi giận, đập cổng thành hô lớn: “Các ngươi không thể làm vậy được! Các ngươi muốn bọn ta chết sao!”

    “Đều là người Tiên Lạc với nhau, các ngươi có cần đuổi cùng giết tận như vậy không!”

    Một người đàn ông gào đến khản cổ: “Đuổi bọn ta ra thì thôi đi, ta không vào, nhưng cho vợ con ta ở lại được không?!”

    Như kiến càng lay cây, cổng thành chẳng hề nhúc nhích.

    Tạ Liên đứng trên lầu cổng thành. Áo trắng bay phần phật, y lướt qua tường chắn mái, nhìn xuống bên dưới. Phía ngoài hoàng thành toàn là đầu người chậm chạp lúc nhúc, chi chít đông nghịt, cực giống bầy kiến mà y từng thấy vào thuở nhỏ chơi trong ngự hoa viên.

    Lúc đó xuất phát từ tò mò, y nhìn thêm vài lần, vừa duỗi một ngón tay định chọt lén thì có cung nhân kêu lên ngay: “Điện hạ, thứ này bẩn muốn chết, không được chạm, không được chạm!” Sau đó nhấc váy chạy vội qua đây, đạp vài cái nghiền chết bầy kiến ấy.

    Lúc kiến dế còn sống, ngoài chi chít lít nhít thì chẳng có gì đẹp mắt, bị giẫm chết lại biến thành một bãi thua cả bùn cặn, càng chẳng đẹp đẽ gì cho cam.

    Còn bên trong hoàng thành, vạn nhà đèn đuốc sáng trưng, ca múa vui vẻ. Một bức tường thành, tách rời hai thế giới khác nhau một trời một vực.

    Người Vĩnh An đến sau không được vào thì thôi, vậy mà người ở trong từ trước cũng bị đuổi ra. Tuy nhẫn tâm thật, nhưng Tạ Liên có thể hiểu được, đó là bởi vì mấy tháng nay, dân hoàng thành và dân Vĩnh An xung đột gây sự càng lúc càng nhiều, để cả đám đàn ông như thế trong thành, chỉ sợ lỡ như bọn họ nội ứng ngoại hợp gây nhiễu loạn.

    Tuy nhiên, có một điều Tạ Liên cho rằng vẫn thương lượng được, y nghiêm túc nói: “Tại sao phụ nữ và trẻ em cũng phải rút luôn? Trong đó có một số người chẳng còn đi được bao xa nữa.”

    Phong Tín và Mộ Tình đứng hầu sau lưng y. Mộ Tình đáp: “Muốn rút thì phải rút đi cùng nhau. Không lo ít chỉ lo chia không đều, không thể phân biệt đối xử, bằng không khó tránh kích động kẻ khác. Dựa vào đâu họ ở lại được còn ta thì không?”

    Phong Tín nói: “Ngươi nghĩ nhiều quá.”

    Mộ Tình hờ hững cất giọng: “Sẽ có người nghĩ thế đấy. Hơn nữa nếu vợ và con đều ở lại, đám đàn ông đó sẽ không chịu đi quá xa, sớm muộn cũng sẽ quay trở lại. Giữ người trong thành chẳng khác nào để lại tai họa về sau.”

    Nhóm người Vĩnh An này không chịu đi, các tướng sĩ phía trong cổng thành cũng không đi được, nói: “Hừ, cứ nhây thế đi!”

    Quốc vương bệ hạ đã hạ lệnh, lẽ nào bọn chúng cho rằng ngồi đây ăn vạ sẽ có tác dụng sao? Nhây được một hai ngày thôi, lẽ nào nhây được một hai tháng, một hai năm?

    Dân chúng và tướng sĩ trong hoàng thành đều cho là thế. Có người Vĩnh An vì tuyệt vọng mà chấp nhận số phận, quyết định đánh cược một lần, tiếp tục đi về phía Đông, nhưng số lượng đó không nhiều. Phần lớn vẫn mong mỏi ngồi trước cổng thành, ngóng trông hoàng thành mở cổng cho mình vào, chí ít cho mình một chốn dừng chân để thu xếp sơ trước rồi tiếp tục lên đường. Thêm nhiều người Vĩnh An mới tới, nhìn cổng thành đóng chặt cũng thất vọng vô cùng, nhưng thấy nhiều người ngồi canh như thế, bọn họ cũng ôm lòng kỳ vọng và mong đợi gia nhập đại đội.
    Thế là ba bốn ngày sau, người tụ tập ở cổng thành càng lúc càng đông, mấy chục ngàn người gần như đã dựng trại đóng quân tại đây, tạo nên một cảnh tượng hoành tráng. Bọn họ miễn cưỡng chèo chống nhờ nước và lương khô mà quốc vương phân phát, nhưng đã sắp đến cực hạn.

    Cực hạn này, xảy ra vào ngày thứ năm.

    Năm ngày qua, ngày nào Tạ Liên cũng chia một ngày làm ba, một phần dùng cho tín đồ điện Thái Tử, một phần dùng cho thu xếp chuyển nước tạo mưa, một phần dùng cho chăm sóc dân chúng Vĩnh An ngoài thành, tuy có Phong Tín và Mộ Tình phụ giúp, nhưng đôi lúc y cũng cảm thấy không kham nổi gánh nặng, có lòng mà không đủ sức. Ngày hôm đó, vào đúng canh giờ y không canh giữ ở ngoài thành, dưới ánh mặt trời gay gắt, trước cổng thành đột nhiên vang lên một tiếng hét thảm.

