Thiên quan tứ phúc – Chương 89-98

    Thuộc truyện: Thiên quan tứ phúc

    Chương 89: Bách vô cấm kỵ – đêm trung thu xem tiệc đấu đèn

    “Keng!”

    Tia lửa tóe lên.

    Lưỡi kiếm cắm sâu vào đất đá, Tạ Liên cầm kiếm bằng hai tay, cúi đầu áp sát trán vào chuôi kiếm, răng như sắp bị mình cắn nát trong khoang miệng.

    “Đồ vô dụng!”

    Thích Dung cười ha ha “Cái đồ vô dụng này! Ta biết ngay huynh không dám giết ta mà! Cho dù ta sỉ nhục huynh thế nào, hành hạ huynh đến chết ra sao, chỉ cần ta kề đao lên cổ người khác, huynh sẽ không làm gì được ta. Đồ hèn nhát vô dụng, làm thần mà như huynh thì còn sống làm gì!”

    Thế nhưng, Tạ Liên đã hoàn toàn tỉnh táo lại. Y ngẩng đầu, ánh mắt lạnh buốt “Ngươi đừng vui mừng quá sớm. Ta không làm gì được ngươi, tự khắc sẽ có người làm được.”

    Thích Dung hứ một tiếng “Huynh lại định ôm đùi Đế Quân cầu xin gã phân xử cho huynh à? Thôi đừng mơ mộng nữa, năm đó người ta có để ý đến huynh không? Hả? Bây giờ còn mặt dày sáp lại gần gã, huynh ngu vừa thôi chứ.”

    Tạ Liên lột trang phục Duyệt Thần trang trọng hoa lệ khỏi người Thích Dung, gọi Nhược Da trói Thích Dung lại ném sang một bên, nói “Tốt nhất ngươi nên im miệng bớt nói vài câu đi.”

    Thích Dung hỏi “Ta lại chẳng sợ huynh, huynh lấy cái gì uy hiếp ta?”

    Tạ Liên nói “Vậy ngươi có sợ Hoa Thành không?”

    Rốt cuộc nụ cười của Thích Dung cũng cứng đờ giây lát. Trong giây lát đó, Tạ Liên nói khẽ “Ta nói trước cho ngươi biết, ngộ nhỡ lúc nào đó tâm trạng của ta không tốt, biết đâu chừng ta sẽ giao ngươi cho Hoa Thành, nhờ đệ ấy giúp ta nghĩ cách trị ngươi. Vậy nên ngươi liệu mà cẩn thận cho ta, nghe rõ chưa?”

    Nghe vậy, Thích Dung hết cười nổi. Gã hoảng sợ nói “Mẹ nó huynh thật độc ác! Mệt thân huynh nghĩ ra chiêu này đấy! Thôi thì huynh cứ giao ta cho Lang Thiên Thu đi!”

    Tạ Liên quỳ gối, bắt đầu dùng tay nhặt từng hạt thô ráp to nhỏ không đồng đều dưới nền đất và trong đáy quan tài. Thật ra tạm thời y sẽ không giao Thích Dung cho Thượng thiên đình, nguyên nhân là vì Lang Thiên Thu. Nếu giao nộp gã, Lang Thiên Thu biết được tung tích của Thích Dung tất sẽ giơ kiếm xông tới giết gã. Có nên để Lang Thiên Thu giết không? Đau đầu. Lỡ như giết rồi, bước tiếp theo sẽ ra sao? Lại đau đầu. Cho nên, trước mắt không thể giao Thích Dung cho Thượng thiên đình được.

    Vậy thì xem ra, đi tìm Hoa Thành giúp đỡ có vẻ là lựa chọn không tệ. Nhưng thành thật mà nói, Tạ Liên chỉ lấy Hoa Thành ra dọa Thích Dung thôi. Dù sao y cũng đã làm phiền Hoa Thành nhiều lần rồi, lần nào có chuyện gì cũng nghĩ đến Hoa Thành đầu tiên, cứ cảm thấy mình gần gũi người ta quá. Chỉ mỗi việc bây giờ lôi Hoa Thành ra hù dọa Thích Dung, Tạ Liên đã thấy hơi ngượng ngùng.

    Thích Dung quay đầu, nhổ một bãi nước miếng lẫn máu sang hướng khác, đứa bé tội nghiệp kia đưa tay sờ trán gã, hỏi “Cha ơi, cha có sao không? Có phải cha bị đánh đau lắm không?”

    Thích Dung có vẻ rất thích thú hưởng thụ trò chơi cha con này, gã đáp bằng giọng quái gở “Con trai ngoan~ Cha không sao~ Ha ha ha.”

    Hốc mắt đỏ hoe, Tạ Liên nhặt đống bột vụn kia lên, cẩn thận cất vào trong trang phục Duyệt Thần. Đứa bé lặng lẽ bò qua, giúp Tạ Liên nhặt một ít. Thấy đôi tay nhỏ nhắn của nó, Tạ Liên ngẩng đầu lên nhìn, đứa bé nói nhỏ “Ca ca ơi, huynh đừng đánh cha con nữa không, thả bọn con đi đi. Bọn con không đến nhà huynh trộm đồ nữa đâu.”

    Tạ Liên cố dằn nỗi xót xa trong lòng, hỏi “Bạn nhỏ, con tên gì?”

    Đứa bé đáp “Con tên Cốc Tử.”

    Tạ Liên gom đủ tất cả tro cốt, bọc trong quần áo, gấp gọn gàng đặt trở vào quan tài, đóng nắp lại rồi mới ôn tồn nói “Cốc Tử, kẻ đó không phải là cha con, là một người khác, cha con bị quỷ nhập rồi, bây giờ là một kẻ xấu.”

    Đứa bé không hiểu được lời y nói, ngơ ngác hỏi “Người khác ạ? Đâu phải đâu, con nhận ra mà, đó là cha con.”

    Thích Dung khen ngợi “Tốt lắm tốt lắm, đáng giá quá cơ, nhặt được một thằng con hời! Ha ha ha… Á!” Tạ Liên đá gã một cú.

    Cốc Tử tuổi còn nhỏ, vẫn luôn sống nương tựa vào cha, hết mực ỷ lại vào cơ thể mà Thích Dung đã nhập, nói sao cũng không chịu tách rời. Tạ Liên nhất thời nghĩ không ra nên thu xếp cho nó thế nào, chỉ đành vác kiếm Phương Tâm, trịnh trọng dập đầu ba cái trước quan tài, sau đó tay trái xốc Thích Dung, tay phải ôm Cốc Tử, rời khỏi núi Thái Thương, phóng về thôn Bồ Tề nhanh như chớp.

    Đi xa nhiều ngày, lúc về đến nơi đang là đêm khuya, cửa Bồ Tề quán mở toang, nhang khói cuồn cuộn, lư hương trên bàn thờ cắm đầy nhang, trên bàn cũng chất chồng đồ cúng. Tạ Liên bước vào cửa, tùy tiện nhìn xung quanh, thuận tay lấy hai cái bánh bao trên bàn thờ, một cái đưa cho Cốc Tử, một cái thô bạo nhét vào mồm Thích Dung. Dù sao cơ thể này vẫn là người sống, trước khi Tạ Liên nghiên cứu ra cách lôi Thích Dung khỏi thân xác người này, nói sao cũng phải cho ăn uống tử tế. Thích Dung phun bánh bao ra, mắng to là khó nuốt, rồi lại có vẻ không yên tâm, hỏi: “Huynh nói đi! Chắc huynh sẽ không giao ta cho Hoa Thành thật đâu nhỉ??”

    Tạ Liên cười lạnh “Ngươi sợ lắm à?” Chẳng muốn nghe mấy lời nói nhảm của gã, Tạ Liên xoay người lục lọi đống hũ dưa muối dưới đất. Thích Dung mạnh miệng chống chế “Ta việc gì phải sợ, kẻ nên sợ là huynh đấy, thân là thần quan mà lại cấu kết làm bậy với loại Tuyệt này, huynh…” Đang nói dở, ánh mắt gã chợt khóa chặt ở một nơi. Hóa ra Tạ Liên vừa cúi người, một vật trượt ra từ lớp áo trước ngực y.

    Đó là một chiếc nhẫn trong suốt lấp lánh, thứ mà Thích Dung đang nhìn chòng chọc chính là nó.

    Tạ Liên không chú ý đến ánh mắt của gã, Thích Dung ở sau lưng y lại tỏ vẻ ngờ vực. Một lúc sau, gã hỏi “Thái tử biểu ca, thứ trước ngực huynh là gì thế??”

    Tạ Liên vốn không định ngó ngàng đến gã, nhưng chiếc nhẫn Thích Dung nhắc tới là vật mà y khá để tâm, y bèn xoay người lại, dùng ngón tay móc sợi dây bạc dài mảnh, nói “Cái này hả? Ngươi biết là cái gì không?”

    Thích Dung nói “Huynh đem qua đây đi, cho ta xem là ta biết ngay.”

    Tạ Liên lại trả lời “Biết thì nói, không nói thì im miệng.”

    Thích Dung hậm hực “Huynh toàn làm dữ với người quen, có bản lĩnh thì ra oai với người ngoài đi.”

    Tạ Liên nhét dây bạc vào trong ngực, đeo sát cạnh da thịt, đáp “Có bản lĩnh thì ngươi nói tiếp đi, nói một câu ta ghim một phần, cứ thêm một phần ngươi lại gần đao của Hoa Thành thêm một bước.”

    Trong vô thức, y lại dùng tên Hoa Thành một cách thuần thục. Thích Dung cười khẩy “Huynh bớt đem Hoa Thành ra dọa ta đi, biết đâu chừng ngày nào đó chính huynh sẽ chết dưới đao của ai đấy! Chẳng phải huynh muốn biết đó là thứ gì sao? Một trong Tứ hại ta đây nói cho huynh biết, đó là vật nguyền rủa, là vật chẳng lành! Còn không mau vứt đi, lại dám đeo nó trên người nữa chứ, có phải huynh ngại mình sống lâu quá không?”
    Nghe vậy, Tạ Liên chợt hiểu ra, đứng dậy hỏi “Thật sao?”

    Thích Dung đáp “Nói nhảm! Kẻ đưa cho huynh vật này, bất luận là quỷ hay người, chắc chắn không có ý tốt.”

    Tạ Liên lại ngồi xuống “Ồ.”

    Thích Dung “Ồ cái gì?!”

    Tạ Liên chẳng buồn ngoái đầu, hờ hững đáp “Ồ tức là lời của ngươi tin được mới là lạ. Ta lựa chọn tin tưởng người tặng ta vật này. Ta quyết định sẽ luôn đeo nó trên người.”

    Tạ Liên luôn nhã nhặn điềm đạm với người khác, riêng với Thích Dung thì vô cùng hà khắc. Thích Dung tức gần chết, chửi đổng luôn mồm, Tạ Liên chỉ vờ như không nghe thấy gì hết. Phát hiện lục mãi cũng không tìm được cái hũ đựng Bán Nguyệt, y nghĩ bụng “Lẽ nào Phong Sư tới đưa nàng đi rồi?”

    Nghe một hồi, Tạ Liên bỗng lờ mờ phát giác có gì đó không đúng.

    Quả là kỳ quặc. Rõ ràng Thích Dung sợ Hoa Thành muốn chết, sao còn dám lằng nhằng lải nhải kích động y, giống như đang… giống như đang dốc sức liều mạng thu hút sự chú ý của y vậy!

    Nghĩ đến đây, Tạ Liên bất ngờ đánh úp, đột ngột liếc sang nhìn Thích Dung, quả nhiên thấy mắt gã lập lòe, thậm thà thậm thụt. Một trực giác kỳ lạ thôi thúc Tạ Liên nhìn lên trên. Vừa ngẩng đầu lên, chỉ thấy trên xà nhà vốn không tính là cao, một người áo đen lưng kề sát nóc, ẩn nấp trên đó, hệt như một con dơi khổng lồ.

    Tạ Liên trở tay phóng kiếm Phương Tâm. Người nọ lưng áp sát xà nhà, vì tránh đường kiếm này mà dồn sức xoay người rồi rơi xuống.

    Cốc Tử bị dọa đến rớt cả bánh bao, khóc oa oa. Thích Dung đang định kêu la thì bị Nhược Da bịt miệng, kéo đến một góc trói chặt. Ban đầu Tạ Liên còn tưởng đây là trợ thủ mà Thích Dung cài vào, nhưng sau khi so nhanh vài chiêu, y chỉ cảm thấy người này ra tay vừa nhanh vừa mạnh, quen thuộc đến lạ. Y có thể khẳng định chắc chắn rằng, với đức hạnh của Thích Dung, tuyệt đối không có năng lực sai khiến được thuộc hạ có bản lĩnh thế này. Chợt thấy tay còn lại của người nọ ôm vật gì đó, nhìn kỹ lại, hóa ra là một cái hũ đen thùi, mà cái hũ đó chính là cái hũ đựng Bán Nguyệt!

    Phong Sư vẫn chưa đưa Bán Nguyệt đi à? Tạ Liên tức khắc nhớ ra người này là ai, buột miệng kêu lên “Tiểu Bùi!”

    Thì ra Bùi Túc đến cướp Bán Nguyệt, nào ngờ đúng lúc bị Tạ Liên trở về bắt gặp, đành núp trên xà nhà. Do bị Nhược Da Lăng trói, Thích Dung nằm dưới đất liếc mắt thấy ngay Bùi Túc ẩn náu phía trên, gã không biết là ai, chỉ cho rằng kẻ muốn gây bất lợi cho Tạ Liên là có lợi với mình. Sợ Tạ Liên phát hiện có người mai phục bên trên, gã cố ý lên tiếng quấy nhiễu không ngừng, ngờ đâu vẫn bị Tạ Liên phát hiện. Tạ Liên đeo hai cái gông nguyền rủa, Bùi Túc lại đang bị lưu đày, hai người đều không có pháp lực, vì vậy chỉ có thể liều mình đấu võ. Tám trăm năm qua Tạ Liên toàn liều mình đấu võ mà sống, Bùi Túc làm sao đỡ nổi. Sau mười mấy chiêu, Tạ Liên đã tóm được Bùi Túc, quát “Trả hũ đây!”

    Vốn dĩ y chỉ thuận miệng quát vậy thôi, không ngờ Bùi Túc lại ném trả hũ dưa muối cho y thật. Tạ Liên sửng sốt, nghĩ thầm sao bảo trả là trả ngay thế, Tiểu Bùi tướng quân đúng là dứt khoát, thông thường chẳng phải sẽ thà chết không chịu khuất phục, bám riết đến cùng sao? Chợt nghe Bùi Túc thấp giọng quát ngay lúc ném hũ qua “Đi mau!”

    Nghe giọng điệu của hắn, quả thật rất sốt sắng. Cái hũ trên không còn chưa rớt xuống, Tạ Liên đang định đưa tay đón lấy, nó bỗng dưng chuyển quỹ đạo, bay ra ngoài cửa sổ. Giây tiếp theo, bọn họ nghe được một giọng nam từ xa vọng tới “Ngươi thật sự khiến ta thất vọng.”

    Bùi Túc thình lình biến sắc, gọi “…Tướng quân!”

    Tạ Liên và Bùi Túc lao ra khỏi Bồ Tề quán. Quả nhiên, người đàn ông đứng trên một gian nhà phía xa chính là Bùi Minh. Hắn không mặc áo giáp, thân khoác thường phục, vóc người cao lớn, mặt mày sáng sủa, phong độ ngời ngời. Chiếc hũ bay chầm chậm đến cạnh Bùi Minh rồi lơ lửng không di chuyển nữa, Bùi Minh nâng bội kiếm bên hông, nói với Bùi Túc ở phía dưới “Nam tử hán đại trượng phu phải lấy đại cục làm trọng, lấy sự nghiệp làm đầu. Ngươi là kẻ phải làm việc lớn, hôm nay vậy là sao đây, vì một con nhóc mà làm xằng làm bậy? Ngươi tưởng mình là thằng ranh còn non tóc à?”

    Bùi Túc cúi đầu không đáp. Bùi Minh nói tiếp “Chỉ hai trăm năm đã leo lên được vị trí này, ngươi tưởng dễ lắm sao? Ta đã trải sẵn đường cho ngươi rồi, xuống thì dễ, lên thì khó đấy!”

    Cái gọi là ‘cao xứ bất thắng hàn’ (ở nơi cao không chịu nổi cái lạnh, hàm ý là địa vị càng cao càng cô độc). Hễ thần tiên hạ phàm, bình thường đều thích chọn chỗ cao mà đứng, càng cao càng tiện nhìn xuống chúng sinh bên dưới. Trước đây Tạ Liên cũng có tật xấu đó, dĩ nhiên sau khi té ngã một lần, bây giờ cứ đứng ở chỗ cao lại thấy chân đau âm ỉ, thế là bỏ tật này luôn. Tuy nhiên, tòa nhà cao nhất trong thôn Bồ Tề chính là nhà thôn trưởng, mà nhà thôn trưởng chỉ là nhà ngói nhỏ bình dị, vì vậy Bùi tướng quân đứng đó, phải nói là thiệt thòi quá rồi.

    Có điều đây không phải trọng điểm, trọng điểm là, Tạ Liên vừa nhìn tình hình là biết xảy ra chuyện gì ngay. Lần trước Bùi Minh có ý đồ lôi Bán Nguyệt ra gánh tội thay Bùi Túc, hòng đưa Bùi Túc trở lại. Tuy nhiên vì e ngại Quân Ngô, ngoài mặt Bùi Minh trông như đã bỏ qua, nhưng thật ra hắn chưa hề bỏ cuộc. Lần này Tạ Liên bị lật tẩy chuyện xấu tiệc Lưu Kim, thân mình còn lo chưa xong, thanh danh tất sẽ giảm mạnh, có lẽ Bùi tướng quân cho rằng đây là lúc để nhắc lại chuyện cũ, thế nên đến tìm Bùi Túc, định đưa Bùi Túc với Bán Nguyệt cùng lên Thượng thiên đình một chuyến, nghĩ cách lật lại bản án, phải nói là bẻ trăm lần không cong. Dù vậy, Bùi Túc có vẻ không hăng hái lắm, hắn thở dài, lên tiếng “Tướng quân, chuyện này vẫn nên… bỏ đi.”

    “Ngươi…!”

    Bùi Minh ra chiều im lặng hỏi trời xanh, chỉ tiếc rèn sắt không thành thép, cũng do quá sầu não nên mới không để ý Tạ Liên đang ở ngay trước mặt, cứ thế trách mắng Bùi Túc. Hồi lâu sau, Bùi Minh chợt lên tiếng “Ta muốn xem thử rốt cuộc là dạng kỳ nữ thế nào, khiến cho người mà ta dốc lòng cất nhắc buông tay phó mặc sự đời.” Dứt lời, Bùi Minh chìa tay, dường như muốn ném vỡ chiếc hũ. Cách mở hũ này vốn không thành vấn đề, nhưng vấn đề là không biết vết thương của Bán Nguyệt đã lành chưa, ngộ nhỡ chưa lành mà ném vỡ thì tiêu. Tạ Liên biến sắc, tung người định lao tới, quát “Đừng ném!”

    Chẳng ngờ tay Bùi Minh còn chưa chạm tới, chiếc hũ đã “xoảng” một tiếng, tự động nổ tung.

    Trong nháy mắt, mùi dưa muối khiến người ta ngộp thở bay khắp trời.

    Bùi Minh đứng gần chiếc hũ nhất xui xẻo hứng cả đống dưa muối, sững người giữa cơn mưa rau gió mặn. Ngay sau đó, một giọng nữ trong trẻo cất lên giữa không trung “Bùi tướng quân đúng là quang minh lỗi lạc gớm!”

    Một người mặc áo trắng lăn ra từ chiếc hũ nhỏ, ban đầu chỉ nhỏ như nắm tay, lăn vài vòng càng lăn càng lớn. Tạ Liên tập trung nhìn kỹ, không khỏi thốt lên “Phong Sư đại nhân!”

    Người trốn trong hũ dưa muối, chẳng ngờ không phải Bán Nguyệt mà là Sư Thanh Huyền. “Nàng” núp trong hũ thình lình phá nổ, bắn dưa muối đầy người Bùi Minh, còn mình thì vẫn áo trắng phần phật, không nhiễm bụi trần, an toàn tiếp đất, vẫy phất trần nói “May quá may quá, may là ta đã đưa cô nhóc đó đến chỗ người khác trước một bước, nếu không chỉ e chạy không thoát cánh tay dài của Bùi tướng quân.”

    Xưa nay Bùi Minh vẫn luôn tự khoe mình phong lưu, bất luận làm gì nhất định cũng phải có phong độ, bây giờ rơi vào cảnh mùi dưa muối đầy người, cho dù đang đối mặt với Sư Thanh Huyền phiên bản nữ, dẫu phong độ cỡ nào cũng khó tránh buồn bực “Thanh Huyền, ngươi cần gì phải đối nghịch với ta như thế?”

    Nếu là người khác, đoán chừng Bùi Minh đã đập te tua một trận từ lâu, tiếc rằng nghĩ đến lai lịch ca ca của Sư Thanh Huyền, hắn chỉ đành gạt sạch dưa muối, vuốt gọn tóc, nghiến răng một hồi rồi lắc đầu nói “…Ngươi đấy nhé, tốt nhất đừng để ta biết ngươi giấu con nhóc đó ở đâu, bằng không ta nhất định sẽ đích thân đến tận cửa thăm hỏi.”

    Câu này của Bùi Minh không khác gì đang nói, kẻ nào thu nhận Bán Nguyệt tức là đang đối nghịch với hắn, hắn nhất định sẽ gây khó dễ. Sư Thanh Huyền lại vỗ tay đáp “Không dám không dám, nói cho ngươi biết đưa đến đâu cũng được, chỉ sợ ngươi không dám đến thăm hỏi thôi. Nghe cho rõ đây, bây giờ cô nhóc đó đang ở động phủ Vũ Sư trên núi Vũ Long, nơi Vũ Sư đại nhân trấn tọa! Ngươi dám đến không?”

    Nghe vậy, sắc mặt Bùi Minh khẽ thay đổi, không còn mạnh miệng như ban nãy nữa. Hắn che giấu sắc mặt, đột nhiên nghiêm túc nói với Phong Sư “Thanh Huyền, bây giờ ngươi còn trẻ nên gặp chuyện gì cũng thích ra tay tương trợ. Chỉ mong sau này ngươi lớn rồi, hồi tưởng lại điệu bộ của mình hôm nay, đừng có mà hối hận!”

    Nói xong, Bùi Minh nhảy khỏi nóc nhà, thân hình biến mất, vội vã bỏ đi một nước. Tạ Liên hơi ngạc nhiên, cứ cảm thấy lời Bùi Minh nói còn ẩn ý, bèn hỏi “Phong Sư đại nhân, câu cuối cùng của hắn…?”

    Sư Thanh Huyền dửng dưng đáp “Phô trương thanh thế thôi.”

    Bùi Túc nhìn bóng lưng Bùi Minh biến mất, lúc này mới quay sang hành lễ với hai người “Phong Sư đại nhân, Thái tử điện hạ.”