    Tiếng hét thảm là của một cặp vợ chồng đang bế một đứa bé. Người người đua nhau vây quanh họ, hỏi: “Thằng bé này sao thế?” “Đói hay khát?” Lát sau kinh hãi kêu lên: “Mọi người đem chút nước tới đây đi, sắc mặt thằng bé này không ổn rồi!”

    Phụ nhân kia khóc lóc đút nước cho đứa bé ngộp đến nỗi mặt đỏ au, song tất cả nước đều bị nôn ra. Cha nó nói: “Ta không biết xảy ra chuyện gì nữa, nó bị bệnh rồi, đại phu, cần đại phu!” (Phụ nhân = phụ nữ đã có chồng)

    Bế con trai xông đến trước cổng thành, hắn đập cổng rầm rầm: “Mở cổng, mở cổng cứu mạng với! Có người sắp chết, con ta sắp chết!”

    Dĩ nhiên binh sĩ phía trong không dám mở cổng. Bất luận có phải thật sự có người sắp chết hay không, ngoài cổng tận mấy chục ngàn người, mở cổng rồi đừng mong đóng lại nữa, vì vậy chỉ dám thông báo cho tướng sĩ cấp trên. Khí trời oi bức, các tướng sĩ canh giữ suốt nhiều ngày cũng có hơi cáu kỉnh, nói qua quýt lấy lệ: “Cho hắn nước và thức ăn.” Thế là bọn họ dùng một sợi dây thừng, treo chút nước và thức ăn đưa xuống dưới. Cha đứa bé kia nói: “Cảm ơn các ngươi, cảm ơn các vị tướng sĩ đại ca, nhưng chúng ta không cần nước và thức ăn, có thể nào tìm giúp chúng ta một đại phu không?”

    Điều này thật sự khiến người ta khó xử, không thể cho hắn vào cổng tìm đại phu, cũng không thể treo một đại phu đưa xuống cho hắn. Có trời mới biết ra đến ngoài cổng, đám dân đói bụng suốt bốn năm ngày đó sẽ làm nên chuyện gì? Vì vậy, mấy vị tướng quân nói: “Bỏ đi, đừng quan tâm, cứ lờ đấy, không chết được đâu. Nếu hỏi nữa thì bảo đã thông báo rồi, đang đi xin chỉ thị của quốc vương bệ hạ.”

    Liên tục mấy ngày buồn phiền vì chuyện của Vĩnh An, quốc vương đã nhiều lần nổi giận, dĩ nhiên không ai dám đi quấy rầy ngài vì chút chuyện vặt này. Các binh sĩ đáp lại theo lời dặn, cha đứa bé kia mới yên tâm, luôn miệng nói cảm tạ, đội ơn quốc vương, quỳ xuống đất dập đầu. Nhưng hết canh giờ này đến canh giờ khác trôi qua, bóng nắng chói chan ngả từ bên này sang bên kia, đại phu mãi không xuất hiện, đứa bé trong ngực lại càng lúc càng nóng.

    Cặp vợ chồng kia bế con mà tay run cầm cập, cha đứa bé đổ mồ hôi lạnh đầy đầu, lẩm bẩm: “Còn có người tới không? Còn mở cổng cho ta không?”

    Cuối cùng hắn không nhịn được nữa, lớn tiếng gọi với lên cổng thành: “Các tướng quân, thật xin lỗi, ta muốn hỏi một chút… Đại phu đâu?”

    Binh sĩ đáp: “Đã đi xin chỉ thị của quốc vương bệ hạ, ngươi chờ thêm chút đi.”

    Bên dưới có người không kiềm được: “Hai canh giờ trước đã nói đi rồi, sao đến giờ vẫn chưa trở lại?”

    Đám binh sĩ nghe theo chỉ thị của cấp trên, đáp xong không đếm xỉa tới nữa. Những người dưới tường thành vừa tức giận, vừa bất đắc dĩ, vừa đau lòng, bọn họ túm tụm quanh đứa bé, bắt đầu hoài nghi: “Mấy người đó thật sự đã thông báo cho quốc vương bệ hạ sao? Không phải đang gạt chúng ta chứ?”

    Cha đứa bé không chờ được nữa, hạ quyết tâm cõng con trai buộc sau lưng mình, dặn dò vợ vài câu. Phụ nhân kia tháo một lá bùa hộ mệnh trên cổ, đeo vào cổ chồng. Người đàn ông nọ chạy nhanh về phía tường thành, thử trèo lên trên.

    Mặt bên tường thành được xây theo kiểu cực khó đặt tay, cha đứa bé túm vài cái nhưng không trèo lên được, đám đàn ông còn lại rối rít nói: “Để ta giúp ngươi!” Sau đó chạy qua nâng hắn lên. Mấy chục người xếp chồng lên nhau, đưa hắn lên chỗ cao hơn một trượng. Đến đây, cha đứa bé mới miễn cưỡng nắm lấy sợi dây thừng vừa rồi được dùng để treo nước và thức ăn, tiếp tục trèo lên trên. Mấy chục ngàn người bên dưới hồi hộp theo dõi cha đứa bé, không dám cổ vũ hắn cố lên, sợ bị phát hiện. Nhóm binh sĩ trên lầu cổng thành đã canh giữ vài ngày, đám dân chạy nạn Vĩnh An này cũng không gây nên chuyện lớn gì, khó tránh có chút lơi lỏng, chờ khi cha đứa bé trèo đến gần phân nửa, bọn họ mới bất chợt phát hiện có một người bám trên tường thành, bèn cất giọng quát to: “Làm gì vậy! Không được phép trèo tường! Kẻ nào trèo tường giết không tha! Có nghe rõ không, kẻ nào trèo tường giết không tha!”