    Sư Thanh Huyền vỗ vai hắn “Tiểu Bùi à, lần này ngươi biết tới trước để ngăn cản tướng quân nhà ngươi, xem như cũng phúc hậu. Ở dưới đây hối cải sửa sai cho tử tế, có cơ hội ta sẽ nói tốt cho ngươi trên Thượng thiên đình, yên tâm đi!”

    Im lặng giây lát, Bùi Túc mở miệng “Cảm ơn đại nhân. Có điều ta luôn cảm thấy, phải chăng ngài đã hiểu lầm gì đó, thật ra thường ngày Bùi tướng quân không phải thế này đâu, chỉ vì chuyện lúc trước nên mới lo lắng cho ta hơi quá thôi. Vả lại ngài cũng biết, Vũ Sư đại nhân…”

    Cuối cùng, dường như cảm thấy bản thân nhiều lời, Bùi Túc lắc đầu, chắp tay nói “Cáo từ.”

    Hai người đưa mắt tiễn hắn rời đi, Tạ Liên hỏi “Phong Sư đại nhân, Vũ Sư đại nhân mà vừa rồi ngươi nói là Vũ Sư Hoàng sao?”

    Sư Thanh Huyền xoay người nói “Đúng vậy. Vũ Sư đã mấy trăm năm không đổi rồi. Sao thế, huynh quen hả? Có giao tình xưa à?”

    Tạ Liên lắc đầu, dịu giọng đáp “Tuy chưa may mắn được diện kiến, nhưng vị Vũ Sư đại nhân này từng có ơn với ta, ta vô cùng cảm kích.”

    Sư Thanh Huyền cười nói “Vậy thì đúng rồi. Mặc dù những người quen biết Vũ Sư đại nhân rất ít, nhưng chỉ cần có quen thì chưa nghe ai nói Vũ Sư đại nhân không tốt. À, ngoại trừ Bùi Minh.”

    Tạ Liên hỏi “Giữa hai vị ấy có hiềm khích gì sao?”

    Sư Thanh Huyền trả lời “Dĩ nhiên là có hiềm khích rồi. Những người lăn lộn trên Thượng thiên đình nhiều năm, ai mà chưa từng có chút hiềm khích hay cấu kết. Ta nói huynh nghe, Vũ Sư đại nhân chính là nỗi ám ảnh trong lòng Bùi Minh đấy.”

    “……” Tạ Liên hỏi “Ám ảnh?” Lòng y vẫn luôn cho rằng Vũ Sư đại nhân là người làm ruộng.

    Sư Thanh Huyền nói “Huynh cũng biết Bùi Minh rồi, hậu duệ nhiều vô kể, đâu đâu cũng là con cháu của hắn. Trước Tiểu Bùi, điện Minh Quang từng có một phó thần khác, cũng là hậu duệ mà Bùi Minh điểm mặt chọn lên, sau đó phi thăng.”

    Tạ Liên kinh ngạc “Hậu duệ của Bùi tướng quân quả là nhân tài lớp lớp.”

    Đâu phải nhà ai cũng có thể biến phi thăng thành ‘gia học uyên nguyên’ chứ.

    Sư Thanh Huyền mở quạt nói “Nhân tài thì cũng xem là nhân tài, nhưng đức hạnh y xì Bùi Minh, bản lĩnh lớn, tật xấu cũng chẳng vừa. Phó thần kia thường xuyên phạm tội trên địa bàn của người khác, song ỷ vào thế lực lớn của Bùi Minh nên chẳng ai dám nhiều lời. Kết quả có một ngày, gã xâm phạm địa bàn cũ của nước Vũ Sư ngày xưa.”

    “Bình thường Vũ Sư đại nhân gần như không ra ngoài, chỉ ở trong núi sâu làm ruộng, bởi vậy có biệt danh là lão nông núi sâu Vũ Sư Hoàng, nào ngờ vừa ra ngoài đã thẳng tay đập cho hậu duệ của Bùi Minh một trận, sau cùng xách gã lên trời, quẳng đến trước mặt Đế Quân, phán tội lưu đày.”

    Tạ Liên nghĩ thầm “Sao chuyện này nghe quen quen vậy ta?”

    Sư Thanh Huyền kể tiếp “Ban đầu Bùi Minh nghĩ, lưu đày thì lưu đày, một trăm năm sau lại vớt lên cũng chẳng sao. Nhưng mà, một trăm năm ở nhân gian có thể xảy ra bao nhiêu chuyện chứ? Mỗi một năm, thậm chí mỗi một ngày đều có kỳ nhân dị sĩ mới xuất hiện, như đèn kéo quân, hoa hết cả mắt, sóng sau xô sóng trước, đợt này nối tiếp đợt kia. Mới qua mười năm, những tín đồ ban đầu đều lũ lượt chuyển sang tin thờ thần quan khác. Qua năm mươi năm, vị phó thần quan kia đã bị quên tuốt luốt. Qua một trăm năm, cuối cùng không lên nổi nữa, thần quan trẻ tuổi tiền đồ vô lượng ngày nào cứ thế lụn bại, không còn nữa. Mãi đến khi Tiểu Bùi xuất hiện, Bùi Minh mới lại tìm được trợ thủ hợp ý.”

    Hèn gì Bùi tướng quân không từ thủ đoạn cũng quyết phải vớt Tiểu Bùi lên cho bằng được, thì ra đã có tiền lệ, sợ Tiểu Bùi lụn bại, tuy rằng cách làm không đúng đắn lắm. Tạ Liên như có điều nghiền ngẫm, thở dài một tiếng, nói “Nhân gian.”

    Sư Thanh Huyền cũng nói “Đúng vậy, ở nhân gian quá lâu sẽ bị mài mòn đến mất hết linh khí và ý chí chiến đấu.”

    Cả hai cùng gật đầu, nhưng khác biệt ở chỗ, Tạ Liên vô thức không tự chủ gật đầu, còn Sư Thanh Huyền lại tự chủ gật đầu một cách khoa trương. Gật một hồi, Tạ Liên sực nhớ đến một người cực kỳ quan trọng “… Lang Huỳnh! Thằng bé kia!”

    Các sự việc liên tiếp diễn ra quá nhanh, kích thích quá lớn, không ngờ lại làm y quên béng đứa bé kia. Sư Thanh Huyền lên tiếng “Huynh nói thằng bé huynh đưa về từ Cực Lạc phường hả? Đế Quân đã gặp nó rồi, bây giờ nó đang ở chỗ ta, lát nữa dẫn nó xuống cho huynh.”

    Tạ Liên nghĩ bụng, trong Bồ Tề quán còn nhốt Thích Dung và một đứa bé nữa, không thể để người khác trông thấy, bèn nói “Vậy thì ngại quá, để ta tự lên thì hơn.”

    Sư Thanh Huyền vui vẻ gật đầu “Cũng như nhau thôi. Vừa khéo vài hôm nữa là tiệc Trung thu rồi, mỗi năm chỉ có một lần thôi, huynh đừng nên bỏ lỡ. Năm nay ca ca của ta cũng sẽ về một chuyến, đến lúc đó ta giới thiệu cho huynh làm quen.”

    Giọng điệu của Sư Thanh Huyền đầy ắp tự hào về huynh trưởng của mình, Tạ Liên nghe mà không khỏi buồn cười, nghĩ thầm “Tiệc Trung thu à…”

    Ngày hội Trung thu hàng năm, chư thiên thần tiên nhất định sẽ tổ chức tiệc Trung thu chúc mừng, nhìn vẻ hân hoan của trăm hộ nhân gian làm niềm vui. Ngoài ra, trong buổi tiệc còn có một ‘trò chơi’ vô cùng quan trọng, có thể nói là tiết mục chính trong tiệc Trung thu – Đấu đèn.

    Một ngọn đèn cầu phúc, không phải là thứ mà người thường cúng được. Trăm vị thần đấu đèn trong tiệc Trung thu, cái họ đấu chính là vào ngày hội Trung thu, quán chính của mỗi vị thần quan có thể nhận được bao nhiêu ngọn đèn cầu phúc mà các tín đồ dâng cúng.

    Tuy ngoài miệng mọi người đều nói “chỉ là trò chơi thôi mà”, “đừng coi là thật đừng coi là thật”, “ta chỉ chơi chút thôi, không để bụng gì đâu”, song thực tế thì, có mấy ai thật sự không để ý chứ? Đa số đều âm thầm tích sức, ngóng trông năm nay các tín đồ sẽ phấn đấu làm mình nở mặt nở mày. Nếu nói thật sự có vị nào không phấn đấu, vậy thì chỉ có Đế Quân thôi, bởi vì theo lẽ tất nhiên, năm nào đấu đèn cũng là điện Thần Võ toàn thắng, đã thế năm sau còn cao hơn năm trước, vì vậy Quân Ngô mới là thần quan thật sự xem trò này như trò chơi. Về phần các thần quan còn lại, cho dù không tranh hạng nhất chỉ tranh hạng hai, tình thế cũng hết sức quyết liệt.

    Vào thời nhang đèn thịnh vượng nhất, cung Tiên Lạc cũng nổi trội không ai bì kịp trong tiệc Trung thu, cùng vượt lên dẫn đầu với điện Thần Võ, bỏ xa các thần quan khác. Chỉ là hôm nay đây, ắt hẳn sẽ rất khó coi. Tạ Liên khỏi cần đoán cũng biết năm nay mình sẽ có bao nhiêu ngọn đèn cầu phúc. Chắc chắn một ngọn cũng chẳng có!

    Chương 90: Đêm Trung Thu xem lễ đấu đèn 2

    Có điều cho dù khó coi, tốt nhất vẫn phải đi một chuyến. Tạ Liên không theo phái ẩn tu mấy trăm năm như Vũ Sư, cũng không mang trọng trách bí mật như Địa Sư, càng không thể thích gì làm nấy ngươi làm gì được ta như Thủy Sư. Nếu đã chẳng phải là ai, lại cứ hay trở thành trường hợp đặc biệt, muốn không tham dự cái gì là không tham dự cái đó, cứ cái đà này, người ngoài bất mãn xì xào bàn tán, cho dù bản thân Tạ Liên không có cảm giác gì, Quân Ngô cũng sẽ khó xử. Vì vậy, y lập tức nhận lời Sư Thanh Huyền: “Được, lúc đó ta nhất định sẽ có mặt.”

    Suốt mấy ngày qua, Tạ Liên đã thử nhiều cách, nhưng vẫn không thể thành công tách hồn phách của Thích Dung ra khỏi cơ thể người đàn ông kia, Thích Dung càng đắc ý hơn. May nhờ có Cốc Tử không ngại đút cơm cho “cha” mình, bằng không Tạ Liên thật sự chẳng muốn nhét bất cứ thứ gì vào mồm gã nữa. Ngày Trung thu, Tạ Liên bố trí một trận pháp bên ngoài Bồ Tề quán, sau đó khóa trái cửa, để Nhược Da lại tiếp tục trói chặt Thích Dung, cuối cùng mới lên Tiên kinh trình diện.

    Thơ rằng, “Thiên thượng Bạch Ngọc kinh, thập nhị lâu ngũ thành. Tiên nhân phủ ngã đỉnh, kết phát thụ trường sinh”.

    *Trích từ thơ Lý Bạch. Tương truyền, Bạch Ngọc kinh là kinh đô Thiên giới, bao gồm quần thể kiến trúc thanh tịnh mà tráng lệ. Ý của hai câu thơ là, Bạch Ngọc kinh trên trời năm thành mười hai tòa, có tiên nhân chỉ điểm cho bí quyết trường sinh bất lão.

    Bạch Ngọc kinh được nói đến ở đây chính là Tiên kinh. Ngày hội Trung thu, khung cảnh cả Tiên kinh đổi mới toàn diện. Ngoài ra gần đường lớn, hành lang và lầu gác, Tạ Liên trông thấy rất nhiều hộ vệ, đoán chừng sau lần Hoa Thành xông lên, việc canh gác đã tăng cường gấp bội. Buổi tiệc được tổ chức trước vầng trăng ngoài trời, hương hoa lượn lờ, mây lành may mắn, hoa như tuyết bay, vừa hân hoan chè chén, vừa ngắm cảnh đêm trăng. Nhân gian ngắm trăng, nối ngón cái và ngón trỏ thành một vòng, ánh trăng cùng lắm chỉ vừa khít khung tròn. Nhưng ngắm trăng ở Tiên kinh, trăng tròn vằng vặc sáng trong tựa như một tấm màn ngọc khổng lồ dựng cách đó không xa, như thể bước thêm vài bước là đuổi kịp được nó, quả là cảnh đẹp mà nhân gian không tài nào chiêm ngưỡng được.

    Vị trí cao nhất trong buổi tiệc, dĩ nhiên khỏi nói cũng biết là Quân Ngô. Song những người khác ngồi thế nào đều ẩn giấu huyền cơ thâm sâu, thứ tự và vị trí rất được chú trọng, ngồi cao tất nhiên không thể nào, ngồi thấp thì nói chung bản thân thần quan cũng không bằng lòng. Tạ Liên lại thấy chuyện này chẳng sao cả, có điều đến dự tiệc Trung thu phải ăn mặc chỉnh tề, nói cách khác, tốt nhất là tượng thần của ngươi ở nhân gian mặc thế nào thì hôm dự tiệc ngươi cứ mặc thế nấy. Hiện tại Tạ Liên chẳng có tượng thần nào, thế nên y vẫn mặc đạo bào trắng lưng đeo nón, khó tránh có phần giản dị, nhưng thật sự không có trang phục nào khá hơn. Tuy nhiên trang phục này cũng rất gây chú ý, do vậy Tạ Liên cảm thấy ngồi khuất một chút sẽ tốt hơn.

    Nào ngờ y vốn đã tùy tiện tìm một góc ngồi xuống, vừa ngẩng đầu lại thấy Phong Tín bước tới đây. Đôi bên ngập ngừng giây lát, khẽ gật đầu với đối phương, xem như đã chào hỏi. Phong Tín đi lên trước vài bước, chợt vòng trở lại hỏi: “Sao huynh lại ngồi đây?”

    Tạ Liên tưởng mình ngồi sai chỗ, bèn đứng dậy nói: “Ta tưởng ngồi đâu cũng được chứ.”

    Phong Tín đang định mở miệng, Tạ Liên đã thấy Sư Thanh Huyền đứng xa xa phía trước vẫy tay với mình. Sư Thanh Huyền lúc này mang hình hài nữ nhi, Phong Tín ngoảnh đầu nhìn mà hốt hoảng biến sắc, như thể trông thấy nỗi ám ảnh gì đó, bỏ Tạ Liên lại rồi vội vã đi mất. Sư Thanh Huyền lại gọi: “Thái tử điện hạ, chỗ này nè!”

    Phong Sư chính là đại hồng nhân (người nổi tiếng, người có địa vị cao) trên Thượng thiên đình, dĩ nhiên chỗ ngồi của “nàng” cực kỳ tốt, khá gần với Quân Ngô. Nghe tiếng gọi mời này, rất nhiều thần quan đưa mắt nhìn sang, Quân Ngô vốn đang chống cằm lặng thinh cũng nhìn thấy Tạ Liên, khẽ gật đầu với y, Tạ Liên đành phải đi qua. Dọc đường đi, quả nhiên không thấy bóng dáng Lang Thiên Thu, nghe nói cậu ta vì truy tìm tung tích của Thích Dung mà sớm đã chối từ tiệc Trung thu. Sư Thanh Huyền tìm cho Tạ Liên chỗ ngồi ngay cạnh mình, phong thủy tuyệt vời, Tạ Liên cảm thấy không thích hợp lắm, nhưng Phong Sư quá nhiệt tình khó khước từ, chưa chi đã ấn y ngồi xuống, nói: “Đợi lát nữa tan tiệc, ta dẫn huynh đi tìm thằng bé kia. Xấu thì hơi xấu thật, nhưng mà ngoan ngoãn lắm.” Đã đến nước này, Tạ Liên không thể làm gì hơn ngoài nói lời cảm ơn. Quay đầu sang, ngồi gần hai người chính là Minh Nghi đang lặng thinh thưởng thức một cái chén ngọc, tay cầm chén thế mà còn trắng hơn cả ngọc. Thấy sắc mặt Minh Nghi không có gì đáng ngại, xem chừng thương tích lần trước ở chợ Quỷ đã khỏi rồi, Tạ Liên lên tiếng: “Địa Sư đại nhân, ngươi vẫn khỏe chứ?”

    Minh Nghi gật đầu, dường như không muốn nói chuyện cho lắm. Sư Thanh Huyền lại hoàn toàn trái ngược với hắn, ai cũng quen biết, người trước người sau người trái người phải, thậm chí cách xa mười vạn tám ngàn dặm cũng có thể nói đôi câu, Tạ Liên vô cùng bội phục Sư Thanh Huyền thế mà nhớ hết được tên của nhiều thần quan lớn nhỏ đến thế. Ngồi cạnh Tạ Liên là một thiếu niên mười tám mười chín tuổi, mũi cao mắt sâu, tóc đen hơi xoăn. Tạ Liên không quen cậu ta, cậu ta cũng không quen Tạ Liên, hai người nhìn nhau một hồi, đôi bên đều ù ù cạc cạc, cuối cùng kết thúc bằng việc Tạ Liên chào hỏi qua loa. Nhìn quanh bốn phía, hai người Phong Tín và Mộ Tình ngồi cách xa tít tắp, còn mấy người ngồi đối diện y đang nói chuyện hết sức quen thuộc là ba vị thần quan.

    Ngồi bên trái là một văn quan mặc áo đen, mặt mũi đoan chính, thong dong thoải mái, lúc đang nói chuyện, năm ngón tay gõ nhẹ theo nhịp lên mặt bàn, nét mặt điềm tĩnh như thường, có vẻ quen mắt đến lạ. Người ở giữa dĩ nhiên là Bùi Minh không thể nào quen hơn, còn bên phải lại là một công tử áo trắng, quạt giấy trong tay phe phẩy, mặt trước của quạt viết một chữ “Thủy”, mặt sau vẽ ba đường gợn sóng, dung mạo loáng thoáng có sáu phần tương tự Sư Thanh Huyền, chỉ là khi đưa mắt liếc nhìn, nét ngông cuồng ngạo mạn lộ rõ mồn một, ngoài mặt trông thì nhã nhặn, nhưng đáy mắt viết rõ hắn khinh thường tất cả. Ngoại trừ vị “Thủy Hoành Thiên” kia thì còn ai vào đây?

    Trong lòng Tạ Liên đã hiểu: “Tam độc lựu.”

    Vị văn quan áo đen này, chắc hẳn là hình hài nam nhi mang pháp lực mạnh nhất của Linh Văn, điệu bộ quả nhiên oai vệ khí phách. Ba người hàn huyên chuyện trên trời dưới đất, đổi đủ kiểu tán dương tâng bốc lẫn nhau, Sư Thanh Huyền nghe mà liên tục làu bàu: “Giả dối. Giả dối quá thể.” Tạ Liên lại cảm thấy khá thú vị. Lúc này, thấy trước bàn tiệc có dựng một lầu gác nhỏ tráng lệ, bốn phía đều che màn đỏ, y bèn hỏi: “Đó là gì thế?”

    Sư Thanh Huyền cười đáp: “Ồ, huynh không biết rồi, đó là một trò chơi rất được hoan nghênh trên Thượng thiên đình. Nào nào, để ta đưa huynh đi xem, bây giờ bắt đầu rồi đó!”

    Vừa dứt lời, ngoài trời truyền đến mấy tiếng sấm rền. Quân Ngô nhìn trời, rót một chén rượu, chuyển xuống dưới. Thế là giữa tiếng sấm ầm ầm, các thần quan trên bàn tiệc bắt đầu vừa cười cợt vừa hú hét truyền chén rượu kia, nhao nhao nói: “Đừng đưa cho ta! Đừng đưa cho ta!”

    “Đưa cho hắn kìa!”

    Chỉ nhìn người khác chơi, Tạ Liên cũng nắm sơ quy tắc, nhủ thầm: “Ra là đánh trống truyền hoa.” Mọi người truyền chén rượu mà Quân Ngô chuyển xuống, không được làm đổ, truyền cho ai cũng được, nhưng không thể truyền ngược lại. Lúc tiếng sấm ngừng, chén rượu nằm trong tay ai thì sẽ lôi người đó ra làm trò cười. Có điều không biết sẽ làm trò gì thôi.

    Trò chơi này, có thể nói Tạ Liên không hứng thú lắm. Ngươi truyền chén rượu cho ai tức là muốn trêu chọc người đó, vậy nên thông thường sẽ truyền cho những người có quan hệ tốt với mình. Tiếc rằng y chẳng quen thân với phần lớn các thần quan ngồi đây, sao có thể không biết xấu hổ mặc sức trêu chọc người khác chứ? Cùng lắm chỉ có thể truyền cho Phong Sư, nhưng ai biết liệu Phong Sư có phải là người truyền rượu cho mình không?

    Tạ Liên nghĩ thầm: “Tốt nhất đừng ai truyền cho mình, mà nói không chừng mình chỉ tự đa tình thôi.”

    Y còn chưa mở miệng, vòng thứ nhất đã kết thúc. Chén rượu mà mọi người hướng về dừng trong tay Bùi Minh, coi bộ Bùi Minh đã quen rồi, hắn uống một hơi cạn chén rượu giữa tiếng trầm trồ khen ngợi, các thần quan vỗ tay bỡn cợt: “Lên! Lên!”
    Trong tiếng hoan hô reo hò, lầu gác tráng lệ chậm rãi kéo màn che bốn phía. Chỉ thấy một vị tướng quân cao to đứng trên đài, ngẩng đầu sải bước, oai phong vô cùng. Dường như hắn chẳng hề nhìn thấy các thần quan bên dưới, cũng không hề thấy được cảnh trời đẹp lạ thường ngoài lầu gác, đi vài bước rồi bắt đầu cất tiếng hát, lanh lảnh mà vang dội.

    Hóa ra chén rượu truyền đến tay vị thần quan nào, lầu gác sẽ đưa vở hí kịch có liên quan đến vị thần quan đó ở nhân gian lên đây, diễn cho mọi người xem. Do con người rất thích biên soạn bậy bạ, làm sao biết được họ sẽ soạn ra tiết mục long trời lở đất thế nào, cũng chẳng biết có tình cờ dính chưởng không, có thể nói trò chơi này vô cùng đáng ngại và nguy hiểm. Tuy nhiên, điểm thú vị cũng nằm ở chỗ đó. Phải biết hí kịch về Bùi tướng quân vô cùng đặc sắc, bởi vì vai nữ của mỗi lần đều khác nhau, lúc thì là thần tiên, lúc thì là yêu nữ, lúc lại là tiểu thư khuê các. Vai nữ thì người sau đẹp hơn người trước, cốt truyện thì cái sau khó đỡ hơn cái trước, các thần quan xem mà thích thú không thôi, chăm chú ngóng trông vai nữ lên sàn. Quả nhiên không lâu sau, một tiểu thư áo đen xuất hiện trên sân khấu, giọng thánh thót như chim hoàng oanh, hai người hát đối đáp một hồi, ca từ hết sức ngả ngớn và táo bạo.

    Chúng thần quan càng xem hai người này diễn càng cảm thấy không ổn, rối rít hỏi nhau: “Vở kịch này tên gì thế?”; “Lần này cô gái mà Bùi tướng quân dụ dỗ là ai vậy?”

    Đúng lúc đó, “Bùi tướng quân” trên đài cất tiếng: “Kiệt khanh ——”

    *Khanh: cách vợ chồng hoặc bạn bè gọi nhau thân mật.

    Dưới đài, Bùi tướng quân và Linh Văn cùng phun một ngụm rượu.

    Kiệt khanh còn có thể là ai, tên thật của Linh Văn chính là Nam Cung Kiệt. Chúng thần quan kinh hãi: Sao hai vị này lại có gian tình được?!

    Linh Văn dùng khăn vải lau khóe miệng, hờ hững nói: “Khỏi cần phải nghĩ. Bịa đặt thôi.”

    Tuy hai đương sự đều có hơi buồn bực, song may là da mặt cả hai đủ dày, trên đài diễn í a í ới, bọn họ ở dưới đài vờ như không nhìn thấy. Sư Vô Độ lại không tha cho bọn họ, phẩy quạt cười hỏi: “Vở kịch này đặc sắc thật. Các ngươi có cảm tưởng gì không?”

    Linh Văn đáp: “Không có cảm tưởng gì hết. Vở này cũ rồi, khi đó tượng thần của ta đâu giống như bây giờ. Truyền thuyết dân gian thôi, huynh nghĩ kỹ lại xem, trong truyền thuyết dân gian, phàm là nữ giới, có mấy ai chưa từng bị lão Bùi dụ dỗ?”

    Mọi người đều cho là thế. Bùi Minh nói: “Này này, không thể nói vậy nhé. Những truyền thuyết dân gian khác, ta đích thực đã dụ dỗ gần hết, nhưng cái này ta thật sự không có. Đừng đổ oan cho người tốt.”

    Linh Văn nói: “Theo cách nói của huynh, số nam thần quan mà ta từng dụ dỗ trong truyền thuyết dân gian còn nhiều hơn thế nữa, mà ta chưa bao giờ dụ dỗ người nào hết, há chẳng phải như ngồi bàn chông sao.”

    Từ khi Linh Văn được điểm mặt chọn lên, truyền thuyết dân gian vẫn truyền rằng nàng leo lên được là nhờ dụ dỗ vị thần quan nào đó, đây cũng là một trong những nguyên nhân thuở đầu điện Linh Văn nhang đèn quạnh quẽ, không người thờ cúng. Nghe đâu lúc kháng nghị quyết liệt, nàng bị mắng cho tơi bời hoa lá, thường xuyên có kẻ quăng yếm và vải kinh nguyệt vào hòm công đức của nàng. Trái lại, nếu nam thần quan dính tin đồn kiểu này lại được danh phong lưu, hãy còn thích thú ấy chứ. Vì vậy đủ để thấy rằng, mặc dù hoàn cảnh tương tự, nhưng vẫn có sự khác biệt giữa nam với nữ, kết quả cũng khác một trời một vực.

    Vừa nghĩ thế xong, vòng tiếp theo lại bắt đầu. Khi nãy Sư Vô Độ vẫn còn cười, lần này đến lượt hắn, hai vị “độc lựu” bên cạnh đồng loạt giơ tay làm động tác chúc mừng hắn: “Quả báo trước mắt, lo mà nhận đi.”

    Sư Vô Độ nhướn mày rồi uống rượu, tấm màn lại từ từ kéo lên, còn chưa kéo lên trên cùng, bên trong đã truyền đến hai tiếng hô dài:

    “Nương tử ——”

    “Lang quân ——”

    Liếc mắt đưa tình, cao trào khúc chiết, uyển chuyển triền miên. Ngay sau đó, Tạ Liên ngồi bên dưới tận mắt trông thấy Sư Vô Độ và Sư Thanh Huyền nổi da gà khắp nửa người.

    Sư Thanh Huyền nhảy bật dậy: “Ca ——! Mau cắt đi!”

    Sư Vô Độ vội quát: “Hạ xuống! Mau hạ xuống cho ta!”

    Khỏi cần nhìn cũng biết, chắc chắn lần này rút trúng truyền thuyết dân gian của “vợ chồng” Thủy Sư đại nhân và Phong Sư nương nương. Yêu hận tình thù, vĩnh viễn là đề tài yêu thích nhất của mọi người khi kể chuyện. Có là tốt nhất, không có càng tốt, có thể bịa thoải mái. Theo lý mà nói, việc mà bản thân các vị thần quan làm mới là thần thoại chính thống, nhưng đôi lúc xem thứ mà mọi người gán cho họ, không thể không bội phục rằng, đây mới gọi là thần thoại đích thực.

    Sư Vô Độ vừa ra lệnh, quả nhiên bức màn rơi soạt xuống, chúng thần quan muốn cười nhưng không dám cười, nhịn đến khổ sở, Tạ Liên lại cười hỏi: “Phong Sư đại nhân, thì ra được kêu hạ màn sao?”

    Sư Thanh Huyền nghĩ lại mà rùng mình, đáp: “Được chứ, chuyện nhỏ ấy mà, quyên mười vạn công đức là được nha!”

    “…”

    Lúc Tạ Liên cạn lời để đáp, vòng thứ ba đã bắt đầu. Lần này, tiếng sấm rền vang chưa bao lâu, chén rượu đã truyền đến thiếu niên ngồi cạnh Tạ Liên.

    Thấy kết quả này, phản ứng của các thần quan hơi kỳ quặc. Không quá sôi nổi, cũng chẳng mấy lạnh nhạt. Dường như có hứng xem kịch, nhưng không muốn thể hiện quá lộ liễu. Thiếu niên có vẻ chẳng hứng thú gì với trò chơi này, nhưng vẫn nâng chén uống rượu. Cậu ta vừa đặt chén xuống, tấm màn lại kéo lên.

    Chỉ thấy trên đài có hai người đang đứng, một người là tiểu tướng quân trẻ tuổi, đầu đội tóc xoăn như bờm sư tử đá, tuy lố lăng thật nhưng cũng xem như khí thế hiên ngang, hẳn là đóng vai thiếu niên thần quan này. Người còn lại là một kẻ má hóp mỏ nhọn, rặt một bộ vai hề hèn mọn, nhảy tới nhảy lui trên đài.

    Khi thiếu niên đối mặt với gã, gã bèn giả vờ đứng đắn, nhưng lầy lội miễn chê, khiến người ta sinh lòng phản cảm; khi thiếu niên xoay người đi, gã lập tức nhẹ răng nhếch miệng, lấy kiếm đâm lén sau lưng, rõ là vai tiểu nhân đê tiện “trước mặt một kiểu, sau lưng một kiểu”.

    Vai hề diễn hết sức khoa trương, hệt như một vở hài kịch, phản ứng của chúng thần quan đang xem cũng khác nhau. Tạ Liên nhận thấy rằng, các thần quan ngồi thấp hơn đều cười hô hố, các thần quan ngồi cao hơn như Sư Thanh Huyền và Sư Vô Độ, đa số đều im lặng nhíu mày, chẳng hề cảm thấy buồn cười. Đồng thời y còn phát hiện, mu bàn tay của thiếu niên ngồi bên cạnh đột nhiên nổi gân xanh, trong lòng chợt sinh cảnh giác. Mặc dù y không rõ trên đài đang diễn cái gì, nhưng cũng đoán sơ được là đang sỉ nhục một người khác. Hơn nữa cho dù không biết là ai với ai, y cũng cảm thấy kiểu sắp đặt này khiến người ta khó chịu cùng cực. Thấy thiếu niên có vẻ sắp nổi cáu, Tạ Liên bèn lấy một chiếc đũa trên bàn, ném về phía sợi dây mắc màn.

    Chiếc đũa chẳng hề bén nhọn sượt qua sợi dây, thế mà vẫn cắt đứt được nó. Tấm màn soàn soạt hạ xuống, chúng thần quan giật mình, nhao nhao lên tiếng: “Sao lại thế chứ?”

    “Làm cái gì vậy hả!” Thế rồi lũ lượt nhìn về phía Tạ Liên, có kẻ còn đứng phắt dậy. Tạ Liên đang định mở miệng, giây tiếp theo, bên tai có tiếng thứ gì vỡ vụn, không ngờ thiếu niên nọ lại bóp nát chén rượu bạch ngọc.

    Dường như bị tuồng kịch này kích động đến nổi cơn thịnh nộ, thiếu niên ném mảnh vụn chén ngọc trong tay, nhảy lên trên mặt bàn, chân giẫm một cái, thân hình bay thoắt lên lầu gác như mũi tên, phóng vào trong màn. Vài thần quan nhào lên vén màn đỏ, bên trong đã không còn bóng người. Mọi người hốt hoảng kêu lên: “Không ổn rồi, không ổn rồi, Kỳ Anh điện hạ lại xuống đánh người rồi!”

    Tạ Liên nghĩ thầm: “Kỳ Anh? Điện Kỳ Anh? Võ Thần phía Tây, Quyền Nhất Chân?” Y vội hỏi Sư Thanh Huyền: “Phong Sư đại nhân, có chuyện gì thế? Kỳ Anh điện hạ đánh người là sao?”

    Sư Thanh Huyền phục hồi tinh thần lại, đáp: “Đánh người tức là… đánh người. Khụ, nói ra chắc huynh không tin, có điều Kỳ Anh thường xuyên đánh tín đồ của mình.”

    “…”

    Đây quả thật là lần đầu tiên Tạ Liên nghe nói có thần quan dám đánh tín đồ của mình, việc này ắt sẽ khiến thần quan xuống dốc không phanh trong lòng các tín đồ. Tạ Liên còn muốn hỏi tiếp, chợt nghe bên dưới có thần quan tỏ vẻ không hài lòng: “Quyền gì đó thật chẳng hiểu chuyện gì cả. Mọi người đang chơi vui vẻ mà, cậu ta lại không biết phối hợp một chút. Có ai chưa bị chế giễu chứ? Bùi tướng quân, Linh Văn chân quân chưa bị chế giễu sao? Vả lại người bị chế giễu có phải cậu ta đâu, giận đến thế làm gì?”

    “Đúng đó, tên này đề cao mình quá thì phải. Cho dù trong lòng tức giận, sao có thể bùng phát ngay lúc này chứ? Tiệc rượu đang yên lành, có ai đến để coi sắc mặt của cậu ta đâu? Thật đúng là…”

    “Được rồi được rồi, ranh con còn non tóc là thế đấy. Cậu ta cũng đã đi rồi, không có cậu ta chơi sướng hơn.”

    Nghe vậy, Tạ Liên như có điều suy ngẫm. Trên bàn tiệc chỉ rối loạn một chút, hình như Linh Văn đã phái người xuống giải quyết chuyện của Quyền Nhất Chân. Sau khi vài thần quan đứng ra trấn an một phen, tiệc rượu và trò chơi lại tiếp tục. Thế là giữa tiếng sấm ầm ầm, lượt đánh trống truyền hoa thứ tư đã bắt đầu.

    Tạ Liên vốn chỉ xem người khác chơi chứ không hùa vào, cũng mừng là người khác không tìm đến mình. Đang định nói chuyện với Sư Thanh Huyền, nào ngờ đúng lúc này, một cánh tay đột nhiên duỗi sang, đưa chén rượu bạch ngọc kia cho y.

    Chương 91: Thiên Đăng quán, Trường Minh soi sáng đêm dài

    Làm thế nào Tạ Liên cũng không ngờ rằng, thế mà lại có người truyền chén rượu cho mình thật.

    Chỉ trách y phản ứng quá nhanh, không nghĩ ngợi gì nhận lấy ngay, nhận xong lập tức ngẩn ra. Thế nhưng nhìn sang người đưa rượu, đối phương cũng đang ngơ ngẩn, chẳng ngờ lại là Minh Nghi.

    Hóa ra ban nãy rượu truyền đến tay Sư Thanh Huyền, Sư Thanh Huyền vì muốn chọc ghẹo nên cố ý truyền cho Minh Nghi. Mà Minh Nghi đang cắm đầu ăn cơm uống rượu, chẳng buồn nhìn mà tiện tay truyền bừa, truyền xong mới kịp phản ứng đã xảy ra chuyện gì, thế là câm nín luôn. Đúng lúc đó, tiếng sấm cũng thình lình im bặt, chỉ để lại hai người ngơ ngác nhìn nhau.

    Tuy người nhận chén rượu là Tạ Liên, song ánh mắt của mọi người lại đồng loạt hướng về phía Phong Tín và Mộ Tình. Không khó để lý giải nguồn cơn, Tạ Liên đã chìm nghỉm hơn tám trăm năm, tám trăm năm trước dĩ nhiên có không ít vở giai thoại ca tụng y, nhưng đến nay đã thất truyền từ lâu, chưa kể vào dịp như hôm nay, căn bản sẽ chẳng có ai đặc biệt dựng đài biểu diễn cho y. Vì vậy nếu muốn tìm xem một vở kịch có nhân vật “Thái tử Tiên Lạc”, thì chỉ có vở mà Phong Tín hoặc Mộ Tình đóng vai chính thôi.

    Bởi lẽ khi kịch thoại nhân gian biên soạn cốt truyện về hai vị thần quan này, thỉnh thoảng sẽ lôi Tạ Liên ra dùng, thường thì lấy y làm nền, đóng vai tép riu, thậm chí để khiến vở kịch thêm đặc sắc, bọn họ còn dứt khoát cải biên Tạ Liên thành vai phản diện, sắp đặt một số phân đoạn như ức hiếp Mộ Tình bơ vơ không nơi nương tựa, hoặc không từ thủ đoạn cướp đoạt những thứ mà Phong Tín yêu thích. Nếu thật sự diễn loại kịch này trong tiệc Trung thu, bất luận các nhân vật chính của câu chuyện có vui lòng hay không, dù gì những kẻ làm khán giả còn lại thích thú là cái chắc.

    Tạ Liên nâng chén ngọc nhỏ, có thần quan đã bắt đầu thúc giục: “Thái tử điện hạ, nào nào nào, uống cạn đi!”

    Lại thêm vài người thúc giục nữa, Phong Tín ở đằng xa lên tiếng: “Thái tử điện hạ không uống rượu được.”

    Mọi người nhao nhao đáp: “Một chén thôi mà! Không có gì đâu.”

    Quân Ngô vẫn im lặng dùng một tay chống trán, bấy giờ khẽ nhổm người, có vẻ muốn lên tiếng. Sư Thanh Huyền ngồi bên cạnh cũng hỏi: “Huynh được không đó? Không được thì bỏ đi, ta chi mười vạn công đức kéo màn giúp huynh.”

    “…”

    Tạ Liên sợ Phong Sư lại kích động rải tiếp mười vạn công đức, dẫu cho có hào phóng cũng không thể hào phóng thế được, hơn nữa vở diễn nào y cũng xem hết rồi, chẳng có gì đáng chú ý, vội nói: “Không cần không cần, một chén chắc không đáng ngại đâu.” Dứt lời, y uống cạn chén rượu đó.

    Rượu quý trôi xuống cổ họng, lướt đến đâu nơi đó trước lạnh sau nóng, Tạ Liên hơi chếnh choáng, nhưng chỉ ngấm giây lát rồi dằn cơn chếnh choáng này xuống. Tấm màn che bốn phía lầu gác chậm rãi kéo lên, mọi người dời ánh mắt, chuẩn bị tập trung xem kịch.

    Vừa nhìn tức thì kinh ngạc, chỉ thấy trên đài thế mà lại có hai người đang đứng. Một người áo trắng, mặt như thoa phấn, đầy vẻ phong trần, lưng đeo chiếc nón, đích thị là Tạ Liên. Người còn lại áo đỏ, tóc đen như mực, khôi ngô tuấn tú, mặt mũi sáng sủa. Một con rắn dài quấn quanh cánh tay bị “Tạ Liên” giật lấy, người mặc áo đỏ tức thì chộp con rắn vứt đi, nắm chặt tay “Tạ Liên” không buông. Thái độ đó, quả thật hệt như lòng hắn bị đâm mạnh một nhát vậy.

    Màn này vừa xuất hiện, chúng thần quan đang chờ xem kịch hay đều ngơ ngác, dĩ nhiên chính Tạ Liên cũng sững sờ. Bấy giờ, Quân Ngô ngồi ở vị trí cao nhất trên bàn tiệc bật cười: “Đây là vở nào thế? Hình như chưa từng xem bao giờ?”

    Linh Văn lập tức sai người đi điều tra, đáp: “Hình như vở này tên là “Bán Nguyệt quốc kỳ du ký” (Ghi chép về chuyến du hành kỳ lạ ở nước Bán Nguyệt), mới được biên soạn, cho nên trước đây chưa từng xem bao giờ, đêm nay là lần đầu biểu diễn ở nhân gian.”

    Sư Thanh Huyền nói với Tạ Liên: “Chắc là người trong đám thương nhân lần trước ở nước Bán Nguyệt sau khi trở về tìm người viết đó. Tiết kiệm được công đức rồi, không cần kéo màn nữa.”

    Tạ Liên không tỏ ý gì. Người ở nhân gian biết được chuyện nước Bán Nguyệt chỉ có thể là nhóm thương nhân kia thôi. Tạ Liên nhớ trong đội buôn có một thiếu niên tên Thiên Sinh đích thực đã từng nói mấy câu như muốn tạ ơn mình hay muốn thờ cúng mình, chẳng lẽ vở kịch này là do Thiên Sinh bỏ tiền mời người viết sao? Nhưng y chưa hề nói cho Thiên Sinh biết tên của mình, một thiếu niên nhỏ bé như cậu ta chưa chắc đủ khả năng làm đến mức này.

    Ở một bên khác dưới đài, tuy các thần quan không được xem màn kịch như trong tưởng tượng, nhưng dĩ nhiên vở trước mắt đặc sắc hơn nhiều. Suy cho cùng nếu lời đồn là thật, vậy vai diễn người áo đỏ kia là Hoa Thành chứ ai!

    Kịch về Huyết Vũ Thám Hoa ở nhân gian không hề ít, chẳng qua thông thường toàn là loại tiết mục khiến các đồng chí Thiên giới xem mà khóc trong âm thầm như “Quỷ áo đỏ đốt ba mươi ba miếu thần, đốt xong Thiên giới chẳng dám hó hé gì”, “Huyết Vũ Thám Hoa tay thuận tay trái chỉ dùng một tay treo văn võ thần lên mà đánh”, chẳng biết vở kịch này sáng tác thành gì nữa? Dù sao nhân vật chính cũng là Tạ Liên, đối với vị này, mọi người cứ thấy không hợp kiểu gì, hoàn toàn không xếp y vào phạm vi “người Thiên giới mình”, thế nên có xem cũng chẳng sao. Chưa kể sân khấu kịch tinh xảo, chế tác hoàn hảo, người đóng kịch hóa trang cực tốt, quả là một danh tác có tâm. Vì vậy không khỏi có người nhủ thầm sướng quá, vừa xem vừa bắt bẻ:

    “Là thật hả? Chắc biên soạn thôi, Hoa Thành đời nào lại nói chuyện với người khác như thế!”

    “Nói xằng nói bậy, đúng là nói xằng nói bậy!”

    “Vở kịch này bịa Hoa Thành thành cái kiểu gì thế này? Tỉnh lại đi! Có phải là kịch tình yêu đâu, vậy mà cũng có gan bịa được!”

    Dù sao cũng là vở kịch viết riêng cho mình, vì vậy Tạ Liên cũng nghiêm túc ngồi xem. Thành thật mà nói, vở kịch này không tệ. Hóa trang tốt, kịch cũng hay, có điều thân là một người bị đóng vai, y có một ý kiến nho nhỏ: Hình như hai nhân vật chính hơi quá thân mật rồi.

    Tài nghệ của người diễn vai y rất khá, chỉ là mỗi lần hắn mở miệng gọi “Tam Lang”, tuy giọng điệu không hề du dương trầm bổng uyển chuyển luyến lưu, song Tạ Liên cảm thấy nó còn khiến người ta đứng ngồi không yên hơn khi nãy “Phong Sư nương nương” gọi “Thủy Sư đại nhân” là “phu quân” với “lang quân”. Hơn nữa mấy động tác mờ ám có vẻ hơi bị nhiều, nào ngoắc tay nào khoác vai nào bồng bế, cứ cảm thấy không thỏa đáng chỗ nào.

    Nhưng nghĩ kỹ lại, đúng là y đã gọi Hoa Thành kiểu đó, hình như mấy động tác đó cũng từng làm thật rồi, lúc ấy cảm thấy không có vấn đề gì, bây giờ xem lại, lẽ ra cũng nên cảm thấy không có vấn đề gì mới đúng. Nhìn sang các thần quan khác, tuy ngoài miệng mắng là nói xằng nói bậy, nhưng vẫn xem đến say sưa, mắt chẳng buồn chớp, khí thế ngất trời, Tạ Liên chỉ đành im miệng. Xem một hồi, Sư Vô Độ chợt lên tiếng: “Hai thằng đầy tớ phía sau làm cái gì thế?”

    Nghe hai chữ “đầy tớ”, Phong Tín và Mộ Tình bỗng đơ người một cách khó phát hiện.

    Linh Văn đáp: “Đó không phải là hai đầy tớ. Chắc là hai vị tiểu võ quan ở Trung thiên đình, hồi đó từng từ điện Nam Dương và điện Huyền Chân nhận lời đi cứu nguy cho Thái tử điện hạ.”

    Không ngờ điện Nam Dương và điện Huyền Chân lại có người cứu nguy cho Tạ Liên, đây quả là chuyện hay việc lạ, nghe khó tin không kém việc Bùi Minh nghiêm trang chính trực từ chối khéo những mỹ nữ tuyệt sắc sà vào lòng mình. Chúng thần quan đồng loạt nhìn sang. Linh Văn bổ sung thêm một câu: “Bọn họ tự nguyện đi đấy.”

    Tạ Liên cười cười, hỏi: “Quên hỏi nữa, Nam Phong và Phù Dao vẫn khỏe chứ? Sao hôm nay không thấy hai người đó tới chơi?”

    Phong Tín lắp bắp: “Nam Phong… ở…”

    Mộ Tình lạnh nhạt đáp: “Phù Dao đang bị cấm túc.”

    Phong Tín lập tức nói theo: “Nam Phong cũng đang bị cấm túc.”

    Tạ Liên ồ một tiếng, cảm thán: “Hai đứa đều đang bị cấm túc? Tiếc thật.”

    Trong lúc trò chuyện, vở kịch đặc sắc đã hạ màn. Tuy bị mọi người nhất trí cho rằng là tín đồ vô tri chế bậy, nhưng do chế bậy về Hoa Thành sướng quá, cuối cùng còn nhận được tiếng reo hò khắp sảnh. Tuy nhiên, Bùi Túc bị lưu đày vì chuyện cửa ải Bán Nguyệt, sướng xong rồi mọi người cũng không quên dành chút quan tâm cho Bùi Minh. Sư Vô Độ hỏi: “Bùi tướng quân, bây giờ Tiểu Bùi nhà huynh sao rồi?”
    Bùi Minh tự rót tự uống, lắc đầu đáp: “Còn sao được nữa? Không để tâm chuyện cần để tâm, ta hết quản được nó rồi.”