    Nghe bọn họ uy hiếp, cha đứa bé cũng hô lớn: “Ta không có ác ý! Ta chỉ muốn đưa con đi xem bệnh, sẽ không làm gì hết!” Vừa hô vừa tiếp tục trèo lên trên. Một gã tướng quân vốn đang dùng cơm, vừa hay tin này thì nổi cơn tam bành. Nếu hắn ta trèo lên bình yên vô sự, mở ra tiền lệ đó, thế chẳng phải sau này sẽ có vô số người Vĩnh An noi theo? Nhất định phải cản lại! Thế là gã sải bước dài, đứng bên bờ tường rống xuống dưới: “Ngươi không muốn sống nữa sao! Lập tức xuống ngay, nếu còn không xuống chúng ta không tha cho ngươi đâu!”

    Mà người đàn ông nọ đã trèo đến nơi rất cao, qua được hơn phân nửa, cố thêm một chút là lên tới rồi, tất nhiên không chịu dừng lại. Xưa nay trong quân doanh, gã tướng quân kia luôn nói một là không có hai, chẳng ai dám trái lệnh của gã, ai dám trái lệnh thì đơn giản thôi. Gã đi tới bên tường, rút kiếm ra chém một nhát, sợi dây thừng đứt phựt.

    Người đàn ông nọ nắm sợi dây thừng bị chém đứt, rơi xuống từ lưng chừng không trung. Giữa tiếng thét chói tai của vô số người, ngã phịch xuống nền đất cứng ngoài cổng thành.

    Tạ Liên xuất hiện ngay sau đó.

    Người đàn ông nọ ngã đưa lưng xuống đất, mà lưng hắn còn cõng đứa bé. “Đùng” một tiếng, đứa bé bị ép thành một bãi thịt vụn nát bấy, một đóa hoa máu bắn tóe ra mấy trượng. Cổ của cha nó cũng bẻ gãy, hai mắt trợn tròn, một lá bùa hộ mệnh trượt khỏi cần cổ méo lệch, chính giữa viết hai chữ “Tiên Lạc”, có hoa văn thêu bằng chỉ vàng, chính là bùa hộ mệnh khai quang lấy từ điện Thái Tử.

    Vào khoảnh khắc trước khi trèo lên, người đàn ông nọ và vợ mình từng nắm bùa hộ mệnh, lặng lẽ khẩn cầu Thái tử điện hạ phù hộ, thế nên Tạ Liên mới nghe được tiếng cầu nguyện của bọn họ mà đuổi tới nơi này.

    Tiếc rằng suy cho cùng, y nào phải những nhân vật chính anh hùng trong thoại bản* truyền kỳ, lần nào cũng có thể hiện thân vào đúng một khắc trước khi đao chém xuống, hô đao hạ lưu nhân trong khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc. Phụ nhân kia không đủ can đảm lật xác chồng lại xem con trai biến thành hình dạng gì, nàng bụm mặt gào to một tiếng, không nhìn mà lao thẳng về phía trước, đâm đầu vào tường, “cộp” một tiếng, ngã xuống không nhúc nhích nữa.

    *Thoại bản: hình thức tiểu thuyết Bạch thoại phát triển từ thời Tống, chủ yếu kể chuyện lịch sử và đời sống xã hội đương thời, thường được dùng làm cốt truyện cho các nghệ nhân sau này. (theo vndic)

    Ngay trước mắt Tạ Liên, dưới bức tường hoàng thành, chỉ trong nháy mắt đã có thêm ba thi thể!

    Y còn chưa kịp phản ứng, dân chúng ngoài cổng thành đã không chịu nổi nữa.

    Có người bắt đầu mắng: “Chết cả rồi, một nhà ba người chết cả rồi! Nhìn đi, đây là tướng quân tốt phụng sự cho quốc vương bệ hạ của chúng ta đấy! Không cứu chúng ta, ngược lại còn ép chúng ta vào đường chết!”

    “Không cho chúng ta vào cũng không đưa người ra, bảo người ta phải làm sao đây? Ba mạng người máu me đầm đìa đang nhìn các ngươi đấy!”

    “Bảo rằng người Vĩnh An phải rút hết khỏi hoàng thành, thế tại sao những kẻ giàu có kia không rút chung luôn? Chúng ta không tiền không quyền thì đáng phải chờ chết phải không? Xem như ta đã nhìn rõ rồi!”

    “Không nhịn được nữa… thật sự không nhịn được nữa. Thuế cần thu hàng năm thu đâu có ít, lúc cứu trợ thiên tai bay đi đâu hết rồi?”

    “Thà đút tiền nuôi lũ sâu mọt đó xây miếu cho con mình chứ không cứu tế nạn dân, chỉ cho chút nước và lương khô rồi đuổi đi, coi chúng ta là gì chứ? Hôn quân, hôn quân!”

    Binh sĩ trên lầu cổng thành quát to bảo ngừng, tướng quân kia có tình thế nào mà chưa từng nhìn thấy, vì vậy chẳng để vào mắt. Tuy nhiên, tình hình đã mơ hồ vượt khỏi tầm kiểm soát. Hàng ngàn hàng vạn đôi tay căm phẫn đẩy cổng chính, có người còn dứt khoát dùng đầu hay thân mình mà tông, lần này không còn là kiến càng lay cây nữa.

    Cổng thành nhúc nhích, thậm chí cả tòa lầu cổng thành cũng lờ mờ rung chuyển!