    Bên này, Sư Thanh Huyền nghe không nổi, cười ha ha: “Thế thì trong mắt Bùi tướng quân, chuyện cần để tâm là cái gì? Tiền đồ của Tiểu Bùi nhà ngươi là tiền đồ, còn con gái nhà người ta không phải sao?”

    Giọng điệu của Sư Thanh Huyền không được tốt, Sư Vô Độ lia mắt qua, nói: “Thanh Huyền không được vô lễ!”

    Sư Vô Độ vừa khiển trách, Sư Thanh Huyền lập tức ngượng ngùng cúi đầu. Thấy vậy, Bùi Minh cười hà hà: “Thủy Sư huynh, đệ đệ của huynh lợi hại lắm, chỉ có huynh quản được thôi. Bây giờ Thanh Huyền chọc ta cũng chẳng sao, ngộ nhỡ sau này chọc phải người không nên chọc, dễ gì chịu nể mặt huynh như ta đây.”

    Sư Vô Độ mở quạt, tiếp tục dạy dỗ em trai: “Đệ nghe Bùi tướng quân nói chưa? Còn nữa, đã nói với đệ bao nhiêu lần rồi, đừng có suốt ngày biến thành hình dạng này ra ngoài đi lung tung, còn ra thể thống gì nữa. Ta không cần biết đệ thích hình dạng gì, ra khỏi cửa nhất định phải dùng nguyên hình!”

    Tuy Sư Thanh Huyền rất mê hình dạng nữ, không phục tí nào, nhưng vẫn không dám chống đối anh mình. Tạ Liên nhủ thầm: “Phong Sư nói mình không sợ ca ca, chưa chắc đúng hoàn toàn.”

    Nào ngờ, cuối cùng Sư Vô Độ lại nói: “Ngộ nhỡ gặp phải người pháp lực cao cường nhưng mưu đồ xấu xa như Bùi tướng quân thì tính sao!”

    Linh Văn phá lên cười nhạo báng, Bùi Minh suýt nữa phun thêm một ngụm rượu: “Thủy Sư huynh! Huynh còn như thế, chúng ta không nói chuyện được nữa đâu.”

    Ăn xong một lượt, rốt cuộc yến tiệc linh đình cũng chào đón tiết mục đấu đèn cuối cùng.

    Tất cả ánh nến và nguồn sáng trong Tiên kinh đều bị dập tắt, ngoại trừ ánh trăng thì chỉ còn một vùng u tối. Tiệc rượu bên hồ, mây khói sương mù trên mặt hồ tản ra, xuyên qua nước hồ dập dờn trong veo, có thể thấy được nhân gian tối đen như vực thẳm.

    Đấu đèn, thứ thi đấu chính là số ngọn đèn Trường Minh cầu phúc được cúng trong đạo quán lớn nhất và nổi tiếng nhất của một vị thần quan vào hôm Trung thu. Một ngọn đèn Trường Minh cầu phúc, ngàn vàng khó cầu, cháy mãi không tắt. Thứ tự đấu đèn xếp lần lượt từ ít đến nhiều, đến lượt vị thần quan nào đó, ngọn đèn mà tín đồ của người đó dâng cúng sẽ từ phía dưới bay lên thiên đình, rọi sáng cả trời đêm mênh mông, đẹp đẽ vô ngần.

    Năm nay điện Thần Võ nhận chín trăm sáu mươi mốt ngọn đèn Trường Minh, số lượng gần ngàn, trước nay chưa từng có, các thần quan đều cho rằng năm sau chắc chắn sẽ vượt qua một ngàn, tuy nhiên đây không phải trọng điểm. Nếu hạng nhất vĩnh viễn là hạng nhất, vậy hạng nhất sẽ mất hết ý nghĩa, thế nên mọi người đã tự động loại trừ điện Thần Võ khỏi tiết mục đấu đèn.

    Điều khiến người ta dở khóc dở cười là, đấu đèn vừa mở màn, không ngờ người đầu tiên là Vũ Sư. Khi Tạ Liên nhìn thấy một ngọn đèn nho nhỏ chậm rì rì, nghiêng nghiêng vẹo vẹo bay lên trời, lại nghe nói “Điện Vũ Sư, một ngọn!”, y tưởng chừng hoài nghi mình uống say chưa tỉnh rượu, dù thế nào đi nữa cũng không thể tệ đến mức chỉ có mỗi một ngọn. Để xác nhận mình chưa say, y hỏi Sư Thanh Huyền: “Không báo sai đó chứ?”

    Sư Thanh Huyền đáp: “Không. Thật sự chỉ có một ngọn, còn là ngọn mà con trâu trong nhà Vũ Sư đại nhân tự cúng để cân tất.”

    Tự mình cúng mình, hành động này quả thật rất thân quen. Tạ Liên ngẫm nghĩ, Vũ Sư phụ trách việc đổ mưa, cho nên cũng là thần nông, bèn suy đoán: “Chẳng lẽ vì đa số tín đồ của Vũ Sư đại nhân là nông dân nên mới không dư giả để cúng bái?”

    Sư Thanh Huyền lại nói: “Điện hạ, huynh hiểu sai gì về nông dân rồi, nhiều nông dân có tiền lắm biết không? Thật ra vì Vũ Sư từng nói, có tiền cúng đèn, chẳng thà làm ruộng, bởi thế xưa giờ tín đồ toàn cúng trái cây rau củ tươi.”

    Nghe vậy, Tạ Liên hâm mộ không thôi, nghĩ thầm: “Lại còn chuyện tốt vậy sao.”

    Nhưng rồi, Sư Thanh Huyền nói tiếp: “Sau này Vũ Sư đại nhân còn nói đừng lãng phí, vậy nên thông thường đồ cúng chỉ đặt vài hôm, tín đồ lại tự đem về ăn.”

    “…”

    Phía trước lưa thưa lác đác, đều là các thần quan nhỏ, đèn Trường Minh từ mấy ngọn tới mấy chục ngọn, mọi người chẳng hứng thú gì. Nhưng càng về sau, mỗi lần đèn bay lên, ánh sáng càng rực rỡ, mọi người cũng càng chăm chú hơn. Nếu không có thần quan phụ trách báo cáo, liếc một cái là nhìn ra số lượng, chỉ e không đếm xuể có bao nhiêu ngọn trong dải đèn dày đặc chi chít cùng bay lên. Tạ Liên không rõ lắm nên chẳng phát biểu bình luận gì. Y tập trung thưởng thức cảnh đẹp ánh đèn rọi sáng đêm dài u tối, tiện thể nghe những người khác phân tích về tình hình đấu đèn trước mắt, dù rằng y cảm thấy chuyện này chẳng có gì đáng phân tích. Sau chừng hai nén nhang, rốt cuộc tiết mục chính cũng lục tục kéo tới. Đấu đèn tiệc Trung thu, bắt đầu đợt cạnh tranh mười hạng cuối cùng.

    Đứng cuối trong mười hạng, Tạ Liên nghe thần quan báo cáo cất cao giọng: “Điện Kỳ Anh, bốn trăm hai mươi mốt ngọn!”

    Quyền Nhất Chân đã rời khỏi đây từ sớm, các thần quan khác nghe được con số này cũng không hề che giấu tiếng tặc lưỡi. Tuy tuổi đời còn trẻ, song thế lực của vị Võ Thần phía Tây này đã cực kỳ hung mãnh, những thần quan có lai lịch tương tự cậu ta, hai trăm ngọn đèn Trường Minh đã là nhiều lắm rồi, mà cậu ta còn nhiều hơn gấp bội, số đèn Trường Minh của Lang Thiên Thu phi thăng lâu hơn cậu ta còn ít hơn cậu ta một chút, phải nói là rất đột phá. Nhưng Tạ Liên phát hiện, quả nhiên nhân duyên trên Thượng thiên đình của thiếu niên này không tốt lắm, bởi vì ngoại trừ y và Sư Thanh Huyền, dường như chẳng mấy ai thật lòng thán phục sự đột phá này.

    Vị tiếp theo, điện Địa Sư, bốn trăm bốn mươi bốn ngọn. Ngoài việc húp thêm vài ngụm canh, Minh Nghi không hề có phản ứng gì, Sư Thanh Huyền còn kích động hơn Minh Nghi, luôn miệng hô “giảm rồi giảm rồi”. Do không mấy thân quen với Địa Sư đại nhân, mọi người bèn vỗ tay theo lệ, xem như chúc mừng. Kế đó đến bản thân Sư Thanh Huyền, điện Phong Sư, năm trăm hai mươi ba ngọn.

    Thật ra một người có được yêu thích hay không là chuyện rất dễ nhận thấy. Sau khi thông báo số đèn Trường Minh của điện Phong Sư, Sư Thanh Huyền còn chưa lên tiếng, tiếng vỗ tay trên bàn tiệc đột nhiên vang ầm ầm, đâu đâu cũng là “chúc mừng chúc mừng”, “thực chí danh quy”. Sư Thanh Huyền vô cùng đắc ý, đứng dậy chắp tay khắp phía, rồi lại hô lớn với Sư Vô Độ: “Ca, năm nay ta hạng tám!”

    *Thực chí danh quy: Có bản lĩnh thật sự nên tất nhiên danh tiếng cũng đến theo.

    Sư Thanh Huyền như được thầy giáo khen nên tìm cha mẹ đòi phần thưởng, Tạ Liên nhìn mà phì cười. Sư Vô Độ lại quở trách: “Chỉ là hạng tám thôi, có gì đáng mừng chứ!”

    Câu này của Sư Vô Độ thật sự quá ngông cuồng. Cả Thượng thiên đình, có vị nào là hạng tầm thường chứ? Năm trăm ngọn đèn Trường Minh, xếp cao thứ tám, qua miệng hắn lại bị nói thành “chỉ là”, vậy chẳng lẽ các thần quan xếp dưới hạng tám còn chẳng bằng “mà thôi”? Không phải Sư Vô Độ không biết lời này không thỏa đáng, nhưng hắn cứ nói vậy là vì hắn chẳng sợ. Sư Thanh Huyền xụ mặt, Sư Vô Độ phe phẩy quạt, ra chiều miễn cưỡng nói: “Có điều số đèn nhiều hơn năm ngoái, năm sau nhất định phải nhiều hơn.”

    Nghe vậy, Sư Thanh Huyền lại vẫy tay cười hớn hở. Cả bàn tiệc chỉ có mỗi Minh Nghi dửng dưng cắm đầu ăn cơm, không reo hò ủng hộ Sư Thanh Huyền, thế là Sư Thanh Huyền đánh Minh Nghi mấy cái, đòi Minh Nghi chúc mừng. Minh Nghi hoàn toàn không để ý đến Sư Thanh Huyền, tiếp tục chú tâm ăn uống, Sư Thanh Huyền nổi giận bắt Minh Nghi nhất định phải vỗ tay cho mình, Tạ Liên ngồi bên cạnh nghe mà cười sặc sụa, không nhắc nữa.

    Vị tiếp theo, điện Linh Văn, năm trăm ba mươi sáu ngọn.

    Trong số Văn Thần, Linh Văn xem như là quán quân, có điều chẳng mấy Văn Thần cổ vũ, ngược lại chủ yếu là các Võ Thần nể mặt.

    Tạ Liên ngồi đằng xa nói chúc mừng “hắn”, bên này nghe Sư Vô Độ và Bùi Minh bảo “hắn” mở tiệc đãi khách, bên kia lại nghe có thần quan đang xì xào, Linh Văn nhiều tín đồ chỉ vì hóa thành dạng nam thôi, Linh Văn nhắm thấy thế lực của Võ Thần lớn mạnh nên mới dốc sức nịnh bợ Võ Thần, không thèm ngó đến Văn Thần, Linh Văn là thần quan thích mời khách nhất ở Thượng thiên đình, nghe đâu lúc mời khách Linh Văn còn mời cả kỹ nữ này nọ kia. Tạ Liên lắc đầu, trong lòng chỉ có một suy nghĩ: Nữ thần quan chẳng dễ làm.

    Tiếp theo là điện Nam Dương và điện Huyền Chân, lần lượt là năm trăm bảy mươi hai ngọn và năm trăm bảy mươi ba ngọn. Mặt mày Mộ Tình giãn ra, Phong Tín không vui không giận, dường như chẳng mấy để tâm. Tạ Liên không khỏi buồn bực, sao số lượng liền kề khéo thế? Vậy cũng quá trùng hợp thì phải? Y nhỏ giọng hỏi Sư Thanh Huyền mới biết, hóa ra vì hai người này xuất thân tương tự, lãnh địa gần nhau, thực lực tương đương, lại thêm quan hệ giữa cả hai không tốt, tín đồ đôi bên đều nén giận quyết giành chiến thắng, thề rằng đạo quán của đối phương cúng bao nhiêu đèn, bọn họ nhất định phải cúng nhiều hơn một ngọn. Không cầu hạng nhất, chỉ cầu cao hơn đối phương. Thế là dốc hết toàn bộ sức lực, mỗi năm đều có thắng có thua. Năm nay vào phút chót, rốt cuộc điện Huyền Chân cũng nặn ra thêm một ngọn, đánh bại điện Nam Dương, lúc này cứ như đánh thắng một trận, đang ăn mừng chẳng nể nang ai. Nghe xong, Tạ Liên nhịn không được nhủ thầm: “Ở ngoài tranh nhau đến sứt đầu mẻ trán chỉ vì nhiều hơn đối phương một ngọn đèn, đám người này không về nhà đón lễ sao? Hôm nay là Trung thu mà.”

    Vị tiếp theo, điện Minh Quang, năm trăm tám mươi ngọn.

    Con số này đã tương đối khả quan rồi, nhưng Bùi Minh chẳng hề tỏ ra vui mừng, bởi vì so với năm ngoái, năm nay đèn Trường Minh của điện Minh Quang thật ra đã giảm bớt. Phó thần Bùi Túc xảy ra chuyện, xem như là một sự đả kích, năm nay giảm gần một trăm ngọn, nếu không nhờ Bùi Minh căn cơ thâm hậu chống vững, e rằng còn giảm nhiều hơn. Sư Vô Độ và Linh Văn cũng không nói chúc mừng, chỉ vỗ vai Bùi Minh.

    Đến giờ Tạ Liên mới phát hiện, số đèn Trường Minh của mấy vị thần quan này sát rạt nhau, mấy chục mười mấy, có vẻ không chênh lệch nhiều lắm. Nói cách khác, thật ra mọi người đều là bên tám lạng đàng nửa cân, không có vị nào vượt trội tuyệt đối. Tạ Liên vừa nghĩ vậy xong, chợt nghe thần quan báo cáo nói: “Điện Thủy Sư, bảy trăm mười tám ngọn!”

    Trên bàn tiệc xôn xao rối loạn, tiếng thán phục nổi lên bốn phía.

    Sau khi kịp phản ứng, chúng thần quan bắt đầu tranh nhau chúc mừng. Sư Vô Độ chỉ ngồi yên tại chỗ, chẳng buồn đứng dậy, sắc mặt cũng không ngạo mạn, chỉ ra chiều lẽ đương nhiên thôi mà. Có lẽ suốt mấy trăm năm qua, đây là lần mà số lượng đèn Trường Minh của thần quan hạng nhì tiến gần điện Thần Võ nhất.

    Lần đầu Tạ Liên phi thăng cách nay quá xa, một ngọn đèn cầu phúc thời đó còn khó cầu hơn bây giờ, dĩ nhiên không thể xếp chung đánh giá. Có điều, đây gọi là “người chết vì tiền, chim chết vì mồi”, tình yêu dành cho tiền tài của con người vĩnh viễn sẽ không giảm bớt, quả không hổ danh thần tài!

    Sư Thanh Huyền còn hưng phấn hơn mình được bảy trăm ngọn đèn, vỗ tay nhiệt liệt, luôn miệng nói với Tạ Liên: “Ca ca ta đó! Là ca ca của ta!”

    Tạ Liên cười: “Biết rồi, là ca ngươi!”

    Cả bàn tiệc vẫn chỉ có mỗi Minh Nghi ra sức ngốn cơm một cách chẳng giống ai. Trên thực tế, Tạ Liên cảm thấy trong số những người ở đây, chỉ có Minh Nghi nghiêm túc xem “tiệc” là “tiệc”, vì ăn mà tới, dường như nhiều năm nằm vùng ở chợ Quỷ ăn không no bụng nên tối nay phải ăn một lần huề đủ vốn. Nhớ đến mấy món ăn vặt trong sạp hàng ven đường ở chợ Quỷ, Tạ Liên cũng phần nào thấu hiểu, thế rồi không kiềm được mà nghĩ, liệu thường ngày Hoa Thành có thong thả tản bộ trên con đường ở chợ Quỷ không?

    Đáp án chấn động lòng người nhất đã được công bố, đêm nay các thần quan đã xem no kịch, nói đủ lời, vừa lòng thỏa dạ, cuối cùng lục tục chuẩn bị đứng dậy rời tiệc. Nào ngờ Sư Vô Độ đột nhiên nhướn mày thu quạt, nói: “Chờ đã.”

    Người khác nói “chờ đã”, ắt hẳn không có uy lực mạnh mẽ đến thế. Nhưng người như Sư Vô Độ, đúng y như biệt hiệu “Thủy Hoành Thiên” của hắn, dường như trời sinh đã quen ra lệnh, vừa mở miệng đã khiến người ta vô thức nghe theo, mọi người cũng ngồi trở lại, hỏi: “Ra hết mười hạng rồi, Thủy Sư đại nhân còn vấn đề gì nữa?”

    Tạ Liên nghĩ bụng: “Lẽ nào cũng muốn rải công đức?”

    Sư Vô Độ phẩy quạt: “Ra hết mười hạng rồi sao?”

    Mọi người không biết câu hỏi ngược của Sư Vô Độ có ý gì, Sư Thanh Huyền kinh ngạc nói: “…Không đúng. Không đúng không đúng không đúng. Chưa ra hết mười hạng! Tính cả điện Thần Võ, vừa rồi chỉ báo có chín hạng thôi!”

    Các thần quan bỗng chốc sửng sốt, nhao nhao hỏi: “Chỉ báo chín hạng?”

    “Thật đó, ta đếm rồi, đích thực chỉ có chín!”

    “Phía trước Thủy Sư đại nhân vẫn còn một người nữa?”

    “Cái gì? Còn là ai được nữa? Ta không có ấn tượng gì hết?”

    Đúng lúc này, trong màn đêm u tối, một dải hào quang rực rỡ như ban ngày chợt bùng lên.

    Ánh sáng đó chính là đèn.

    Hệt như hàng ngàn hàng vạn con cá bơi qua sông biển, vô số ngọn đèn từ từ bay lên.

    Chúng tỏa sáng lấp lánh trong đêm tối, rạng rỡ chói lọi, tựa như những linh hồn trôi nổi hay giấc mộng mỹ miều, lộng lẫy tột độ, rọi sáng cả nhân gian tăm tối. Cảnh tượng kì vĩ như thế, không lời nào tả xiết được, chỉ có tiếng hô hấp ngưng đọng và những từ ngữ đứt đoạn.

    Tạ Liên ngẩn người nhìn đèn sáng đầy trời, như thể bị nghẹt thở, không nghe được gì nữa, thất thần hồi lâu. Qua lúc đó, y mới nhận ra có chỗ nào không đúng.

    Ánh mắt của tất cả thần quan trong buổi tiệc đều dồn sang đây. Hóa ra, vị thần quan báo cáo đang run rẩy chỉ tay vào y.

    Tạ Liên ngơ ngác hỏi: “…Sao thế?”

    Không ai trả lời, Tạ Liên lại chỉ vào mình, hỏi: “…Ta?”

    Sư Thanh Huyền ở bên cạnh vỗ vai y, đáp: “…Đúng. Huynh.”

    “…”

    Tạ Liên vẫn còn ngơ ngác: “Ta thế nào? Rốt cuộc ta làm sao?”

    Vị thần quan báo cáo nuốt ực một hơi đầy vất vả, cuối cùng mới mở miệng lần nữa.

    Ngay sau đó, cả trăm thần quan ở đây đều nghe thấy một giọng nói run rẩy không thể nào tin nổi.

    “Thiên Đăng quán, điện Thái Tử, ba… ba…”

    “Ba ngàn ngọn!”

    Chương 92: Thiên Đăng quán, Trường Minh soi sáng đêm dài 2

    Ba ngàn ngọn!

    Qua hồi lâu im lặng, sóng gió bỗng nổi khắp bốn phía.

    Cho dù là điện Thần Võ xếp hạng cao nhất vững như bàn thạch, từ trước đến nay vẫn chưa từng nhận được ba ngàn ngọn đèn chỉ trong một đêm tiệc Trung thu, thậm chí đến tận bây giờ cũng chưa có ai nghĩ đến những con số đó. Một ngàn thì còn miễn cưỡng dễ nói, ba ngàn, đây mới thật sự là vô tiền khoáng hậu, còn nhiều hơn thần quan mấy giáp trước cộng lại!

    Khỏi nói cũng tưởng tượng được, bây giờ trong lòng các thần quan cảm thấy khó tin nhường nào, lập tức có thần quan buột miệng thốt lên: “Chắc tính sai rồi!”

    “Chắc đếm nhầm rồi…”

    Tuy nhiên, không tính đến việc thần quan báo cáo đã đếm đèn trong tiệc Trung thu biết bao nhiêu năm liệu có mắc lỗi vào đúng hôm nay không, chỉ cần nhìn dải đèn hợp thành quầng sáng khổng lồ đó, dẫu cho khiêm tốn mà nói, thật sự xem như đếm sai số lượng, vậy sai sót chỉ có thể là đếm thiếu, không thể nào là đếm dư. Vì vậy, lại có thần quan hỏi: “Có khi nào đèn đó không phải là đèn cầu phúc thật sự? Biết đâu chỉ là đèn bình thường?”

    Thật ra lời này đồng nghĩa với “làm giả phải không?”, cũng có vài người hùa theo. Sư Thanh Huyền lên tiếng: “Làm sao là đèn bình thường được? Quy cách của đèn bình thường và đèn Trường Minh cầu phúc hoàn toàn khác nhau, căn bản không bay lên trời được, nào có chuyện không phải thật?”

    Nếu câu này là Tạ Liên biện giải, có lẽ mọi người sẽ còn chất vấn tiếp, nhưng nếu là Sư Thanh Huyền nói, chưa kể Sư Vô Độ cũng ở đây, người khác cũng không tiện nói gì. Đường bị chặn đứng, bọn họ bèn chuyển sang hướng khác: “Chư vị, Thiên Đăng quán này nằm ở đâu thế? Xây hồi nào? Do ai xây? Có vị tiên liêu nào biết không?”

    Thần quan báo cáo nói: “Không biết… nhưng trên những ngọn đèn đó, đích thực viết bay lên từ Thiên Đăng quán.”

    “Nhưng ta đã bao giờ nghe về Thiên Đăng quán nào đâu?!”

    “Đúng đó, ta cũng chưa nghe nói bao giờ!”

    Cuối cùng Tạ Liên cũng thoát khỏi khoảng lặng của sự kinh ngạc, nghe mấy câu này, y thành khẩn nói “Chư vị, thật không dám giấu diếm, nào chỉ các ngươi chưa nghe bao giờ, ta cũng đã nghe bao giờ đâu.”

    Chắc không thể nào cũng do Thiên Sinh xây đâu nhỉ?

    Tối nay tất cả thần quan đều bị quả mìn này nổ cho xây xẩm mặt mày, tuyệt nhiên không dám tin tưởng, bảy mồm tám lưỡi tranh nhau múa mép. Thật lòng Tạ Liên rất muốn nói: “Chỉ là một trò chơi thôi mà, mọi người cần gì nghiêm túc thế.” Nhưng thứ nhất, trong lòng rất nhiều người không xem “trò chơi” là trò chơi. Thứ hai, Tạ Liên đứng nhất “trò chơi” này, nếu y nói câu đó thì khác nào thiếu gạch xây nhà? Các thần quan khác cũng không tiện nói câu đó, bởi vì các thần quan khác đều xếp sau Tạ Liên, nói vậy cứ như đang bào chữa cho mình rằng không giành hạng nhất cũng chẳng có gì to tát, thế thì xấu hổ lắm.

    Lúc này, Bùi Minh cười nói: “Ta đã nói Huyết Vũ Thám Hoa dẫn Thái tử điện hạ đi không phải vì muốn kiếm chuyện với y mà, lúc trước chư vị không chịu tin, bây giờ đã tin chưa?”

    (Bùi ngựa là hủ nam chính cống nha:v)
    Nhờ Bùi Minh nhắc nhở, mọi người mới bừng tỉnh đại ngộ.

    Nếu là Hoa Thành, vậy thì hắn khoát tay một cái thắp ba ngàn ngọn đèn Trường Minh cầu phúc cũng không phải là chuyện không thể nào!

    Rốt cuộc Tạ Liên và Hoa Thành có quan hệ hay không, rốt cuộc là quan hệ gì, quả thật khó lòng phân rõ. Trước đây mọi người đều cho rằng không có ý tốt đáng tin hơn, bởi vì chẳng có lý nào Hoa Thành xưa nay vẫn luôn ác cảm tột độ với Thiên giới bỗng dưng phân biệt đối xử với Tạ Liên. Tuy nhiên theo phong cách coi trời bằng vung của Hoa Thành, cũng không lý nào đột nhiên chơi trò hư tình giả ý với ai đó. Hôm nay sau tiệc Trung thu, nếu nói không có ý tốt e rằng hơi thiếu căn cứ. Dẫu sao thì, ba ngàn ngọn đèn Trường Minh cầu phúc lận đó! Dù là Thủy Sư chấp chưởng tài vận cũng không phải nói lấy là lấy ra được liền. Giữa khung cảnh nháo nhác hỗn loạn, đột nhiên có tiếng vỗ tay không nhanh không chậm truyền đến từ vị trí cao nhất trên bàn tiệc.

    Chúng thần quan nhìn theo nơi phát ra tiếng, chỉ thấy Quân Ngô vừa vỗ tay vừa cười nói với Tạ Liên: “Tiên Lạc, chúc mừng.”

    Tạ Liên biết Quân Ngô có ý giải vây giúp mình, trong lòng không khỏi cảm kích, cúi đầu với Quân Ngô. Quân Ngô lại thở dài: “Ngươi luôn có thể tạo nên kỳ tích.”

    Thấy vậy, bàn tiệc dần dần yên tĩnh lại. Lần lữa chốc lát, cuối cùng dưới sự dẫn dắt của Quân Ngô, kẻ cao người thấp bắt đầu vỗ tay, nói tiếng chúc mừng.

    Đến lúc này rồi, dẫu cho kinh ngạc cách mấy, chư thiên thần tiên không thể không thừa nhận. Trên mình vị Thái tử điện hạ này, xưa nay luôn mang kỳ tích bội phần. Ngày trước đã thế, bây giờ vẫn thế!

    Tan tiệc Trung thu, Lôi Sư vẫn một mực nổi sấm đùng đùng cũng kết thúc công việc. Cổ vũ nhiệt tình nhất dĩ nhiên là Sư Thanh Huyền, bất luận thứ tự của ai được đọc ra, Sư Thanh Huyền luôn là người đầu tiên vỗ tay cổ vũ, ngoại trừ Bùi Minh. Ban đầu Tạ Liên còn nghĩ mình chặn ngang chen chân vào, Thủy Sư từ đành nhận hạng hai trở thành đành nhận hạng ba, chẳng biết có bất mãn gì không, nhưng nhìn Sư Vô Độ, dường như không hề có vẻ khó chịu, Bùi Minh và Linh Văn đều nói chúc mừng y, sau đó cả ba bàn bạc xem nên đến suối nước nóng trên núi nhà ai đấm bóp. Nghe vậy, Sư Thanh Huyền hỏi: “Ca, các huynh lại ra ngoài chơi hả?”

    Sư Vô Độ thu quạt, nói: “Ừ.”

    Linh Văn khoanh tay cười hỏi: “Phong Sư đại nhân có muốn qua chơi chung không?”

    Sư Thanh Huyền nói: “Ta không đi đâu. Ta hẹn người rồi.”

    Sư Vô Độ cau mày nói: “Đệ đừng hẹn mấy kẻ bừa bãi đấy.”

    Linh Văn nói: “Cho dù bừa bãi cỡ nào, liệu có bừa bãi bằng Bùi tướng quân không?”

    Bùi Minh cảnh cáo: “Kiệt khanh, ngậm miệng.”

    Tạ Liên chờ hai anh em bọn họ nói vài câu, sau đó chuẩn bị rời tiệc với Sư Thanh Huyền. Dọc đường chạm mặt Mộ Tình, không biết rốt cuộc Mộ Tình có đang nhìn Tạ Liên hay không, chân mày chẳng còn giãn như trước. Phong Tín lại trái ngược với hắn, lúc đứng dậy rời tiệc còn nói với Tạ Liên: “Chúc mừng.” Tạ Liên cũng gật đầu với Phong Tín, đáp: “Cảm ơn.”

    Lang Huỳnh được thu xếp cho ở tại tiên phủ Phong Sư trên Tiên kinh. Bây giờ thằng bé này trông rất gọn gàng sạch sẽ, chỉ là vẫn sợ người lạ như trước, Tạ Liên dẫn cậu ta xuống dưới, dọc đường đi cậu ta vẫn im ỉm không nói tiếng nào. Tạ Liên đến trấn trên mua chút trái cây tươi cho cậu ta ăn, không về thẳng thôn Bồ Tề mà đến một mảnh rừng nhỏ xem trước.

    Quả nhiên, hiện giờ trong mảnh rừng đó vô cùng náo nhiệt, một gã đàn ông trẻ tuổi cởi trần bị một dải lụa trắng treo ngược trên cây đang chửi lấy chửi để, miệng đầy lời ô tiếng uế, một đứa bé ngồi chồm hổm bên dưới xua muỗi cho gã. Tạ Liên bảo Lang Huỳnh đứng chờ bên ngoài, còn mình thì bước chầm chậm tới. Thấy Tạ Liên, gã đàn ông trẻ tuổi giận dữ mắng: “Đồ chó Tạ Liên, còn không mau mẹ kiếp thả ta xuống! Chết rồi chết rồi, ta sắp chết rồi!”

    Tạ Liên lại dịu giọng nói: “Chắc chắn ngươi đã nhiều năm không bị muỗi chích rồi nhỉ, nếm lại cảm giác của người sống không tốt sao?”

    Gã này chính là Thích Dung. Tạ Liên lường trước gã sẽ không an phận, nhất định sẽ xui khiến Cốc Tử giúp mình cắt đứt Nhược Da, thế nên đã sớm dặn dò Nhược Da, nếu gã chạy trốn thì cứ kéo gã vào mảnh rừng này đập một phen. Thích Dung cậy mình dùng thân thể của người khác, Tạ Liên không thể đánh gã quá nhiều lần, nhưng bắt gã chịu chút ít đau đớn xác thịt vẫn còn được. Do từng bổ củi và nhặt rác ở vùng này, y cũng nếm đủ quả đắng bị muỗi đốt, hiện giờ quả nhiên Thích Dung cũng bị một đống muỗi chích cho toàn thân nổi mụt, sống không bằng chết, mắng: “Tấm lòng sen tuyết của huynh đâu! Sao bây giờ không làm người tốt khù khờ nữa đi!”

    *Sen tuyết: ý chỉ tấm lòng thiện lương, thuần khiết.

    Cốc Tử ôm chân Tạ Liên, khóc nức nở: “Đại ca ơi, thả cha con xuống đi! Cha con bị treo lâu lắm rồi!”

    Tạ Liên xoa đầu nó, chỉ nghe hai tiếng “oái”, “phịch”, Thích Dung tức khắc ngã rầm xuống đất.

    Muốn về thôn Bồ Tề phải băng qua rừng phong này. Tạ Liên xốc một gã đàn ông trẻ tuổi cởi trần đang chửi đổng luôn mồm, theo sau là hai đứa con nít, một đứa khóc sướt mướt, một đứa cúi đầu im re. Y không khỏi nhủ thầm, nhóm người này đúng là dị hợm quá mà. Lên sườn núi, y nói với hai đứa nhóc đằng sau: “Cẩn thận dưới chân. Chỗ này dễ trượt ngã lắm.”

    Lời này là thật. Thỉnh thoảng Tạ Liên lượm đồng nát ở trấn trên về rất muộn, lúc băng qua đường này trong đêm tối, chẳng biết có phải vì nguyên nhân thể chất không mà y từng ngã không biết bao nhiêu lần. Nghe xong, Thích Dung lập tức la to: “Ông trời ơi! Xin ngài mau khiến kẻ này ngã chết tại đây đi!”

    Tạ Liên nghe vậy chỉ thấy buồn cười: “Một con quỷ như ngươi mà cầu xin ông trời cái gì?”

    Lúc này, y chợt trông thấy chân trời đằng xa thoáng hiện những luồng sáng ấm dịu, dường như con đường đen kịt dưới đất cũng bị nó rọi cho sáng rõ phần nào. Ngẩng đầu lên nhìn, phát hiện quả nhiên không phải ảo giác của y. Chân trời thật sự có ánh sáng.

    Là ánh sáng của ba ngàn ngọn đèn ấy.

    Ngọn đèn lơ lửng dập dờn trong trời đêm, bao la bát ngát, ngay cả ánh trăng sao cũng bị chúng lấn át. Tạ Liên ngơ ngẩn nhìn ngắm, hồi lâu sau mới khẽ thở dài: “…Cảm ơn.”

    Thích Dung không biết đó là gì, cười sằng sặc: “Huynh cảm ơn cái quái gì? Người ta tự đốt chơi thôi, có phải đốt riêng cho huynh đâu, bớt tự mình đa tình đi.”

    Tạ Liên mỉm cười không đáp, cũng không phản bác, chỉ nói: “Những thứ đẹp đẽ tồn tại trên trần thế, chỉ riêng điều đó đã đáng cảm ơn rồi.”

    Lòng y có cảnh đẹp nên không sợ người khác làm mất vui. Nương nhờ ánh đèn sáng nơi chân trời xa ấy, y đi thẳng một mạch về phía trước.

    Chương 93: Mang thai quỷ, nhân gian lần nữa nổi sóng 1

    Chưa đầy hai ngày sau, Tạ Liên đã nghênh đón một nguy cơ cực lớn.

    Trong quán không có đồ ăn.

    Một mình y, một ngày ăn vài cái bánh bao kèm một dĩa dưa muối, hái chút dưa leo gặm một tí là giải quyết ổn thỏa rồi, đồ cúng của các thôn dân ở thôn Bồ Tề đã đủ của ăn của để. Nhưng còn bây giờ, trong quán có thêm ba cái miệng. Hai người sống và một con quỷ sống, nhanh chóng ăn hết sạch lương thực mà y dự trữ.

    Hai đứa còn nít thì thôi đi, một con quỷ chết như Thích Dung nhập vào xác người đàn ông nọ không chịu ra, đằng này thì mắng Tạ Liên không xem gã như người đút gã ăn toàn mấy thứ rác rưởi, đằng kia thì ăn còn nhiều hơn người khác, khiến cho Tạ Liên thật sự rất muốn nhét đáy nồi ngập mồm gã.

    Sau khi vét hết nồi, Tạ Liên quyết định dẫn hai bạn nhỏ đi chợ dạo, để xem có lượm được đồ gì không, sau đó dẫn chúng nó đi ăn bữa ngon lành.

    Nếu nói mọi khi vận may của Tạ Liên không tốt lắm, vậy hôm nay vận may của Tạ Liên phải nói là cực tệ. Lượn một vòng thế mà chẳng lượm được đồng nát gì, cuối cùng y đứng ở đầu đường tấp nập người đến người đi, đưa ra một quyết định: Làm lại nghề cũ.

    Thế là y thu xếp cho hai đứa nhóc ngồi một bên, còn mình thì đứng ngay đầu đường, cất cao giọng: “Các vị hương thân phụ lão bà con hàng xóm! Hôm nay tại hạ vừa đến quý vùng, túi tiền eo hẹp, diễn vài trò vặt, mong được mọi người cổ vũ, cho chút lương thực, gom chút lộ phí…”4

    Hai tay áo của Tạ Liên bay phần phật, rặt vẻ tiên phong đạo cốt, nói năng lưu loát, trung khí dồi dào, những người rảnh rỗi trên đường đua nhau vây quanh y, nói: “Biết làm trò gì, để xem thử nào?”

    Tạ Liên hớn hở hỏi: “Xem quay đĩa không?”

    Bà con xua tay: “Chẳng khó tí nào, trò xoàng xĩnh thôi! Còn biết gì nữa không?”

    Tạ Liên hỏi tiếp: “Xem đập đá lên ngực không?”

    Bà con lại nói: “Cũ quá rồi cũ quá rồi! Còn biết gì nữa không?”

    Lúc này Tạ Liên mới biết, thì ra ngay cả mãi nghệ biểu diễn tạp kỹ ở đầu đường cũng phải theo kịp thời đại, tuyệt chiêu sở trường năm nào của y đã trở thành cúc vàng sớm mai (hết thời), không còn ai biết thưởng thức nữa. Mắt thấy đám người vây đến sắp giải tán, bất đắc dĩ quá, Tạ Liên đành tung đòn sát thủ, lấy một xấp bùa hộ mệnh do chính tay mình tết ra khỏi tay áo, nói: “Xem mãi nghệ tặng bùa hộ thân, tự tay làm lấy, các vị đi ngang qua chớ bỏ lỡ.”

    Nghe nói được tặng không, đám người đã giải tán lại xoẹt một tiếng tập hợp lại: “Bùa hộ thân kiểu gì? Đạo quán nào khai quang? Thần Võ Đại Đế hả?”

    “Có bảo vệ tài vận không? Cho ta bùa hộ mệnh của thần tài nhé cảm ơn nhiều!”

    “Ta muốn bùa của Cự Dương chân quân, làm phiền để lại một cái cho ta!”

    Tạ Liên nói: “Không có không có. Bùa tặng là của Thái tử Tiên Lạc, Bồ Tề quán đã khai quang, đảm bảo linh nghiệm.” Dĩ nhiên phải linh nghiệm rồi. Các thần quan khác mỗi ngày ít nhất có mấy ngàn người cầu phúc, bên tai vang ông ông, việc nhiều chút sẽ giao cho tiểu thần quan dưới quyền. Còn y mỗi ngày tối đa chỉ có vài người cầu phúc, thế nói xem cơ hội được nghe thấy của ai lớn hơn?

    Tất cả bà con chế giễu: “Đó là cái khỉ gì, chưa từng nghe bao giờ!” Tạ Liên nói tiếp: “Chưa từng nghe bao giờ cũng không sao, Bồ Tề quán nằm ở thôn Bồ Tề cách đây bảy dặm, hoan nghênh ghé thăm, ghé thăm không cần chuẩn bị nhang đèn…” Song chẳng đợi y nói hết câu, đám người đã vèo một tiếng tản mất. Người nào người nấy đi chưa bao xa đã tiện tay vứt phăng bùa hộ mệnh mà vừa rồi giành được, Tạ Liên lại đi theo sau nhặt từng cái một lên phủi cho sạch, điềm nhiên cất trở vào tay áo. Đang nhặt dở, một đôi giày vải dừng trước mặt y.

    Tạ Liên ngẩng đầu, chỉ thấy cặp mắt đen láy của Lang Huỳnh lộ ra từ băng vải, nhìn mình chằm chằm.

    Tạ Liên dịu giọng hỏi: “Sao vậy? Ngươi qua bên kia ngồi chung với Cốc Tử đi, chờ ta thêm một lát là được.”

    Lang Huỳnh lặng thinh. Đúng lúc này, cửa chính của một tòa nhà lớn ở đầu đường bên kia đột nhiên mở toang, một người bị quẳng ra, ngay sau đó là một tiếng rống giận: “Lang băm!”

    Người đi đường vội vàng vây đến xem náo nhiệt, lạch bà lạch bạch vài chục đôi chân giẫm qua, đống bùa hộ mệnh chưa kịp nhặt lên tức khắc bị giẫm cho vừa xẹp vừa bẩn vừa nát, Tạ Liên trố mắt nghẹn lời, không nhặt nữa, bảo Lang Huỳnh quay lại trông chừng Cốc Tử, còn mình đi theo xem thử rốt cuộc xảy ra chuyện gì. Chỉ thấy trước cửa tòa nhà đó, một gã đàn ông trông như phú thương (thương nhân giàu có) đang tranh luận gay gắt với một ông bác trông như đại phu. Phú thương kia tức giận mắng: “Hôm qua lúc tới đây ông nói gì? Chẳng phải ông nói mọi chuyện đều ổn không cần lo lắng sao? Hôm nay vậy là sao đây?! Phu nhân của ta không té ngã cũng chẳng ăn gì bậy, sao tự dưng lại thế chứ?!”

    Đại phu kêu oan: “Hôm qua ta tới xem phu nhân của ngài, đúng là nàng ta vẫn ổn mà! Ta thấy việc này ngài nên tìm đạo sĩ, không nên tìm đại phu!”

    Phú thương kia nổi cơn thịnh nộ, chống nạnh chỉ vào đại phu, quát: “Con trai ta còn chưa mất, cớ sao thứ lang băm như ông lại nguyền rủa nó! Coi chừng ta kiện cho ông táng gia bại sản!”
    Đại phu ôm hòm thuốc của mình, nói: “Ngài kiện ta cũng vô dụng thôi, mạch tượng này ta thật sự xem không hiểu! Quả thật đời này ta chưa thấy bao giờ!”

    Mọi người nhao nhao la ó: “Đổi đại phu khác đi!” “Tìm đạo sĩ đến xem đi!”

    Bản năng mách bảo Tạ Liên chuyện này có gì đó kỳ lạ, y đứng giữa đám người, giơ tay nói: “Mời nhìn sang nơi này. Đạo sĩ ở đây nè, ta chính là đạo sĩ.”

    Mọi người đồng loạt ngoảnh đầu, ngạc nhiên hỏi: “Chẳng phải ngươi là kẻ mãi nghệ biểu diễn tạp kỹ sao???”

    Tạ Liên đáp bằng giọng lễ độ: “Đó chỉ là nghề phụ thôi. Cảm ơn.” Dứt lời bước lên phía trước, hỏi: “Đưa ta đi gặp tôn phu nhân được không?”

    Trong nhà truyền đến từng đợt tiếng hét thảm, rõ là cả đám phụ nữ đã hoảng hết cả lên, đại phu mà phú thương kia mới gọi không đuổi đến ngay được, bí quá đâm hóa liều, không ngờ phú thương lại túm Tạ Liên chạy vào phòng thật. Tạ Liên tiện tay kéo ông đại phu kia vào luôn. Ba người vào phòng trong, dưới đất toàn là máu, một phụ nhân trẻ tuổi nằm trên giường lớn phủ màn hoa, đau đến chết đi sống lại, mặt cắt không còn giọt máu, tưởng chừng muốn ôm bụng lăn lộn, may là được mấy bà lão và hầu nữ ghìm lại. Còn Tạ Liên vừa đặt chân vào cửa, tóc gáy sau lưng đã dựng ngược:

    Âm khí trong phòng này cực nặng, mà âm khí đó truyền đến từ một nơi.

    Bụng của phụ nhân kia!

    Tạ Liên lập tức chặn những người phía sau, quát: “Đừng nhúc nhích! Thứ trong bụng nàng có vấn đề!”

    Phú thương hốt hoảng kêu lên: “Có phải phu nhân của ta sắp sinh không?!”

    Đại phu và mấy bà lão nghe không nổi nữa, nói: “Bây giờ mới có năm tháng, làm sao sinh được chứ!”

    Phú thương cáu lên mắng đại phu: “Không phải sắp sinh mà ông lại không biết là bệnh gì, lang băm! Ngay cả mạch tượng cũng xem không hiểu!”

    Mắt thấy phụ nhân kia sắp bất tỉnh, Tạ Liên quát: “Im miệng hết đi!” Đoạn trở tay rút kiếm Phương Tâm ra. Thấy Tạ Liên thình lình rút ra một thanh hung khí đen kịt dài mấy xích, mọi người bị dọa giật bắn mình, hỏi: “Ngươi muốn làm gì?!” Kế đến chỉ thấy Tạ Liên buông lỏng tay, còn thanh kiếm lại lơ lửng bay lên không trung!

    Lần này, tất cả mọi người sợ đứng hình.

    Phương Tâm lơ lửng bên trên, mũi kiếm hướng xuống, nhắm thẳng vào phần bụng nhô lên của phụ nhân kia. Sát khí của kiếm này cực nặng, mọi người thấy bụng của phụ nhân đột nhiên bắt đầu nhúc nhích, một cục thịt gồ lên, lúc thì nhích đến bên trái bụng, khi thì nhích sang bên phải. Nhích tới nhích lui, cuối cùng phụ nhân bỗng dưng ho sặc sụa, một làn khói đen bất chợt phọt ra từ miệng!

    Phương Tâm đợi đã lâu, chém một nhát khói đen bay tứ tán. Phụ nhân kia hét thảm một tiếng: “Con trai ta!” rồi ngất lịm tại chỗ.

    Bấy giờ Tạ Liên mới triệu hồi kiếm, cắm lại sau lưng, nói với đại phu: “Được rồi.”

    Đại phu trố mắt há mồm, Tạ Liên huơ tay mấy lần, ông ta mới do dự nhích lên trước. Phú thương tỏ vẻ mừng rỡ: “Giữ được con trai ta chứ?”

    Nào ngờ đại phu bắt mạch một hồi rồi nơm nớp lo sợ nói: “Mất rồi…”

    Phú thương sửng sốt, lát sau rống to: “Mất rồi? Sao tự dưng lại sảy được?!”

    Tạ Liên lại xoay người nói: “Thai của phu nhân ngài không phải sảy, là mất rồi, mất rồi ngài hiểu không?”

    Phú thương hỏi: “Mất rồi và sảy rồi không phải như nhau à?”

    Tạ Liên nói: “Hơi khác một chút. Sảy chỉ là sảy thôi. “Mất rồi” tức là ý này: Trong bụng của phu nhân ngài vốn dĩ có đứa bé, nhưng bây giờ không thấy nó đâu nữa.”