    Từ khi sinh ra tới nay, Tạ Liên chưa bao giờ chứng kiến tình hình thế này. Nhân dân mà y nhìn thấy luôn thân thiết, hoà đồng, ấm no, đáng mến. Những người mặt mày méo xệch khóc la thảm thiết này, khiến y như lọt vào một thế giới hoàn toàn lạ lẫm, không khỏi sởn hết gai ốc. Ngay cả khi chạm trán yêu ma tà linh khủng bố nhất, y cũng chưa hề có cảm giac như thế. Đúng lúc này, trên lầu cổng thành trruyền đến một tiếng gầm giận dữ.

    Tạ Liên quay phắt đầu lại, chỉ thấy một bóng người cao gầy bóp cổ gã tướng quân khi nãy chém đứt dây thừng khiến cho ba người dưới tường thành bỏ mạng, “rắc” một tiếng giòn vang, bẻ gãy cổ của gã.

    Đám binh sĩ cũng không biết người này đột ngột xuất hiện thế nào, cả bọn sợ mất mật, gào thét cầm kiếm vây tới: “Kẻ nào đấy?!” “Ngươi lên đây bằng cách nào?!”

    Tạ Liên lại nhanh chóng chú ý đến tay đối phương, đôi tay ấy đã máu thịt lẫn lộn. Người này thế mà lại dùng một đôi tay bằng xương bằng thịt, bấu vào tường thành gần như không có kẽ hở trèo lên trên. Mà khi bóng người kia quay lại, quả nhiên là Lang Anh!

    Lang Anh bị binh sĩ bao vây chẳng hề suy suyển, lật tường chắn mái ném thi thể của gã tướng quân kia xuống lầu cổng thành, còn mình thì giẫm lên thi thể đó, xem nó như bàn đạp giảm xóc, nhảy xuống.

    Một khắc trước khi nhảy xuống, hắn nhìn thẳng về phía Tạ Liên, nhưng không phải nhìn Tạ Liên, mà là xuyên qua Tạ Liên, nhìn hoàng cung tọa lạc tại chính giữa hoàng thành.

    Kể từ hôm đó, nước Tiên Lạc chìm sâu vào hỗn loạn.

    Chương 77: Tiên Lạc loạn, Thái tử trở về nhân gian

    Dựa vào đám dân tị nạn Vĩnh An lang thang lưu lạc này, muốn đối đầu với quân đội hoàng thành Tiên Lạc, chẳng khác nào lấy trứng chọi đá, châu chấu đá xe.

    Song, những người đã không còn đường lui sẽ có can đảm lấy trứng chọi đá, châu chấu đá xe. Sau một hồi hỗn loạn, cuối cùng mấy chục ngàn người Vĩnh An cũng rời khỏi cổng thành, rút lui cách ra một khoảng, chuyển nơi dựng trại đóng quân.

    Bọn họ nhất định không chịu đi. Biết đâu chừng sẽ bỏ mạng dọc đường, lằng nhằng ở đây nói chung cũng phải chết, có gì khác đâu? Nhờ vào nước và lương thực quốc vương phát cho trước đó, cùng với vỏ cây, cỏ dại, rễ cây, sâu rắn chuột kiến hoang dã, và cả oán hận lẫn không cam lòng tích tụ nhiều ngày qua, những người này liều chết chống chọi bằng sức sống kiên cường vượt xa tưởng tượng. Mấy ngày sau, hơn ngàn người vội vã tập hợp lại cầm cuốc, bừa, đá, cành cây, quay trở lại đánh một trận.

    Tuy trận này đánh bừa đánh loạn, thua đến thảm thương, hơn một ngàn người mà thương vong quá nửa, nhưng không phải không có thu hoạch gì. Một mình Lang Anh xông vào lầu cổng thành, khiêng được vài bao lương thực và mấy bọc binh khí, mặc dù bị thương nghiêm trọng, nhưng trái lại đã khơi dậy ý chí chiến đấu của đám quần chúng liều mạng.

    Lúc này, tính chất của bọn họ đã tiến gần hơn tới hai chữ “giặc cướp”. Một lần, hai lần, rồi ba lần, các binh sĩ Tiên Lạc phát hiện, đám “giặc cướp” này tiến bộ rất nhanh.

    Đám người tập kích loạn xạ không hề có kinh nghiệm ban đầu dần dần mò ra đường lối, kẻ tới mỗi lần một khó giải quyết hơn, kẻ về được cũng ngày càng nhiều hơn, còn có một làn sóng dân tị nạn mới nghe tin ùn ùn kéo đến gia nhập, mở rộng đội ngũ của bọn họ. Vì chuyện làm sao giải quyết đám “giặc cướp” này, nội bộ nước Tiên Lạc cãi nhau đến long trời lở đất, mà sau khi những cuộc xung đột hoang đường thế này diễn ra năm sáu lượt, Tạ Liên chẳng thể đứng ngoài bàng quan được nữa.

    Đã nhiều ngày y không lên Thượng thiên đình báo danh, lần này vừa về Tiên kinh, y lặng thinh chạy thẳng vào điện Thần Võ. Lúc xông vào, Quân Ngô đang ngồi trên vị trí cao nhất, các thần quan đều cúi đầu nghe lệnh, dường như đang bàn bạc việc quan trọng. Nếu như trước đây, Tạ Liên sẽ chọn ngày khác ghé thăm, nhưng hôm nay y không chờ nổi nữa, không quanh co lòng vòng mà mở miệng nói thẳng: “Đế Quân, ta muốn trở về nhân gian.”