    Quả nhiên, khi nãy bụng của phụ nhân vẫn gồ lên, song hiện giờ rõ ràng không có bất cứ vết thương ngoài da nào, vậy mà nó lại xẹp xuống một cách rõ rệt, hơn nữa xẹp cực kỳ bất thường. Phú thương kia hỏi: “… Chẳng phải vừa rồi con trai ta còn nằm trong bụng nàng sao?!”

    Tạ Liên đáp: “Vừa rồi thứ nằm trong đó không phải con của ngài. Làm căng bụng phu nhân ngài chỉ là làn khói đen đó thôi!”

    Sau khi đại phu xác nhận phụ nhân kia chỉ ngất xỉu chứ không nguy hiểm tính mạng, bọn họ rời khỏi phòng. Phú thương hỏi: “Đạo trưởng xưng hô thế nào? Ngài đến từ quán nào? Thờ vị chân quân nào?”

    Tạ Liên đáp “Tại hạ họ Tạ”, vốn định nói tiếp “Bồ Tề quán”, song lời đến bên miệng, chẳng hiểu vì đâu lại sửa thành: “Thiên Đăng quán.”

    *Tại hạ họ Tạ: nguyên văn là “Miễn quý tính Tạ”, miễn quý = không cần dùng từ “quý”. Ví dụ người A hỏi quý danh của ngài là gì, người B đáp miễn quý tính X (tôi họ X), tức là đang nói khiêm tốn rằng không cần dùng từ quý, họ của mình cũng bình thường thôi chứ không có quý hơn người khác.

    Sau khi thốt ba chữ ấy, chẳng hiểu sao mặt y lại nóng lên. Phú thương “ồ” một tiếng, hỏi: “Chưa nghe bao giờ. Xa lắm phải không?”

    Tạ Liên cũng chẳng biết có xa không, khẽ đáp: “Ừ…”

    Hàn huyên đôi câu xong, phú thương mới cuống quýt hoảng hốt nói: “Đạo trưởng! Rốt cuộc vừa rồi là yêu quái gì thế? Thứ mà phu nhân vẫn luôn mang trong bụng… chính là thứ đó sao? Một luồng khí đen?!”

    Sau khi đổi đề tài, Tạ Liên cũng chỉnh lại sắc mặt, nói: “Chưa chắc là vẫn luôn. Chẳng phải ngài đã nói, hôm qua lúc mời đại phu đến xem, phu nhân của ngài vẫn còn khỏe mạnh sao? Ắt hẳn khi đó mạch tượng còn ổn định, hôm nay lại rối loạn thế này, e rằng thai nhi gặp chuyện vào tối qua. Tốt nhất ngài nên ngẫm lại xem, tối qua phu nhân của ngài có làm chuyện gì không? Hoặc có xảy ra chuyện gì quái lạ không?”

    Phú thương nói: “Tối qua không có xảy ra chuyện gì hết, phu nhân của ta cũng đâu có ra ngoài! Từ sau khi thắp nhang ở điện Cự Dương cầu được đứa con này, nàng bèn dựng riêng một điện thờ Cự Dương chân quân trong nhà, ngày nào cũng tụng kinh thắp nhang không rời cửa nửa bước, thành kính muốn chết!”

    “……” Tạ Liên nhủ thầm nếu để Phong Tín biết có người cúng mình như thế thì mới muốn chết đó. Suy nghĩ một hồi, y hỏi tiếp: “Vậy, có gặp giấc mộng nào quái lạ không?”

    Phú thương hoảng sợ, nói: “Có!”

    Tạ Liên vực dậy tinh thần, chỉ nghe phú thương nói tiếp: “Đạo trưởng ngươi quả là liệu sự như thần! Tối qua đúng là phu nhân của ta đã gặp một giấc mộng quái lạ, nàng mơ thấy một đứa bé chơi với mình, gọi mình là mẹ. Mơ đến nửa đêm, chợt cảm giác có thứ gì đá bụng mình nên choàng tỉnh, còn mừng rỡ nói với ta rằng biết đâu chừng đứa con trong bụng nóng lòng muốn gặp mặt cha mẹ nên mới chào hỏi trước. Lúc đó ta còn trêu nàng nữa!”

    Trong nháy mắt, Tạ Liên đã có kết luận, nói: “Vậy là đứa bé này có vấn đề!”

    Ngừng một chút, y hỏi tiếp: “Đứa bé này tầm mấy tuổi? Trông như thế nào? Phu nhân của ngài có nói không?”

    Phú thương sợ đến nỗi mồ hôi lạnh chảy ròng, đáp: “Chỉ e nàng không nhớ gì đâu, lúc đó kể cho ta nghe, nàng không nói chính xác rốt cuộc bao nhiêu tuổi, chỉ lờ mờ cảm thấy hẳn là rất nhỏ, còn muốn nàng bế, bế trên tay nhẹ lắm.”

    Trầm ngâm giây lát, Tạ Liên nói: “Ta hỏi ngài thêm một vài câu, ngài phải thành thật trả lời, bằng không việc này khó mà tra rõ. Thứ nhất, trong phủ của ngài có chuyện cơ thiếp tranh sủng không? Thứ hai, trước đây vị phu nhân này của ngài có từng phá thai chưa?”

    Hỏi có cơ thiếp tranh sủng hay không là để xem có khi nào là nguyền rủa rùm lên do ghen tuông giành chồng không, một khi nữ nhi quanh năm trói chân tại sân rộng nhà sâu bắt đầu ghen tỵ, vậy thì chuyện gì cũng dám làm. Hỏi có từng phá thai chưa là vì nếu từng phá bỏ thai bởi nguyên nhân không chính đáng nào đó, có thể sẽ có oán niệm sót lại trong cơ thể mẹ ruột, không cho đứa con mới sống yên.

    Qua nhiều lần xác nhận của Tạ Liên, phú thương kia mới thành thật khai báo, không ngờ đoán trúng hết. Trong phủ của gã chẳng những có vài cơ thiếp, suốt ngày lằng nhằng lải nhải, bên ngoài còn nuôi vợ bé, mải miết ngóng trông được đón vào. Tiếp đó, tỳ nữ bên người phu nhân này cũng khai báo, ban đầu chủ nhân của nàng là thiếp, từng mang thai một lần, nhẹ dạ tin lời một ít phương thuốc dân gian của lang trung giang hồ, nhận định thai đó là con gái, nhưng nàng muốn sinh con trai để lên làm vợ cả nên mới uống thuốc phá bỏ đứa con đó.

    Nghe xong, Tạ Liên nhức cả đầu. Phú thương kia thấp thỏm lo sợ hỏi: “Đạo trưởng, phải chăng là đứa con gái chưa chào đời đó trả thù?”

    Tạ Liên nói: “Có khả năng là thế, nhưng không phải hoàn toàn là thế. Dù sao phu nhân của ngài cũng không nói rõ rốt cuộc đứa bé trong mộng bao nhiêu tuổi, là nam hay nữ.”

    Phú thương hỏi tiếp: “Vậy… đạo trưởng ơi, nếu luồng khí đen đó chỉ mới chui vào bụng phu nhân ta tối qua, vậy… con trai ta đi đâu rồi?”

    Chương 94: Mang thai quỷ, nhân gian lần nữa nổi sóng 2

    Tạ Liên nói: “Có lẽ, bị ăn rồi.”

    Phú thương run bắn: “Bị, bị ăn?!”

    Tạ Liên gật đầu. Phú thương hỏi tiếp: “Vậy, đạo trưởng ơi, bây giờ nên làm sao đây? Ta còn một vị Như phu nhân cũng đang mang thai nè, lỡ như con yêu quái đó quay trở lại thì tính sao?!”

    Không ngờ trong nhà gã vẫn còn một phụ nhân có thai!

    Tạ Liên nhấc tay nói: “Bình tĩnh đừng sốt ruột, ta hỏi thêm chút, phu nhân của ngài có còn nhớ, nơi mà nàng gặp đứa bé đó trong mộng là ở đâu không?”

    Phú thương đáp: “Nàng nói chỉ loáng thoáng nhớ được một gian nhà lớn, nhiều hơn nữa chắc chắn không nhớ đâu. Một giấc mộng thôi, ai mà nhớ rõ thế chứ?” Đoạn nghiến răng nghiến lợi: “Ta… ta hơn bốn mươi tuổi mới trông được một đứa con trai, ta khổ quá đi thôi! Đạo trưởng, ngươi bắt giết con yêu quái đó được không? Không thể để nó hại người nhà ta nữa!”

    Tạ Liên nói: “Đừng sợ, đừng sợ. Ta sẽ cố hết sức.”

    Phú thương mừng ra mặt, xoa tay nói: “Được được được, đạo trưởng cần những gì? Thù lao không thành vấn đề!”

    Tạ Liên nói tiếp: “Thù lao thì không cần, chỉ cần ngài lo liệu giúp vài chuyện. Thứ nhất, phiền ngài tìm một bộ đồ nữ bỏ không cho ta, nhất định phải đủ rộng, nam nhi cũng mặc được, vả lại e rằng còn cần một sợi tóc của Như phu nhân của ngài, dùng để làm phép.”

    Phú thương ra lệnh cho người hầu: “Ghi lại ghi lại!”

    Tạ Liên nói: “Thứ hai, mời căn dặn Như phu nhân đang mang thai của ngài, tốt nhất đổi sang phòng khác ngủ, nhưng mặc kệ ở bất cứ đâu, vào bất cứ lúc nào, hễ nghe có giọng trẻ con xa lạ gọi mình là “mẹ”, hãy nhớ đừng đáp lại. Tuyệt đối đừng đáp lại, ngậm chặt miệng là tốt nhất. Tuy rằng lúc nằm mơ thông thường ta sẽ không biết là mình đang nằm mơ, mê man mất trí, nhưng nếu ngài dặn đi dặn lại bên tai nàng, khiến đầu óc nàng khắc sâu điều này, biết đâu sẽ có tác dụng.”

    Phú thương đồng ý, Tạ Liên nói tiếp: “Thứ ba, ta có dẫn theo hai bạn nhỏ, phiền ngài giúp ta chăm sóc chúng nó, thu xếp một bữa cơm ngon.”

    Phú thương nói: “Mấy chuyện vặt vãnh này, đừng nói là vài chuyện, cho dù một trăm chuyện ta cũng làm cho ngươi được!”

    Rốt cuộc đến việc quan trọng nhất sau cùng, Tạ Liên nói: “Thứ tư.”

    Y lấy một lá bùa hộ mệnh được Bồ Tề quán khai quang ra khỏi tay áo, đưa bằng hai tay, nói một cách hết sức trịnh trọng: “Xin ngài hô lớn một câu “Xin Thái tử điện hạ bảo vệ ta!” trước lá bùa hộ mệnh này. Vậy thì việc này mới được ghi vào danh nghĩa của quán ta.”

    “……”

    Ban đêm, Tạ Liên lại thay một thân đồ nữ.
    Tuy nói y mặc đồ nữ có vẻ đã quen việc dễ làm, nhưng đóng vai thai phụ vẫn là lần đầu tiên. Y nhìn gương trang điểm, tốn chưa đến nửa nén nhang, cuối cùng nhét cái gối vào bụng mình, sau đó giấu sợi tóc của phụ nhân có thai vào trong gối. Tạ Liên nằm yên trên giường, bình tâm tĩnh khí, thả chậm nhịp thở, chẳng mấy chốc đã mê man thiếp đi.

    Không biết qua bao lâu, Tạ Liên chậm rãi mở mắt ra, đập vào tầm mắt không còn là gian phòng của tiểu thiếp kia nữa, mà là một gian lầu gác nguy nga.

    Phản ứng đầu tiên của Tạ Liên là mò xem Phương Tâm có ở bên mình không, mò được rồi mới yên lòng. Dù sao Phương Tâm cũng là một thanh bảo kiếm, thế nên nó được buộc chặt vào người y. Tiếp theo, Tạ Liên từ từ ngồi dậy, chợt phát hiện lòng bàn tay dính nhớp, giơ lên xem thử mới nhận ra mình đang nằm trên một chiếc giường, mà từng mảng vết máu to tướng trên giường phải nói là đáng sợ khủng khiếp, chúng vẫn chưa khô hết, nhuộm đỏ cả nửa người y, nhìn mà hết cả hồn.

    Tạ Liên cũng không lấy làm lạ, xuống giường đi vài bước, bỗng dưng cảm thấy có thứ gì đó rơi xuống từ người mình. Y cúi đầu nhìn thử, không ngờ lại là chiếc gối kia, bèn vội vàng nhặt lên nhét trở lại. Đi thêm vài bước, bụng lại rớt xuống, Tạ Liên chỉ đành dùng hai tay bưng nó, quan sát xung quanh.

    Từ nhỏ lớn lên trong hoàng cung, nhìn quen mắt nghe quen tai nên cũng vô thức đổi thay, đối với đẹp và không đẹp, Tạ Liên tự có cách nhìn của riêng mình. Theo y thấy, tuy tòa nhà nhỏ này nguy nga tráng lệ thật, thế nhưng ngập mùi son phấn, nếu bảo y đoán, cảm giác cứ như một gian tửu lâu hoặc chốn tìm hoan vui thú. Hơn nữa, so với phong cách của những kiến trúc thịnh hành ngày nay, phong cách này đích thực có hơi cổ kính, hệt như phòng ốc của mấy trăm năm trước, chẳng biết rốt cuộc là nơi nào.

    Nếu đã như vậy, có rất ít khả năng là linh hồn thai nhi của đứa con gái bị phá bỏ của phú thương đang quấy phá. Bởi lẽ ảo giác do quỷ quái dựng nên thường dựa vào nhận thức của chính nó, rõ ràng loại phòng cổ thuộc mấy trăm năm trước này chỉ tồn tại trong nhận thức của quỷ quái mấy trăm tuổi mà thôi. Đi quanh một vòng, chẳng thấy bóng người nào, Tạ Liên lại quay về gian phòng mà ban đầu mình nằm.

    Đây là một gian phòng ngủ của phụ nữ, có đặt bàn trang điểm, tủ cũng mở ra được, bên trong chứa một ít quần áo và đồ chơi của trẻ con như búp bê, trống bỏi. Tạ Liên kiểm tra từng thứ một, phát hiện toàn là đồ mới toanh, có thể thấy nữ chủ nhân nơi này rất trân trọng những vật đó. Nói cách khác, với “đứa con” của mình, người phụ nữ ấy dành trọn lòng yêu thương.

    Lại lục lọi một hồi, Tạ Liên bỗng nhiên giật mình, trong quần áo của đứa bé này còn kẹp một tấm bùa hộ mệnh. Mà tấm bùa hộ mệnh đó, thế mà lại là bùa hộ mệnh của y!

    Do quá đỗi kinh ngạc, Tạ Liên không khỏi muốn xác nhận nhiều lần. Đúng vậy, đây đích thực là bùa hộ mệnh của y. Hơn nữa không phải loại bùa hộ mệnh thô sơ mà hiện giờ y tự lên núi hái cỏ thơm, tự mình tết, tự mình vẽ, tự mình mua chỉ đỏ buộc lại, mà là loại bùa hộ mệnh lưu hành cả nước gần như người nào cũng cầm một cái vào tám trăm năm trước, thuở Thái tử Tiên Lạc chói sáng nhất, vật liệu và hoa văn của tấm bùa vô cùng tinh xảo, đến từ nơi nào, đã khai quang chưa, tất cả đều rõ mồn một.

    Chẳng lẽ nữ chủ nhân của gian nhà này từng là tín đồ của y?

    Đúng lúc ấy, giữa không gian lặng ngắt như tờ, Tạ Liên bỗng nghe được một tràng cười hi hi ha ha.

    Mặc cho nó mở miệng thế nào, kêu la thảm thiết ra sao, Tạ Liên vẫn bình chân như vại, ngay cả miệng cũng không mở. Y có thể kết luận, linh hồn trẻ con này là một linh hồn thai nhi, gian phòng này là nơi nó hoặc mẹ nó từng sống. Do nó không có hình dạng chính xác nào, giả sử khi chết bao nhiêu tuổi thì lúc quấy phá sẽ xuất hiện với hình dạng bấy nhiêu tuổi, nhưng phần lớn thời gian nó lại là một luồng khói đen, hoặc là một bóng trắng mờ ảo, điều này chứng tỏ chính nó cũng không dám chắc mình nên mang hình dáng nào. Hơn nữa đống quần áo trẻ con trong tủ rõ ràng chưa từng được mặc, cộng thêm hàng loạt vết máu đáng sợ trên chiếc giường, Tạ Liên suy đoán ắt hẳn nữ chủ nhân gian phòng này bị sảy thai, mà đứa con chưa chào đời của nàng ta đã thành hình, có chút ý thức của riêng mình, sau khi hóa thành linh hồn thai nhi, nó muốn trở lại trong bụng mẹ nên mới tìm đến phu nhân của phú thương kia.

    Trong mộng, nó mở miệng gọi phụ nhân kia là “mẹ”, phụ nhân kia bậy ở chỗ mở miệng đáp lại nó. Phải biết rằng, ràng buộc giữa “mẹ” và “con” không tầm thường, đáp lại như thế chẳng khác nào một sự “cho phép” thích gì cứ lấy. Khi phụ nhân mở miệng lần nữa, vừa khéo tạo cho tà vật cơ hội nhắm ngay chỗ yếu mà xâm nhập, thế nên tiểu quỷ đó mới chui vào miệng nàng, trượt xuống bụng nàng, ăn trọn thai nhi vốn nằm trong bụng nàng, cuối cùng chiếm luôn vị trí của thai nhi. Dù rằng Tạ Liên là nam, song y cũng không dám chắc nếu mình mở miệng đáp lại, linh hồn trẻ con đó có thừa cơ chui vào bụng mình luôn không, nhưng vì phòng ngừa vạn nhất, ngậm miệng vẫn tốt hơn.

    Thế là đằng này Tạ Liên ngậm chặt miệng, đằng kia cầm kiếm Phương Tâm, truy lùng tung tích của đứa bé khắp nơi. Từ trước đến nay, trực giác của y đối với nguy hiểm vẫn luôn bén nhạy, cũng nhờ tôi luyện từ muôn ngàn thử thách trong vô số lần thực chiến. Y vốn chẳng cần nhìn kỹ, nghi ngờ nó ở đâu là đâm một nhát vào đó, tám chín phần mười đều đâm trúng. Mặc dù đang kẹt trong ảo cảnh do linh hồn trẻ con đó dựng nên, tổn thương mà Tạ Liên gây cho nó cũng yếu mất vài phần, nhưng nó bị Tạ Liên đâm trúng nhiều lần, có lẽ cũng chịu hết nổi. Qua một hồi, Tạ Liên chợt cảm thấy dưới chân đau nhói, ra là giẫm phải thứ gì đó cực bén, khiến y không khỏi khựng lại.

    Thấy Tạ Liên trúng chiêu, dường như linh hồn trẻ con đã bật ra một tiếng cười gian xảo ngắn ngủi. Tuy tiếng cười nghe non nớt thật, nhưng tuyệt nhiên không phải tiếng cười do con nít phát ra, trái lại nghe như nó thuộc về một người trưởng thành nham hiểm, khác biệt một trời một vực, khiến người ta sởn hết gai ốc. Ngờ đâu Tạ Liên lại mặt không đổi sắc, chẳng ngừng một bước, trở tay đâm thêm một nhát. Lại đâm trúng lần nữa!

    Linh hồn trẻ con “á” một tiếng, ăn phải quả đắng, tránh ra thật xa. Bấy giờ Tạ Liên mới cúi đầu nhìn đế giày của mình, ra là giẫm trúng một cây kim nhọn dựng ngược. Tất nhiên là do linh hồn trẻ con cố ý đặt ở đó, xem ra nó thật sự rất mong Tạ Liên sẽ đau đến kêu oai oái. Tiếc rằng nó đã tính sai, Tạ Liên nhịn đau cực giỏi, đừng nói là giẫm trúng một cây kim, dẫu cho bị bẫy bắt thú dài mấy xích kẹp cẳng chân, nếu cần thiết y vẫn có thể nín nhịn không rên tiếng nào.

    Cây kim nhỏ bé đâm sâu hoắm, Tạ Liên vốn định lấy nó ra trước, nhưng sau khi bị ép khuất phục, linh hồn trẻ con chợt nhảy tót ra ngoài. Sợ nó thừa cơ chạy trốn sát hại người khác, Tạ Liên giẫm kim rượt ra khỏi phòng, chẳng mấy chốc đã không còn cảm giác đau đớn, bước tiến nhanh như bay. Tìm khắp tòa nhà một lượt cũng không thấy nó đâu, Tạ Liên không khỏi buồn bực: “Lẽ nào bị mình đánh cho sợ rồi?” Đúng lúc này, một khung cửa sổ cách đó không xa tự mở toang dù chẳng hề có gió.

    Tạ Liên lập tức chạy qua, vừa bước lên nhìn thì ngây ngẩn cả người. Chỉ thấy ngoài cửa sổ không có đường phố, không có núi non, không có người đi đường, chỉ có một hồ nước sâu nhìn không thấy đáy.

    Đối diện hồ nước sâu là một gian phòng, trong phòng có hai đứa nhóc đang ngồi quanh bàn xới cơm, chính là Lang Huỳnh và Cốc Tử. Tuy nhiên, chúng nó hoàn toàn không phát hiện trên đầu mình có một làn sương đen dày đặc đang quay vòng vòng, phát ra tiếng cười đùa khúc khích, cất giọng lanh lảnh gọi: “Mẹ ơi! Mẹ ơi!”

    Cõi lòng bỗng chốc căng thẳng, Tạ Liên đặt hai tay lên song cửa, vô thức muốn lên tiếng cảnh báo, nhưng sực nhớ mình không thể mở miệng, nên đành cố giữ im lặng.

    Tuy rằng đây chỉ là ảo giác do linh hồn trẻ con đó tạo ra, nhưng y không biết Lang Huỳnh và Cốc Tử có bị lôi vào luôn không. Nếu là như thế, tổn thương mà chúng phải nhận trong đây sẽ thể hiện nặng hơn trên người chúng ngoài đời thực. Tạ Liên muốn tìm lọ hoa ném qua cảnh báo, nhưng chẳng tìm được thứ nào để ném, bàn ghế thì ném không ra, giữa hai gian phòng lại là một hồ nước lớn, lẽ nào muốn y bơi qua?

    Lúc này, Cốc Tử ủ rũ ngáp một cái, làn khói đen đột nhiên tụ lại, trông như sắp chui vào miệng nó.

    Lớp phòng ngự của cơ thể trẻ con rất yếu, mặc dù không được cho phép, biết đâu chừng thứ này vẫn có thể xâm phạm. Chẳng còn thời gian để từ từ suy tính hay từ từ bơi qua, Tạ Liên lập tức đưa ra quyết định, quát: “Ngậm miệng! Chạy đi!”

    Lời vừa thốt ra, quả nhiên Lang Huỳnh và Cốc Tử đều giật mình choàng tỉnh, sợ đến mức đồng loạt ngậm miệng, nhảy bật dậy ngay. Linh hồn trẻ con thoáng chốc biến mất tăm, mà giây tiếp theo, một làn khói đen nổ bùng trước mặt Tạ Liên!