    Các thần quan đều kinh ngạc, sau đó che miệng không thốt câu nào, không muốn để lộ quá nhiều cảm xúc. Quân Ngô nghĩ ngợi giây lát rồi đứng dậy khỏi bảo tọa, ôn tồn nói: “Tiên Lạc, ta cũng biết đại khái đã xảy ra chuyện gì, nhưng ngươi bình tĩnh lại trước đã.”

    Tạ Liên đáp: “Đế Quân, ta đến đây không phải để hỏi ý kiến, mà là để thông báo. Con dân của ta đang rơi vào cảnh nước sôi lửa bỏng, xin thứ cho ta không thể bình tĩnh được.”

    Quân Ngô lên tiếng: “Chuyện đời tự có định số. Ngươi phải biết, một khi ngươi xuống, sẽ phạm vào lệnh cấm.”

    Tạ Liên đáp: “Phạm vào lệnh cấm thì cứ phạm vào lệnh cấm!”

    Nghe vậy, các thần quan đều biến sắc. Quả thật xưa giờ chưa từng có vị thần quan nào dám hùng hồn dõng dạc thốt ra mấy câu như thế. Cho dù Quân Ngô có ưu ái vị Thái tử Tiên Lạc tuổi còn trẻ đã phi thăng này đến đâu, y cũng hơi to gan quá rồi.

    Kế đó, Tạ Liên khom người cúi đầu, nói: “Xin người mở một con đường, cho ta chút thời gian. Nay đã khai chiến, thương vong là không thể tránh khỏi, nhưng nếu ta có thể dẹp yên cuộc chiến này, giảm số người chết đến mức thấp nhất, khống chế sự việc trong phạm vi nhỏ nhất, sau khi cuộc chiến kết thúc, ta nhất định sẽ tự nguyện trở về xin trị tội, đến lúc đó tùy người xử trí. Bất kể có đè ta dưới núi một trăm năm, một ngàn năm, một vạn năm! Ta tuyệt đối không hối hận!”

    Nói đoạn, y giữ nguyên tư thế cúi đầu, lui ra ngoài điện. Quân Ngô gọi: “Tiên Lạc!”

    Bước chân Tạ Liên khựng lại. Quân Ngô nhìn y, thở dài: “Ngươi không cứu được tất cả mọi người đâu.”

    Tạ Liên chậm rãi đứng thẳng lên, nói: “Có cứu được tất cả mọi người không, ta phải thử mới biết được đáp án. Cho dù trời nói ta nhất định phải chết, nhưng nếu thanh kiếm kia không xuyên qua tim ta, ghim chặt ta dưới đất không nhúc nhích nổi, ta vẫn sẽ sống sót, ta sẽ níu một hơi tàn, đấu tranh đến cùng!”

    Lần này trở lại nhân gian, khác hẳn những lần trước đây. Tạ Liên cảm thấy có thứ gì đó đã bị ném mất. Có chút nhẹ nhõm, lại có chút nặng nề. Bước đầu tiên, y vội vã trở về hoàng cung trước.

    Quốc vương và hoàng hậu ở phía sau ngự thư phòng, nét mặt âu sầu mỏi mệt, nhỏ giọng trò chuyện với nhau. Tạ Liên đi tới ngoài cửa, căng thẳng giây lát rồi bình ổn cảm xúc, vén rèm lên, bước vào trong, cất tiếng gọi: “Phụ hoàng.”

    Quốc vương và hoàng hậu đồng thời quay đầu lại, cả hai đều sững sờ. Trong khoảnh khắc, vẫn là hoàng hậu đứng dậy trước, mừng rỡ nói: “Hoàng nhi!”

    Bà chìa hai tay bước qua đón con, Tạ Liên đỡ lấy bà. Song nụ cười còn chưa kịp tắt, chợt thấy quốc vương sầm mặt hỏi: “Con xuống đây làm gì!”

    Nụ cười bên môi Tạ Liên cứng đờ.

    Trước đó nghe được cha mẹ ngầm nói chuyện trong hoàng cung, Tạ Liên cảm thấy cha mình vẫn nhớ thương mình chứ không hề có nhiều ý kiến với mình như ông thể hiện mặt ngoài. Cứ ngỡ mình trở về, ít nhiều gì quốc vương cũng sẽ tỏ chút vui mừng, nếu vậy chắc chắn mình cũng sẽ tỏ thái độ mềm mỏng hòa thuận. Nào ngờ quốc vương lại phản ứng như vậy, sắc mặt không hài lòng chút nào, thế là Tạ Liên cũng nổi nóng, nghiêm giọng hỏi: “Sao con lại xuống ư, còn không phải đều vì người sao? Vĩnh An loạn lạc như hôm nay, người tự hỏi lòng xem có phải mình cũng gánh trách nhiệm nhất định không?”

    Sắc mặt quốc vương biến đổi, lạnh lùng hỏi: “Trách nhiệm của ta? Đây là lời con nên nói với ta sao?!”

    Không ngờ ông giận đến mức không chú ý đến việc tự xưng. Hoàng hậu rơi nước mắt nói: “Đã ra nông nỗi này rồi, hai người còn muốn tranh cãi nữa sao?”

    Tạ Liên đáp: “Không phải tranh cãi, mà là nói lý lẽ. Cho dù người là quốc vương, là phụ hoàng của con, nhưng nếu người có trách nhiệm, sao con không được nói chứ? Tại sao không dốc sức cứu trợ thiên tai? Cứ cho là tiền cứu trợ bị ngốn ở từng tầng, vậy tại sao không trừng trị lũ tham quan ô lại đó? Nếu người nghiêm trị mạnh tay, bắt kẻ nào xử kẻ nấy, làm gì còn sâu mọt nào dám tham ô nữa, chẳng lẽ tình hình không tốt hơn hiện tại sao?”