    Dù rằng quát xong ngậm miệng ngay, Tạ Liên vẫn cảm giác được một luồng khí lạnh trút vào miệng mình, khói đen chui vào bụng, ngũ tạng lục phủ như sắp đông cứng trong nháy mắt. Y cắn chặt răng, tức tốc tháo vài tấm bùa hộ mệnh, lấy cỏ thơm và giấy bùa bên trong ra, cố sức nhai nát rồi nuốt xuống. Không lâu sau, cổ họng ngứa ran, làn khói đen bất chợt bị y nôn ra!

    Tạ Liên dùng tay áo che miệng, ho khù khụ, sặc đến ứa nước mắt, vội vàng cân nhắc kế sách đáp trả. Sau khi bị Tạ Liên nôn ra, làn khói đen vẫn bao trùm nửa người trên của y, bám riết không tha. Tạ Liên bèn nhấn tay lên song cửa sổ một cái, tung người nhảy vào hồ nước ngoài cửa sổ.

    “Tùm” một tiếng, Tạ Liên rớt sâu xuống hồ. Y nín thở, xếp bằng hai chân rồi chắp hai tay lại, làm tư thế thiền, mặc cho cơ thể từ từ chìm dần dưới hồ nước lạnh buốt. Sau khi nhịp tim bình phục, Tạ Liên ngẩng đầu lên nhìn, loáng thoáng trông thấy một làn sương đen lượn vòng phía trên, phong tỏa toàn bộ mặt nước. Chỉ cần y vừa trồi lên, tất sẽ hít mạnh một hơi, mà chỉ cần y hít hơi đó, chắc chắn sẽ hít trọn linh hồn trẻ con vào bụng. Nếu một người đàn ông đang yên đang lành tự dưng to bụng, thế thì chẳng dễ nhìn chút nào.

    Có điều nhảy xuống nước chỉ vì muốn tìm chút thời gian rảnh để suy tính mà thôi, không lâu sau, Tạ Liên đã nghĩ được cách đối phó với nó, nhủ thầm: “Nuốt nó vào có sao đâu, mình nuốt luôn cả Phương Tâm là được.” Hồi còn mãi nghệ đầu đường, Tạ Liên cũng từng học chiêu nuốt kiếm, tuy nuốt xuống có thể gây hại sức khỏe, nhưng nhìn chung không có gì đáng nói, dù sao chỉ cần bắt được linh hồn trẻ con đó là tốt rồi.

    Sau khi hạ quyết tâm, Tạ Liên thả tay ra, bơi sang bên cạnh. Lại nghe phía trên vang lên một tiếng nước nặng trịch, trong lúc bất chợt, trước mắt đã bị những mảng màu đỏ thẫm to lớn chói lóa chiếm cứ.

    Sợi tóc đen nhánh lượn lờ bao phủ toàn bộ đường nhìn của Tạ Liên, bọt nước và bọt khí “ùng ục ùng ục” tụ tập lại, chẳng còn nhìn rõ gì nữa. Tạ Liên chớp chớp mắt, cố gạt đống bọt khí cuồn cuộn trăm tơ ngàn mối tựa thủy tinh kia ra, sau đó cảm nhận được một đôi tay rắn chắc. Một tay ôm hông y, tay còn lại nắm cằm y.

    Giây tiếp theo, một vật mềm mại lạnh buốt lấp kín môi y.

    Tác giả nói:

    Bùa hộ mệnh chắc như danh thiếp ớ… Chào đằng ấy đây là bùa hộ mệnh mà bản điện đã khai quang = Chào bạn đây là danh thiếp của tôi.

    Chương 95: Tơ lòng rối bời, đừng nói tim không xao xuyến (1)

    Đột nhiên, Tạ Liên trợn to hai mắt.

    Đời này y chưa từng bị ai đối xử như vậy cả. Thứ nhất không ai dám, thứ hai không ai đủ khả năng. Thế mà người này như ma như quỷ, xuất hiện quá nhanh, Tạ Liên còn chẳng kịp đề phòng thì đã rơi vào tình cảnh như thế, nhất thời luống cuống tay chân, cố sức muốn đẩy đối phương ra, nhưng chỉ sặc thêm vài ngụm nước, “ùng ục ùng ục”, bọt nước như hạt thủy tinh phun từng chuỗi từ miệng y, đây chính là điều tối kỵ khi ở dưới nước. Ngay sau đó, đối phương siết hông Tạ Liên chặt hơn, cơ thể hai người càng kề sát nhau hơn, đôi tay đang đẩy loạn xạ của Tạ Liên bị ép gập trước ngực chính y, khiến y không sao nhúc nhích nổi, môi cũng bị chặn kín, hôn càng nồng nhiệt hơn, một luồng khí dịu nhẹ giá lạnh từ từ truyền qua. Giữa lúc ngỡ ngàng luýnh quýnh và nhẫn nhục chịu đựng, Tạ Liên thấy rõ mặt mũi của đối phương.

    Là Hoa Thành.

    Ngay khi phát hiện là Hoa Thành, Tạ Liên ngừng giãy dụa ngay, trong lòng toát ra thật nhiều suy nghĩ linh tinh hỗn loạn không đúng lúc tí nào, chẳng hạn như: Thì ra là Hoa Thành, thảo nào lạnh như thế. Quỷ không cần hít thở, vậy mà cũng truyền khí cho mình được. Nhưng chẳng lẽ quỷ không chìm xuống nước?

    Đúng lúc này, Hoa Thành thình lình mở mắt ra.

    Ngay khoảnh khắc đối diện với ánh mắt đen láy gần trong gang tấc đó, Tạ Liên lại cứng đơ cả người, thế rồi bỗng chốc vùng vẫy, đạp nước thình thịch, hệt như một con vịt vụng về chẳng may chìm dưới nước. Động tác đạp nước đó bị Hoa Thành hóa giải một cách dễ dàng, hắn ôm hông Tạ Liên, tức tốc bơi lên trên. Không lâu sau, hai người bất chợt trồi lên khỏi mặt nước!

    Đáy nước lạnh buốt, không khí cũng lạnh ngắt, nhưng toàn thân Tạ Liên giờ đây nóng hầm hập. Lúc vừa trồi khỏi mặt nước, y đã muốn quay đầu đi, nhưng làn khói đen như hổ rình mồi vẫn còn che phủ bên trên. Mắt thấy có người trồi lên, nó lập tức bủa vây. Tạ Liên chỉ mới quay đầu qua một chút, chưa chi đã bị Hoa Thành dùng tay ghìm gáy vặn trở lại, bốn phiến môi còn chưa tách rời bao lâu lại dán chặt vào nhau. Tạ Liên bị hôn đến nỗi cánh môi vừa đau vừa tê, gần như muốn mất luôn tri giác. Nếu là người khác, y đã đâm một nhát kiếm từ lâu rồi, nhưng đối phương lại là Hoa Thành, y hoàn toàn không biết nên làm sao cho phải, bị dồn ép đến mức ứa nước mắt. Lúc này, Tạ Liên nhìn thấy từ bên cạnh hai người, hàng nghìn hàng vạn con bướm bạc bay ào khỏi mặt nước, lướt qua mặt Hoa Thành!

    Kéo theo một tiếng rít chói tai, trận mưa bướm chi chít như đạn thép bắn tung tóe từ dưới mặt nước, cánh bướm phản chiếu ánh sáng sắc lạnh như lưỡi dao, tức khắc cứa cho linh hồn trẻ con hét thảm luôn mồm, khói đen bay tán loạn, chạy thục mạng khắp nơi. Tiếc thay, đàn bướm che trời rợp đất đã vây nó ở giữa, dẫu nó xông ngang đánh thẳng thế nào cũng không xông ra được. Còn Hoa Thành lại chẳng buồn ngước mắt, ôm Tạ Liên lặn xuống nước lần nữa. Qua một hồi, cuối cùng môi hai người cũng tách ra.

    Vừa rời nhau, Tạ Liên lại nôn một chuỗi bọt khí, còn Hoa Thành thì dành ra một tay, ném một viên xí ngầu. Không ngờ viên xí ngầu vẫn có thể xoay cực nhanh trong nước, tạo nên một dòng xoáy mạnh mẽ, cuối cùng mới ngừng lại. Lát sau, hai người trồi lên khỏi mặt nước lần nữa.

    Lần này, cách đó không xa chính là bờ, Hoa Thành bèn dẫn Tạ Liên bơi qua. Không biết bờ này là bờ ở đâu, có đèn đuốc và tiếng người như gần như xa. Tại mặt nước phía sau, đàn bướm cắp theo một làn khói đen phóng lên tận trời, bay về nơi thấp thoáng ánh đèn ấy, chỉ để lại tiếng hô dài thảm thiết suốt một đường của thai linh: “Mẫu thân –!!!”

    Hai người lên bờ, ngồi phịch xuống đất. Mặt đối mặt như thế, bấy giờ Tạ Liên mới nhìn rõ dáng vẻ của Hoa Thành đối diện mình.

    Thật ra hai người họ chỉ mới không gặp nhau vài ngày thôi, song Tạ Liên cảm thấy dường như hai người đã không gặp nhau rất lâu rồi. Mỗi lần gặp mặt, Hoa Thành luôn đẹp một cách khác biệt, hình như lần này hắn lại lớn hơn lần trước một hai tuổi. Gương mặt của Hoa Thành vốn đã tuấn tú, ra khỏi mặt nước trông càng lóa mắt hơn. Sợi tóc đen nhánh, màu da trắng muốt, bên má phải là một lọn tóc cực mảnh tết thành bím tóc nhỏ, một sợi chỉ đỏ được dày công bện vào. Đây là lần đầu tiên Tạ Liên phát hiện, phía trên vị trí giữa trán của Hoa Thành có một mỹ nhân tiêm* nho nhỏ, tôn lên nét đẹp tinh tế cho gương mặt của hắn. Mặt khác, con mắt bị đồ bịt màu đen che phủ tăng thêm vài luồng sát khí, giảm bớt phần tinh tế ấy, giúp nét đẹp của Hoa Thành đạt mức cân đối gần như hoàn mỹ.

    *Mỹ nhân tiêm: Phần chân tóc mai tạo thành hình chữ M.

    Hoa Thành nhíu mày, dường như đang nhẫn nhịn, thở gấp vài hơi rồi mở miệng, rõ ràng chất giọng còn trầm đục hơn xưa, nói: “Điện hạ, ta…”

    Từ người ngợm đến tóc tai của Tạ Liên đều đang nhỏ nước tong tỏng. Môi y sưng đỏ, hai mắt rời rạc, ngớ ra cả buổi mới ngập ngừng lên tiếng: “Ta… ta… ta…”

    Chẳng biết “ta” bao nhiêu lần, Tạ Liên mới chợt thốt ra một câu không giống ai: “Ta thấy hơi đói.”

    Nghe vậy, Hoa Thành sửng sốt.

    Tạ Liên còn chưa phục hồi tinh thần khỏi cơn khiếp sợ, lóng ngóng nói: “Không phải. Ta… ta… ta thấy hơi buồn ngủ…”
    Y trở mình, đưa lưng về phía Hoa Thành, hai tay và đầu gối chạm đất, chậm chạp mò mẫm, dường như đang tìm đồ. Hoa Thành ở sau lưng y hỏi: “Huynh đang tìm gì thế?”

    Tạ Liên chỉ vô thức không dám nhìn Hoa Thành, miệng nói năng loạn xạ: “Ta đang tìm đồ. Ta đang tìm nón của ta. Nón của ta đâu rồi?”

    Nếu đổi người khác đến xem, thấy tình cảnh trước mắt, chắc chắn sẽ hét thảm một tiếng: “Thôi xong, ngu người rồi!” Thật ra chỉ vì Tạ Liên chưa từng trải nghiệm chuyện này bao giờ, nhất thời chịu cú sốc quá lớn nên hơi mất kiểm soát mà thôi. Tạ Liên dùng cả tay lẫn đầu gối, đưa lưng về phía Hoa Thành, đi vài bước trên đất, lẩm bẩm: “…Ta, ta tìm không thấy. Ta phải đi. Ta phải về nhà ăn cơm… ta phải lượm đồng nát…”

    “…”

    Hoa Thành nói: “Xin lỗi.”

    Phát hiện giọng nói của Hoa Thành truyền đến từ đằng sau đã đến gần, Tạ Liên bỗng nhảy dựng lên, hô lớn: “Ta phải đi!”

    Tiếng hô của y nghe như đang kêu cứu mạng vậy. Hoa Thành quát: “Không được!”

    Tạ Liên hối hả muốn chạy, song chưa chạy được mấy bước, lòng bàn chân chợt nghiêng ngả, té nhào xuống đất lần nữa. Ngoảnh đầu lại nhìn, dưới đất trải dài vết máu, cây kim đâm vào lòng bàn chân nay đã ghim trọn vào trong. Hoa Thành túm lấy mắt cá chân của y, đổi giọng điệu hỏi: “Huynh sao thế?”

    Tạ Liên vội vã rút chân về, nói: “Không sao không sao không sao hết, ta không đau tí nào, không sao cả!”

    Hoa Thành hơi tức giận: “Sao huynh không đau cho được!” Nói đoạn bắt đầu động tay, coi bộ muốn tháo giày của y, dọa cho Tạ Liên sợ đến mức cắm đầu bò về phía trước, vừa bò vừa la: “Đừng mà đừng mà đừng mà, đừng mà!”

    Tạ Liên bò về phía trước, Hoa Thành bèn kéo lại không cho y bò. Chỗ này loạn hết cả lên, cuối cùng cũng kinh động những người khác trên bờ, một tràng trống gõ chiêng khua quỷ khóc sói tru vang lên, một đám dưa méo táo thối chẳng biết là cái giống gì rối rít vây quanh đây, kêu la oai oái: “To gan thật! Đứa nào đấy! Không biết đây là đâu sao? Chán sống hay muốn chết thêm lần nữa? Ta… ối mẹ ơi, chẳng phải đây là thành chủ sao?!”

    Đám quỷ lập tức hùa nhau la lớn: “Chào ngài thành chủ lão nhân gia!”

    *Lão nhân gia: cách xưng hô kính trọng với người lớn tuổi/ địa vị cao.

    Tạ Liên âm thầm kêu thảm, chỉ hận không thể đưa hai tay che mặt. Không ngờ nơi này lại là chợ Quỷ!

    Trong đám quỷ có nhiều kẻ lần trước Tạ Liên chỉ mới liếc vội một cái, ngoài ra y còn trông thấy một cái đầu heo quen thuộc. Hai người bọn họ ướt sũng, bị vô số người lẫn quỷ vây xem, Hoa Thành còn đang nắm cổ chân y không buông, cuối cùng cảnh tượng gây chấn động mạnh này cũng khiến y tỉnh táo phần nào.

    Ngờ đâu sau khi thấy rõ một người trong số đó là Hoa Thành, đám quỷ càng hưng phấn hơn, hú hét: “Thành chủ! Có phải ngài muốn hấp diêm nó không! Có cần giúp một tay không! Bọn ta đè nó giúp ngài!”

    Hoa Thành mắng: “Cút!”

    Đám quỷ bèn co giò cút lẹ. Nhưng cho dù bọn chúng vây xem từ đằng xa, không dám đến gần nhìn, Tạ Liên cũng muốn ngất xỉu cho xong, bởi vì Hoa Thành đã đứng dậy, khom lưng vơ nhẹ một cái, bế Tạ Liên lên, bình tĩnh đi về phía bờ.

    Trên người Tạ Liên còn mặc đồ nữ, phải nói may là gối đầu chẳng còn trong bụng, không thì hình ảnh này có thể đáng sợ hơn ấy chứ. Chỉ là cảm giác đáng sợ ấy đã giúp Tạ Liên tỉnh táo hẳn, y giãy dụa mấy cái trong khuỷu tay của Hoa Thành, tiếc rằng không giãy thoát được, chỉ đành ho nhẹ một tiếng, nói: “…Tam Lang, xin lỗi nha. Khi nãy ta hơi thất lễ, để đệ chê cười rồi.”

    Với Tạ Liên mà nói, chuyện xảy ra trong phút chốc vừa rồi quả là cú sốc lớn. Tạm thời cứ gọi “cú sốc” vậy, dù gì cũng là lần đầu tiên. Nhưng mà, không chỉ vì đây là lần đầu tiên. Suốt mấy trăm năm qua, không phải chưa từng có nữ quỷ kiều diễm trần truồng cám dỗ y, nhưng y chưa bao giờ cảm thấy mất mặt và xấu hổ đến thế. Tại sao lại ra nông nỗi như bây giờ, Tạ Liên chỉ có thể cho rằng, chắc chắn là vì quốc sư chỉ dạy y cách đề phòng phụ nữ, chứ không dạy y cách đề phòng đàn ông, y không có kinh nghiệm, nên lúc này mới bị đánh cho trở tay không kịp.

    Nhớ lại loạt phản ứng vừa rồi, Tạ Liên có chút ngượng ngùng, cảm thấy mình kích động hơi quá, nhủ thầm Tam Lang vốn có ý tốt, vậy mà mình lại bị dọa sợ đến vậy, với người giúp mình mà nói, đúng là chẳng lễ độ gì cả. Lại nghe Hoa Thành nói: “Không có gì đâu, là ta làm càn mà. Mạo phạm ca ca rồi, Tam Lang nên nhận lỗi mới phải.”

    Thấy Hoa Thành không để bụng, Tạ Liên lén lút thở phào nhẹ nhõm, nói: “Lúc đó tình thế cấp bách, đệ cũng chỉ giúp một tay thôi, vốn dĩ chẳng phải chuyện to tát gì. À đúng rồi.” Y vẫn còn nhớ ban đầu mình đang làm gì, hỏi: “Tam Lang, sao đệ xuất hiện đột ngột vậy? Linh hồn trẻ con kia đâu?”

    Giọng điệu của Hoa Thành lại không cho phép chất vấn: “Trị thương trước đã.”

    Lúc đang nói chuyện, hai người đã đi đến trước một tòa nhà tráng lệ. Tạ Liên ngẩng đầu lên nhìn, không ngờ trên tòa nhà lại viết ba chữ “Cực Lạc phường”.

    Y quá đỗi kinh ngạc, chẳng lẽ Cực Lạc phường bị đốt sửa xong nhanh vậy sao? Hơn nữa còn sửa giống hệt lúc đầu. Nhưng do lòng chột dạ, Tạ Liên cũng ngại hỏi. Hoa Thành bế y vào trong, đặt y lên tháp mặc ngọc. Tạ Liên ngồi trên tháp, Hoa Thành thì quỳ một chân dưới tháp, nâng cái chân bị thương của y lên, kiểm tra lỗ nhỏ bị máu nhuộm đỏ dưới lòng bàn chân.

    Tư thế này tạo cảm giác vô cùng bất an, Tạ Liên nói: “Không được mà!” Dứt lời muốn leo trở xuống, Hoa Thành lại đè y lên tháp, tay vừa vững vừa nhanh cởi giày lẫn vớ của y ra.

    Chân này vừa khéo là chân bị buộc gông nguyền rủa của Tạ Liên, một chiếc vòng đen sậm xích quanh cổ chân trắng ngần, đối lập rõ ràng khôn xiết. Hoa Thành chỉ dừng mắt tại mắt cá chân mang độ cong nhu hòa ấy giây lát, cuối cùng áp lòng bàn tay vào nơi Tạ Liên bị thương, nói: “Chắc sẽ hơi đau đấy, ca ca đừng nhịn, đau thì cứ kêu.”

    __________________

    Tác giả có lời muốn nói: Hoa Hoa là quỷ, cháu nó có thể không hít thở, vậy nên mấy thứ như hơi thở chứa CO2 gì đó không thành lập.

    Chương 96: Tơ lòng rối bời, đừng nói tim không xao xuyến (2)

    Tạ Liên nói: “Ta…”

    Lời còn chưa dứt, y chỉ cảm thấy Hoa Thành khẽ dùng sức, một cơn đau nhói thoáng chốc bò lên trên, khiến y không khỏi rụt chân lại.

    Tuy động tác của Hoa Thành đã kiềm chế lắm rồi, chút đau đớn ấy cũng chẳng đáng kể với Tạ Liên, nhưng không hiểu vì sao, ở trước mặt Hoa Thành, dường như y không giấu được sự đau đớn. Có lẽ vì trước đó Hoa Thành đã nói một câu với y, khiến y càng muốn cố nhịn thì trái lại càng chẳng thể thành công. Phát hiện Tạ Liên rụt chân lại, Hoa Thành lập tức siết chặt mắt cá chân của y, nói khẽ: “Không sao đâu. Xong ngay thôi. Đừng sợ.”

    Tạ Liên lắc lắc đầu. Bên kia, động tác của Hoa Thành càng nhẹ nhàng hơn, ra tay thần tốc, đến khi giơ tay lên lần nữa, hắn đã rút được một cây kim nho nhỏ, nói: “Được rồi, không có gì đâu.”

    Tạ Liên tập trung nhìn kỹ, mũi kim lấp lóe tia sáng hiểm độc, Hoa Thành chỉ khép nhẹ năm ngón đã bóp nát nó thành một làn khói đen, tiêu tán trong không khí. Thấy vậy, Tạ Liên tạm gác nỗi bất an sang một bên, trầm ngâm nói: “Oán khí nặng quá. Thông thường linh hồn thai nhi không có được pháp lực mạnh thế này.”

    Hoa Thành đứng dậy, nói: “Đúng vậy. Cho nên, chắc chắn không phải thai linh chết một cách bình thường.”

    Lúc này, một kẻ đeo mặt nạ cúi đầu bước vào, hai tay bê một chiếc bình gốm, giao cho Hoa Thành. Tạ Liên vô thức quan sát xem cổ tay người này có đeo gông nguyền rủa không, nhưng lần này tay áo của đối phương lại buộc kín mít. Hoa Thành nhận lấy, dùng một tay nâng bình gốm lên nhìn, đoạn xoay người đưa cho Tạ Liên ngồi trên tháp mặc ngọc. Còn chưa lại gần, Tạ Liên đã nghe bên trong truyền đến tiếng khóc rấm rứt u buồn của trẻ con, dường như còn có thứ gì đang điên cuồng tông loạn xạ bên trong, tông đến nỗi bình gốm khẽ lắc lư, tưởng chừng đứng không vững, khiến y không khỏi đề cao cảnh giác.

    Tạ Liên nhận lấy bình gốm, vén một góc miếng dán niêm phong miệng bình gốm, chỉ mới nhìn lướt qua mà sống lưng tức khắc lạnh toát.

    Chỉ thấy một bãi gì đó trông như phôi thai cuộn mình nằm bên trong, tuy rằng tay chân đều mọc ra, nhưng lại yếu đuối mềm oặt, đầu thì giấu trong bóng tối. Nhìn hết toàn bộ, quả thật chẳng khác nào một cục nội tạng dị dạng.

    Đây chính là chân thân của nó!

    Tạ Liên lập tức đậy bình lại, nói: “Thì ra là thế.”