    Trán nổi gân xanh, quốc vương đập bàn quát: “Im miệng! Con tưởng quốc khố là cái động không đáy, hổng bao nhiêu lấp bấy nhiêu sao? Lại còn bắt kẻ nào xử kẻ nấy, nếu dễ dàng như thế, nhờ một tiếng ra lệnh của vua là thế như vũ bão hiệu quả tức thời, thì tại sao tham quan trong các triều đại chưa từng bị diệt tận gốc chứ? Con thì hiểu cái gì, trẻ con ngu dốt, còn muốn bàn chuyện trị quốc với ta!”

    Tạ Liên nói: “Được, con không hiểu. Vậy cho dù hoàng thành không còn chốn dung thân cho dân tị nạn, rút đi là lẽ tất yếu, nhưng vì sao người không cấp thêm lộ phí cho dân tị nạn? Tại sao không trấn an lòng họ, phái quân đội hộ tống họ về phía Đông?”

    Quốc vương trợn tròn mắt, chỉ tay lên trời mắng: “Cút! Cút mau! Cút về trời của con đi! Thấy con là phiền rồi! Không được phép xuất hiện nữa!”
    Tạ Liên mang lòng nhiệt huyết giáng trần, vừa gặp cha mẹ lần đầu đã nghe cha bảo muốn mình cút về trời, y không hé răng nói câu nào, khom người với cha rồi lui xuống. Hoàng hậu đuổi theo kéo y lại, gọi: “Hoàng nhi à!”

    Tạ Liên dịu giọng nói: “Mẫu hậu, người đừng lo lắng, con chỉ đi quanh vương đô xem xét tình hình hiện tại thôi.”

    Hoàng hậu lắc đầu giảng giải: “Hoàng nhi, mẹ không hiểu mấy chuyện quốc gia đại sự, nhưng mẹ hiểu phụ hoàng của con. Ông ấy làm quốc vương thế nào, bao nhiêu năm qua, mẹ nhìn thấy mà. Có thể lòng con cảm thấy ông ấy làm không tốt, đôi lúc mẹ cũng thấy vậy, chỉ là mẹ không nói thôi. Nhưng con đừng nói ngay mặt ông ấy như thế, dù sao ông ấy cũng là phụ hoàng của con. Con nói thẳng mặt rằng ông ấy không dốc sức, vậy thì nặng lời quá.”

    Tạ Liên muốn nói lại thôi. Hoàng hậu tiếp tục nói: “Tuy con là Thái tử, nhưng chưa từng làm quốc vương bao giờ. Trị quốc không giống như con tu đạo. Lúc con mới vào Hoàng Cực quán, quốc sư đã từng nói, tu đạo chỉ quan tâm đến “bản tâm” (tâm của mỗi người), nói vậy đúng chứ?”

    Tạ Liên chậm rãi gật đầu, hoàng hậu nắm tay y, nói: “Nhưng còn nhiều việc khác trên đời, chỉ dốc sức thôi cũng vô dụng, con còn phải có năng lực. Chẳng những con cần có năng lực, thuộc hạ dưới trướng con cũng phải có năng lực, năng lực thôi vẫn chưa đủ, còn phải đồng lòng với con nữa.”

    Tạ Liên im lặng không đáp. Hồi lâu sau, y hỏi: “Có phải quốc khố cạn kiệt lắm rồi không? Con không cần miếu thờ, bảo ông ấy đừng xây cho con nhiều miếu như vậy, dẹp hết đống tượng vàng đó đi.”

    Hoàng hậu nói bằng giọng bất đắc dĩ: “Thằng nhóc này… xây miếu tất nhiên có tâm ý riêng của phụ hoàng con, muốn cho con những gì tốt đẹp, muốn con trên trời được nở mày nở mặt. Nhưng con có biết, trong tám ngàn đạo quán, rốt cuộc có bao nhiêu tòa thật sự do phụ hoàng con xây không? Chắc con không biết đâu.”

    Đúng là Tạ Liên không biết thật. Y nghĩ ngợi rồi trả lời: “… Một nửa ư?”

    Hoàng hậu đáp: “Nếu phụ hoàng con thật sự dùng tiền trong quốc khố xây bốn ngàn điện Thái Tử, không cần chờ dân Vĩnh An nổi loạn, hoàng thành đã loạn trước rồi. Nếu quốc khố rỗng tuếch, lấy đâu ra tiền xây nhiều như thế? Phụ hoàng con chỉ xây hơn hai mươi tòa thôi, người khác học theo ông ấy, cũng xây theo phong trào, muốn lấy lòng ông ấy, lấy lòng con, cái này cũng đổ lên đầu phụ hoàng con sao?”

    Tạ Liên ngập ngừng: “Con…”

    Hoàng hậu nói khẽ: “Đúng là phụ hoàng con làm chưa đủ tốt, nhưng ông ấy đã… cố hết sức rồi. Có điều chuyện trên đời này, chỉ cố hết sức thôi là chưa đủ.”

    Ngưng một lát, bà nói tiếp: “Bây giờ con thấy những người Vĩnh An đó đáng thương nên trách cứ phụ hoàng con. Nhưng tất cả đều là con dân của ông ấy, lẽ nào toàn là chúng ta ức hiếp họ sao? Thật ra…”

    Nói được nửa chừng, quốc vương trong ngự thư phòng giận dữ quát lên: “Nàng nói nhảm với nó nhiều như thế làm gì, bảo nó mau biến về trời đi!”

    Hoàng hậu quay đầu, thở dài: “Hoàng nhi, con… con đừng xuống nữa. Con nên về đi thôi.”

    Rời khỏi hoàng cung, Tạ Liên đi men theo một con hẻm nhỏ bên đường Thần Võ, đúng lúc Phong Tín và Mộ Tình chạy tới. Mộ Tình vừa đến đã hỏi bằng giọng không thể tin nổi: “Điện hạ! Huynh tự xin hạ phàm ư? Huynh tới điện Thần Võ nói với Đế Quân rồi sao??”

    Tạ Liên đáp: “Ừ.”

    Mộ Tình hỏi: “Tại sao không nói trước với ta một tiếng?”

    Phong Tín thấy khó hiểu: “Ngươi có ý gì. Điện hạ muốn làm gì còn phải khai báo với người khác sao?”

    Mộ Tình có chút thất lễ, nói: “Tại sao lại không? Chúng ta là người của huynh ấy mà, bây giờ chúng ta buộc chung một chỗ với huynh ấy, mọi cử chỉ của huynh ấy đều gắn chặt với tình cảnh của chúng ta, ta muốn biết huynh ấy định làm gì thì sai chỗ nào?”

    Phong Tín hỏi vặn lại: “Điện hạ làm gì chúng ta đều phải theo cơ mà? Huynh ấy muốn làm gì, lên trời hay xuống đất, huynh ấy có chủ kiến của riêng mình, ngươi đang sợ gì chứ?”

    “Ngươi!” Mộ Tình đáp: “Không phải ta sợ! Chỉ là ta…”

    Tạ Liên xua tay: “Đủ rồi. Đừng cãi nhau nữa!”

    Phong Tín và Mộ Tình tức thì im miệng. Lúc này, một đội ngũ diễu hành ngang qua đường lớn, hàng trăm hàng ngàn bách tính cao giọng hò hét: “Vĩnh An chưa diệt, nước không ngày yên!”

    “Ung nhọt quấy loạn đất nước, ức hiếp người quá đáng!”

    Người Tiên Lạc chưa từng công kích thứ gì mạnh mẽ đến thế, còn diễu hành sôi nổi rầm rộ, Tạ Liên không khỏi thấy lạ. Phong Tín lại cau mày hỏi: “Sao trong kia lại có cả phụ nữ vậy?”

    Quả đúng là thế, trong đội ngũ diễu hành, một thiếu nữ xông lên ngay hàng đầu tiên. Thân hình thiếu nữ nhỏ gầy, da trắng như tuyết, mắt sáng đen láy, gò má ửng hồng, nhưng không phải xấu hổ mà là giận dữ, vô cùng gây chú ý. Lúc này Mộ Tình đã bình ổn cảm xúc, lạnh nhạt hỏi: “Điện hạ không nhận ra nàng sao?”

    Tạ Liên đáp: “Không nhận ra.”

    Phong Tín lại cau mày hỏi: “Hình như hơi quen mắt thì phải?”

    Mộ Tình trả lời: “Đó là một trong những ngọn nguồn.”

    Tạ Liên hỏi: “Ngọn nguồn gì cơ?”

    Mộ Tình đáp: “Ngọn nguồn của cái không đội trời chung. Trước đó do người Vĩnh An trong hoàng thành mỗi lúc một đông, có người không chung sống đàng hoàng, lén lút gây sự khắp nơi, trong triều còn đang bàn bạc việc trục xuất, tin đồn đã sớm truyền ra ngoài. Có một người Vĩnh An muốn ở lại, không muốn đi, đâm ra bí quá hóa liều, trong một đêm nọ, gã lẻn vào nhà một người giàu bắt cóc con gái nhà đó đi.”

    Mộ Tình nói vậy, Tạ Liên nghe sơ vẫn chưa hiểu lắm: “Không muốn đi sao lại bắt cóc con gái một nhà giàu?”

    Mộ Tình đưa mắt nhìn y, đáp: “Muốn cưới cô gái đó. Nhưng nếu không cưỡng ép bắt cóc, sẽ chẳng có con gái nhà nào trong hoàng thành chịu gả cho người Vĩnh An.”

    Tuy Mộ Tình không nói rõ, Tạ Liên cũng đã hiểu rồi.

    Y chưa từng nghĩ rằng lại có thể như vậy, hóa ra trên đời này cũng có loại người đó, hóa ra cũng xảy ra loại chuyện đó, đột nhiên trào lên xung động muốn nôn mửa. Phong Tín mắng ngay tại chỗ: “Gớm quá!”

    Lúc này, một đám bà cô vội vã chạy lên, khom lưng định kéo thiếu nữ kia xuống, xem ra nàng ta thừa dịp người nhà không chú ý tự mình chạy ra ngoài. Thiếu nữ không nghe, la hét: “Sợ cái gì! Ta có gì phải xấu hổ chứ? Có phải lỗi của ta đâu!”

    Phong Tín ngạc nhiên nói: “Tính tình của nha đầu này dữ dội thật.”

    Mộ Tình kể: “Đúng vậy. Vốn dĩ nhà nàng đâu phải nhà tầm thường, cha nàng là trọng thần trong triều, nhà mẹ là thương gia giàu có trong hoàng thành, không nuốt được vụ thiệt thòi này, càng không thể vì mặt mũi mà lấy chồng. Trước tiên đánh chết người Vĩnh An đó, không lâu sau, những thương gia giàu có và nhân vật tiếng tăm trong toàn thành ký vào một lá thư, liệt kê tội trạng của những người Vĩnh An vào thành từ trước đến nay, khẩn cầu quốc vương bệ hạ nhốt tất cả những người này vào đại lao, nghiêm trị không tha. Lập trường của các đại thần ra sao, chắc không cần phải nói nữa.”

    Ngừng một lát, Mộ Tình hời hợt nói tiếp: “Nghe nói cha của cô gái này từng muốn đưa nàng vào cung tranh ngôi vị Thái tử phi, ắt hẳn điện hạ phải gặp nàng vài lần từ lâu rồi chứ, sao lại không nhận ra.”

    Cuối cùng Tạ Liên cũng phát hiện, tất cả mọi việc phức tạp hơn so với mình tưởng tượng nhiều.

    Trong và ngoài thành, sớm đã không đội trời chung. Thần dân kích động căm phẫn, chỉ hận không thể tóm gọn một mẻ, đuổi cùng giết tuyệt, nếu sách lược của quốc vương nghiêng về phía người Vĩnh An, vậy khác nào đang tự tát vào mặt người bên mình? Quyết định cuối cùng là phát một khoản lộ phí từ quốc khố cạn kiệt cho bọn họ rút khỏi, tuy nhìn thì có vẻ khó coi, nhưng e rằng vẫn sẽ rước thêm bất mãn từ số đông.

    Thứ đáng sợ hơn sự bất mãn của kẻ địch, chính là sự bất mãn của thần dân mà mình đang trị vì. Tuy nói tất cả vốn dĩ đều là thần dân Tiên Lạc, nhưng hiện tại chỉ e chẳng còn mấy ai nhận định như vậy nữa.

    Y ngồi tít trên cao, đã lâu không biết chuyện nhân gian, mà cha y vẫn còn ở nhân gian. Là vua của một nước, muốn dùng tiền, muốn dùng người, vị trí đang đứng, áp lực phải gánh, băn khoăn cần có cùng với người lẫn việc phải dàn xếp, sao có thể giống như y được? Cũng như người Vĩnh An từ bên ngoài tới hoàng thành chiếm đất, náo loạn trộm cắp này kia, với một vị Võ Thần trong miếu mà nói, chung quy cũng chỉ là chuyện nhỏ, không đáng nổi giận vì nó, nhịn một chút là qua. Nhưng với dân chúng trong hoàng thành, đó lại là hiện thực, ngày ngày xua mãi không đi, là sự giày vò khó dung thứ, là mối nguy hại có khả năng bùng nổ vào bất cứ lúc nào. Cảm thấy đơn giản hoặc không đáng kể, chẳng qua vì người đứng trong vị trí đó không phải y mà thôi.

    Tạ Liên không khỏi nghĩ đến hai bên tóc mai của quốc vương đã bạc hơn nhiều so với lần trước gặp mặt. Lần trước bảo rằng muốn nhuộm, e là sau đó không còn sức đi nhuộm nữa.

    Thuở còn bé, y tin chắc rằng cha mình là bậc quân vương vĩ đại nhất trên đời này, càng lớn càng nhận ra không phải là như thế. Tuy cha y là quốc vương, nhưng chưa thể tính là anh minh vô song, đôi lúc còn hơi bảo thủ, thường phạm sai lầm, bỏ đi thân phận hết sức cao quý đó thì chỉ là một người phàm tục thôi.

    Càng hiểu rõ lại càng thất vọng, quốc vương phát hiện sự thất vọng của y nên càng lúc càng không thể khoan nhượng cho từng ánh mắt không tán đồng, từng lời không chấp nhận của y, và điều khó mà khoan nhượng nhất, để y nhìn thấy sự thất bại của mình.

    Trên đời này, không có người cha nào hy vọng con trai nhìn thấy mặt thất bại của mình. Người cha nào cũng hy vọng rằng, trước mặt con cái, mình mãi mãi luôn là người vĩ đại. Mà Tạ Liên xuất hiện ngay lúc đó như trách mắng cha mình: Cha làm quá tệ! Tệ đến mức con buộc phải xuống đây giúp cha cứu vãn tình hình. Bất luận với tư cách của một quốc vương hay một người cha, nghe được lời này, trong lòng làm sao dễ chịu được?

    Rốt cuộc thiếu nữ kia cũng bị mấy tì nữ trong nhà ba chân bốn cẳng lôi trở về, số bách tính còn lại vẫn tiếp tục diễu hành, phất cờ hò hét, chẳng hét gì ngoài một việc: Giết! Khai chiến! Cho đám người Vĩnh An ngoài thành biết mặt!

    Hồi lâu sau, Mộ Tình lên tiếng: “Điện hạ, huynh vẫn nên xin lỗi Đế Quân rồi trở về đi thôi. Việc đã đến nước này, thiên thời, địa lợi, nhân hòa, mất hết cả rồi.”

    Cũng giống như những lời Quân Ngô nói với y trên điện Thần Võ: Chuyện đời tự có định số. Câu nói này, há chẳng phải đang nói cho y biết: Vận mệnh nước Tiên Lạc của ngươi đã tận, mặc kệ nó đi.

    Ngay cả hoàng hậu, mẹ của y, ngày nhớ đêm mong, chỉ trông ngóng được gặp y, nhưng đến lúc gặp được rồi lại rưng rưng nước mắt bảo y trở về, đừng quản nữa. Làm sao Tạ Liên lại không biết, cha mẹ không muốn mình phải đối mặt với cửa ải khó khăn này, thà rằng mình đứng ngoài bàng quan, tự lo cho mình là được rồi.

    Nhưng mà, sao có thể như vậy được?

    “……”

    Tạ Liên trầm giọng nói: “Sẽ không đâu!”

    Dứt lời, y sải bước ra ngoài.

    Thuộc truyện: Thiên quan tứ phúc