    Y từng nghe nói, có người sẽ tìm kiếm thai phụ chưa đủ tháng, mổ lấy đứa con sống sờ sờ trong bụng thai phụ đó ra, biến nó thành tiểu quỷ để thực hiện một ít pháp thuật, sai khiến nó hại người, bảo vệ chính mình, hoặc trấn trạch bảo vận (trấn giữ nhà bảo vệ tài vận). Vậy thì xem ra, linh hồn thai nhi này chính là kết quả của loại tà thuật đó, mà mẹ của nó nhiều khả năng từng là tín đồ của Tạ Liên, bằng không đã chẳng cất bùa hộ mệnh của Tạ Liên vào trong quần áo của đứa con chưa chào đời.

    Cân nhắc giây lát, Tạ Liên nói: “Linh hồn thai nhi này là do đệ bắt, Tam Lang có ngại ta lấy nó đi điều tra không? Bởi vì dạo trước ta từng gặp nó một lần trên núi Dữ Quân, lần này là lần thứ hai nó xuất hiện trước mặt ta, không biết rốt cuộc là trùng hợp hay có liên hệ gì.”

    Hoa Thành nói: “Huynh muốn lấy thì lấy đi. Cho dù ta không xuất hiện, một mình huynh cũng bắt nó được mà.”

    Tạ Liên cười đáp: “Tuy là nói vậy, nhưng Tam Lang bắt nó dễ dàng hơn ta nhiều.”

    Vốn dĩ y chỉ thuận miệng nói thế thôi, nhưng lại nghe Hoa Thành hỏi: “Vậy ư? Nếu lúc đó ta không đến, huynh định dùng cách gì bắt nó? Nuốt nó vào bụng rồi nuốt kiếm vào sao?”

    “…”

    Thế mà lại bị Hoa Thành nói trúng.

    Sắc mặt Hoa Thành cũng chẳng tỏ vẻ gì không vui, nhưng chẳng hiểu sao Tạ Liên lại cảm thấy hắn hơi tức giận.

    Trực giác nói cho y biết, nếu trả lời sai câu này, Hoa Thành sẽ càng giận hơn. Đang bối rối không biết nên đáp trả thế nào, chợt thấy bụng hơi co lại, Tạ Liên kìm lòng không đặng nói:”…Ta thấy hơi đói.”

    “…”

    Lời ra khỏi miệng mới kịp phản ứng, Tạ Liên cũng ngại nhìn xem rốt cuộc trên mặt Hoa Thành mang biểu cảm gì, chỉ đành thành thật giải thích: “Lần này ta đói thật nha…”

    Hồi lâu sau, cuối cùng Hoa Thành mới “phì” một tiếng, bật cười.

    Nụ cười này như làm tan biến vẻ lo lắng trên mặt Tạ Liên, y tức thì thở phào nhẹ nhõm. Hoa Thành lại nửa cười nửa thở dài, gật đầu đáp: “Được rồi.”

    Lẽ ra Hoa Thành định giữ y ở lại Cực Lạc phường đãi tiệc, nhưng Tạ Liên vừa nghe hai chữ “đãi tiệc” là biết chắc chắn sẽ khoa trương lắm đây, vì vậy y bèn chủ động đề xuất ra ngoài đi dạo, tùy tiện tìm chút gì ăn, Hoa Thành đồng ý.

    Trong Cực Lạc phường vô cùng ấm áp, không lâu sau khi vào đây, quần áo sũng nước của hai người đã khô ráo. Nhưng do bộ đồ nữ của mình quá gây chú ý, Tạ Liên vẫn xin Hoa Thành cho mượn bộ đồ khác, đổi thành áo trắng sạch sẽ tinh tươm. Sau đó hai người ra ngoài, đi xa thật xa, thế mà vẫn nghe được tiếng khóc rấm rứt và từng tiếng gọi “mẹ” của linh hồn thai nhi đó, có thể thấy nó ngoan cường cỡ nào. Có điều trong chợ Quỷ vốn đầy rẫy tiếng quỷ khóc sói tru, tiếng khóc này vùi lấp bên trong nên cũng chẳng hiếm lạ gì.
    Con đường ở chợ Quỷ vẫn tấp nập và náo nhiệt như trước, hai bên đều là quầy sạp bán đủ món ăn vặt đặc sắc. Mặc dù vẫn là những con quỷ đó, nhưng thái độ của chúng nó khác hẳn lần trước Tạ Liên tới đây dạo. Hoa Thành sóng vai đi cạnh y, đám chủ sạp tướng tá hết sức kỳ dị đều niềm nở tiếp đón, chen nhau chào hỏi hai người, gần như cúi đầu khom lưng, khiến Tạ Liên bỗng dưng nghĩ đến một cụm từ: “Cáo mượn oai hùm”.

    Ngoại trừ nhìn chằm chằm* Hoa Thành, còn có hàng trăm hàng ngàn cặp mắt ném những ánh nhìn cháy bỏng gấp bội về phía Tạ Liên, dường như đang ngắm kỹ và suy đoán, rốt cuộc người có thể sóng vai đi với chủ nhân chợ Quỷ là ai, điều này lại khiến Tạ Liên bắt đầu hoài nghi phải chăng mình đã quyết định sai rồi. Đặt mình vào dòng chảy yêu ma quỷ quái cuồn cuộn không ngớt, hay là đứng trước ánh nhìn chăm chú của muôn người, Hoa Thành đã tập mãi thành quen, hỏi Tạ Liên: “Muốn ăn chút gì không?”

    *Nguyên văn là “hành chú mục lễ”, dịch thô là “thi hành lễ tiết nhìn chăm chú”, cái “chú mục lễ” ở đây tức là dùng mắt nhìn chăm chú vào đối phương khi gặp nhau, ngoài ra còn chỉ kiểu chào trong quân đội, đứng thẳng và nhìn kỹ vào mục tiêu.

    Cuối cùng cũng thấy một sạp bán đồ không dị hợm lắm, Tạ Liên chỉ muốn tốc chiến tốc thắng, nói: “Sạp này đi.”

    Hoa Thành lại đáp: “Sạp này không được.”

    Tạ Liên ngạc nhiên hỏi: “Tại sao?”

    Hoa Thành không nói tiếng nào, ra hiệu cho y nhìn vào trong sạp. Tạ Liên đưa mắt nhìn thử, chủ sạp thấy hai người dừng tại đây thì kích động chà tay, dường như đang chờ bọn họ đại giá quang lâm, hồi hộp đến mức gắng sức lau bàn ghế. Tuy nhiên, thứ nó dùng để lau bàn ghế chính là lưỡi của nó.

    “…”

    Dù rằng sau khi bị chiếc lưỡi dài to tướng đó liếm qua, nồi nia xoong chảo đều dính bọt nước trong suốt, phản chiếu ánh sáng bóng láng như mới, song Tạ Liên vẫn quả quyết bỏ qua sạp này, hối hả chạy mất. Đi được vài bước, y lại trông thấy một quán canh gà bày biện vô cùng sạch sẽ và thoáng mát, tấm biển trước cửa viết “Gà quê vườn nhà nuôi, canh già lửa nóng sốt. Làm liền bán liền, đảm bảo sạch sẽ”, y bèn dừng chân nói: “Ơ, có canh gà nè, qua uống một chén ha?”

    Hoa Thành lại nói: “Sạp này cũng không được.”

    Tạ Liên đã hiểu, hỏi: “Là bát đĩa có vấn đề hay gà có vấn đề?”

    Hoa Thành dẫn y vào quán, vén một tấm rèm, ra hiệu cho Tạ Liên nhìn đi. Sau khi tò mò thò đầu vào xem, Tạ Liên lập tức cạn lời. Chỉ thấy sau phòng bếp đặt một chiếc nồi lớn, dưới nồi lửa cháy hừng hực, trên nồi hơi nóng sùng sục, trong nồi có một gã đàn ông đầu mọc mào gà đỏ chót đang hí hửng tắm trong nước sôi. Cạnh chiếc nồi lớn còn đặt rất nhiều thùng, đựng toàn gia vị như muối, tiêu, cỏ thơm này nọ kia. Trước tiệm có khách la lớn: “Ông chủ ơi mặn chút đi! Vị nhạt quá!”

    Gã chủ quán bèn vừa tắm vừa bốc một đống gia vị bôi lên người mình, dùng cả khăn lông chà mạnh lưng, để cho càng thấm vị hơn. Cuối cùng, gã gáy một tiếng vang dội: “Ò ó o–!”

    Tạ Liên buông rèm, lặng lẽ lủi ra.

    Đi cả một vòng lớn, cuối cùng hai người cũng tìm được một tiệm, bảng hiệu viết “Món ngon nhân gian chính gốc”. Tuy Tạ Liên cảm thấy từ “chính gốc” còn phải chờ chất vấn, chẳng hạn như theo y biết, đầu bếp nhân gian sẽ không dùng thịt yêu thú cỡ lớn khó mà săn giết để làm xiên nướng, nhưng nói đi cũng phải nói lại, đây đã là tiệm bình thường nhất rồi.

    Hai người ngồi xuống, đám quỷ lẽo đẽo theo sau nãy giờ đều vây sang đây, hết mực ân cần dâng hiến món ăn trong tiệm. Đồ tể heo khiêng một cái đùi người trắng toát trên vai, vỗ nghe kêu bành bạch, nói bằng giọng ồm ồm: “Thành chủ! Muốn thịt đùi tươi mới không! Hàng vừa đến đấy!”

    Đám quỷ mắng: “Xéo xéo xéo! Bạn của thành chủ mà lại ăn thứ đó à? Ngươi tưởng là Thanh Quỷ chắc? Chặt đùi của ngươi may ra còn ăn được!”

    “Mùi máu tanh nồng nặc thế kia, đừng làm người ta mắc ói chứ!”

    Không ngờ con heo đó lại nâng chân giò lên thật, nói: “Nếu thành chủ và bạn của thành chủ đã xem trọng, chân này có là chi, chặt thì chặt! Ta nói cho các ngươi biết, thịt chân của ông đây, chắc chắn dai ngon nhất đấy!”

    Tạ Liên bật cười, cúi đầu húp cháo. Hoa Thành cũng không để ý đến chúng nó, cả bầu nhiệt huyết của đám quỷ bèn đưa hết sang cho Tạ Liên, nhao nhao nói:

    “Món ăn vặt đặc sắc vùng bản địa, nước não! Não yêu thượng hạng được chọn lựa kỹ lưỡng, con nào cũng tu hơn năm mươi năm trở lên! Ngài ngửi thử xem mùi thuần chất không này!”

    “Máu của con vịt này ngon lắm đó, ngài xem thử đi, ta vừa cắt từ người mình xuống đó, nếm thử nha.”

    “Trái cây nhà chúng ta là trái tươi mồ mả chính thống đấy, nếu không mọc trên thân người chết thì bọn ta chẳng hái đâu, không gạt trẻ em lẫn người già…”

    Hết đống này đến đống khác, chúng quỷ đua nhau đưa đến nỗi Tạ Liên chẳng kịp nhìn, liên tục nói cảm ơn. Y không tiện phũ phàng với tấm thịnh tình nồng hậu như thế, song có vài món ăn vặt đặc sắc quả thật khó mà nhìn thẳng. Trong lúc luống ca luống cuống, Tạ Liên nhìn thấy Hoa Thành ngồi đối diện một tay chống cằm, mỉm cười nhìn mình. Tạ Liên nhìn trái ngó phải, ho nhẹ một tiếng, nói nhỏ: “…Tam Lang…”

    Bấy giờ Hoa Thành mới nói: “Ca ca khỏi cần để ý chúng nó. Thấy người tới là điên* ấy mà.”

    *Nguyên văn là “nhân lai phong”: ý bảo nhà có khách đến thì trẻ con sẽ phấn khởi hơn, lúc nhảy lúc hát, lúc đòi ăn cái này đòi ăn cái kia, còn lấy đồ chơi mình thích ra khoe, giống như điên á. Ngoài ra còn có nghĩa là khoe mẽ, ra vẻ nữa.

    Có quỷ nói ngay: “Thành chủ tuyệt đối không thể nói vậy được! Đâu phải người nào tới bọn ta cũng điên đâu, nếu thành chủ là ông nội của bọn ta, vậy ca ca của thành chủ là gì, là ông bác của bọn ta…”

    “Đúng đó, ông bác tới dĩ nhiên phải điên rồi!”

    Tạ Liên dở khóc dở cười, nghĩ thầm nói linh tinh gì thế này, Hoa Thành cũng quát lên: “Bớt nói bậy. Câm miệng đi!” Đám quỷ vội vàng đáp: “Đúng rồi! Thành chủ ngài nói đúng lắm. Câm miệng. Không phải ông bác nha!”

    Nào ngờ đúng lúc này, có vài nữ quỷ nãy giờ vẫn cười hí hí há há cuối cùng không nhịn được nữa, lanh mồm lanh miệng nói: “Ớ! Ngươi… chẳng phải ngươi là đạo sĩ ca ca lần trước nói với Lan Xương rằng mình bất lực sao?”

    “…”

    Tạ Liên suýt thì phun hớp cháo ngay tại chỗ.

    Dường như phát hiện ra bí mật kinh thiên động địa nào đó, đám quỷ hét ầm lên: “Ối mẹ ơi! Đúng thật đó!”

    “Là hắn là hắn chính là hắn! Lan Xương còn đi khắp nơi nói với người ta mà!”

    Nhiều con quỷ lanh trí hơn một chút vội vàng bụm miệng những con quỷ đang la làng la xóm, nhưng mà, chắc chắn Hoa Thành đã nghe được. Tạ Liên giương mắt lên nhìn, chỉ thấy Hoa Thành nhướn một bên lông mày, nhìn mình bằng ánh mắt đầy thâm ý, dường như đang nghĩ xem hai chữ “bất lực” có liên quan gì đến mình. Đó vốn là cái cớ mà Tạ Liên thuận miệng bịa ra khi gặp phải nữ quỷ bám riết lần trước, dù lúc ấy cũng bị đám quỷ vây xem cười nhạo, song Tạ Liên vẫn có thể đối đáp bình tĩnh như thường. Hiện tại vạch trần ngay trước mặt Hoa Thành, y lại không tài nào nhịn được, lúng túng đến nỗi hận không thể sặc cháo ngất xỉu luôn, ấp úng: “Ta…”

    Hoa Thành trông như rất nhẫn nại chờ y nói tiếp, nhưng việc này biết nói thế nào đây? Chẳng lẽ còn bày vẻ nghiêm túc biện bạch rằng mình không có bất lực?

    Tạ Liên đành nói: “…Ta no rồi.”

    Y cũng thật sự no rồi, nói xong bèn đứng dậy, vội vã ra khỏi tiệm. Đám quỷ phía sau bưng một đống món ăn vặt đặc sắc đã dày công chuẩn bị, tru tréo không ngừng: “Đại, đại nhân! Ngài còn ăn nữa không!”

    Hoa Thành cũng đuổi theo, tranh thủ quay đầu quát lần nữa: “Cút!”

    Đám quỷ vội vã co giò cút lần nữa. Tạ Liên đi lung tung đằng trước một hồi, thấy không còn tiểu quỷ nào đuổi kịp nữa thì thả chậm bước chân chờ Hoa Thành. Không lâu sau, Hoa Thành chắp tay đi lên trước, trịnh trọng nói: “Ta không biết ca ca còn mắc loại bệnh khó nói nhường này đấy.”

    Tạ Liên vội nói: “Không có!”

    Rồi lại ra chiều bất đắc dĩ: “…Tam Lang à.”

    Hoa Thành gật đầu: “Rồi. Tam Lang hiểu mà. Sẽ không nói vậy nữa.”

    Hoa Thành ra chiều ngoan ngoãn nghe lời lắm, nhưng giả ơi là giả, Tạ Liên nói: “Đệ đúng là không có thành ý gì hết.”

    Hoa Thành cười nói: “Ta thề, huynh tìm trên trời dưới đất cũng không tìm được người nào có thành ý hơn ta đâu.”

    Nghe câu đối đáp quen thuộc, Tạ Liên cũng mỉm cười.

    Lát sau, y nghiêm túc hỏi: “Tam Lang, đệ biết Thiên Đăng quán ở đâu không?”

    Chương 97: Đêm trắng đề chữ, hồng tụ thiêm hương

    *Đêm trắng: Hiện tượng tự nhiên xuất hiện ở khu vĩ độ cao, ban đêm nhưng trời vẫn còn sáng.

    *Hồng tụ thiêm hương là cái tay áo của người con gái, ý nói đêm tối khi thư sinh đọc sách, có cô gái xinh đẹp trẻ tuổi ở bên châm hương, hương khói bám vào tay áo.

    Vấn đề này, thật ra lòng Tạ Liên đã lờ mờ có đáp án. Tuy nhiên, phản ứng của Hoa Thành lại khác hẳn dự đoán của y.

    Lặng thinh giây lát, Hoa Thành chợt lên tiếng: “Xin lỗi.”

    Tạ Liên ù ù cạc cạc: “Gì cơ?”

    Ban đầu y cho rằng, nếu “Thiên Đăng quán” không phải là chuyện nhầm lẫn xấu hổ gì, vậy thì người có khả năng liên quan đến nó nhất chỉ có mỗi Hoa Thành mà thôi. Nhưng mặc cho suy đoán của Tạ Liên có đúng không, Hoa Thành cũng chẳng có lý do gì phải xin lỗi.

    Hoa Thành không trả lời, chỉ ra hiệu cho y cùng mình đi về phía trước, Tạ Liên bèn đi theo hắn. Hai người đi một hồi, mới vừa rẽ ngoặt, tầm nhìn bỗng trở nên rộng thoáng, một tòa đạo quán dập dờn linh quang lẳng lặng hiển hiện trước mắt Tạ Liên.

    Trong nháy mắt, hơi thở của y cũng đình trệ.

    Bốn phương tám hướng đều là cảnh quỷ vực tối đen xen lẫn màu đỏ thẫm, mà trong vòng vây ấy, tòa đạo quán này nguy nga tráng lệ, ngàn ngọn đèn rực sáng, tựa như chốn bồng lai tiên cảnh.

    *Quỷ vực: nơi quỷ hồn lui tới, lãnh địa của quỷ.

    Một tòa đạo quán mang nền tảng chói sáng và huy hoàng lại tọa lạc ở nơi rồng rắn lẫn lộn, chúng quỷ lộng hành như chợ Quỷ, tuy chẳng hợp tí nào, nhưng lại khiến người ta rung động không thôi. Ngay khoảnh khắc đập vào mắt, nó sẽ để lại ấn tượng sâu sắc khó mà phai nhạt trong đầu người nhìn. Hồi lâu sau, Tạ Liên mới cất giọng: “…Đây là…”

    Đứng trước tòa đạo quán, hai người đều ngẩng đầu nhìn lên. Hoa Thành cũng khẽ ngước đầu, nói: “Mấy ngày trước là Tết Trung thu, ta nghĩ ca ca lên Thượng thiên đình chắc cũng phải tham gia trò chơi nhạt nhẽo hằng năm của bọn đó, vậy nên mới dựng chỗ này, tìm chút trò vui giúp ca ca giải buồn khi dự tiệc.”

    “…”

    Cách “giải buồn” của hắn không khỏi khiến người ta trố mắt. Vì “tìm chút trò vui” cho Tạ Liên mà dựng hẳn cái quán, còn thắp ba ngàn ngọn đèn Trường Minh cầu phúc!

    Hoa Thành cúi đầu chỉnh lại cổ tay áo, nói tiếp: “Lẽ ra không muốn cho huynh biết, cũng tại ta tự tiện sắp xếp, xây quán của ca ca ở nơi hỗn tạp này của ta, mong ca ca đừng trách.”

    Tạ Liên lập tức lắc đầu. Không ngờ Hoa Thành lại cảm thấy mình gây thêm phiền phức cho y nên mới không muốn cho y biết, Tạ Liên thật sự không biết nên nói gì cho phải. Đến nước này rồi, lại nói cảm ơn thì vô nghĩa quá, Tạ Liên bèn ổn định cảm xúc, hít sâu một hơi, tập trung thưởng thức tòa “Thiên Đăng quán” này. Lát sau, y nghiêng đầu hỏi: “Tòa đạo quán này đẹp đẽ rộng thoáng, tinh xảo diệu kỳ, nào phải công sức ngày một ngày hai, chắc không phải Tam Lang mới xây gần đây đâu nhỉ?”

    Hoa Thành cười đáp: “Dĩ nhiên không phải rồi. Ca ca nhìn chuẩn lắm, nơi này đã xây xong từ sớm, khổ nỗi không biết dùng vào đâu, vì vậy ta vẫn luôn cất giấu, đồng thời cũng chưa từng cho người khác đặt chân vào. Quả thật phải cảm ơn ca ca giúp nó cuối cùng cũng tìm được chỗ dùng, nên giờ mới thấy được ánh mặt trời.”

    Nghe vậy, Tạ Liên lại khẽ thở phào một hơi.

    Nếu đã xây xong từ sớm, nhưng một mực không có chỗ dùng, xem ra ban đầu hẳn là định dùng cho việc khác, bây giờ tiện tay lấy ra dùng thôi. Bằng không nếu Hoa Thành thật sự xây riêng một tòa đạo quán cho y, y sẽ càng bứt rứt. Dĩ nhiên theo tính cách của Hoa Thành, rất có thể chỉ đơn thuần vì xây chơi mà thôi. Mặc dù Tạ Liên vô cùng tò mò, ban đầu Hoa Thành xây một tòa kiến trúc khác xa chợ Quỷ như thế là định dùng cho việc gì, nhưng y vẫn kiềm chế xung động muốn hỏi. Hỏi nhiều quá không phải là thói quen tốt, ai biết khi nào lỡ miệng hỏi trúng điều không nên hỏi chứ?

    Hoa Thành nói: “Vào xem nhé?”

    Tạ Liên vui vẻ đáp: “Tất nhiên rồi.”

    Hai người sóng vai bước chậm vào trong quán, khoan thai sải bước trên nền đất trải ngọc thạch. Tham quan khắp nơi, trong quán rộng rãi sáng sủa, nhưng lại không có tượng thần, cũng không có đệm hương bồ cho tín đồ quỳ lạy. Hoa Thành nói: “Gấp rút khánh thành, còn nhiều chỗ sơ suất không chu toàn lắm, mong ca ca rộng lòng bỏ qua.”

    Tạ Liên mỉm cười: “Không đâu. Ta cảm thấy tốt lắm, tốt vô cùng. Không có tượng thần và đệm hương bồ thì vừa khéo, cứ không có là tốt nhất. Nhưng mà, vì sao ngay cả bức hoành cũng không có?”

    Câu hỏi này tuyệt nhiên không phải hạch sách, chỉ là trong quán có vài chỗ lát ngọc thạch hình hoa cỏ được tỉ mỉ chạm trổ hoa văn chìm của “Thiên Đăng quán”, thế mà bức hoành ngoài mặt tiền lại chưa được treo lên, dĩ nhiên không phải vì gấp rút, thế nên Tạ Liên mới tò mò hỏi.
    Hoa Thành cười đáp: “Hết cách thôi. Chỗ ta không có người nào biết viết chữ, huynh nhìn cái đám ban nãy đi, biết chữ là đỡ lắm rồi. Ca ca có thích bậc thầy thư pháp nào không? Ta mời tới viết bức hoành này cho huynh, hoặc là ta cho rằng, cách tốt nhất là ca ca tự đến viết một bức, treo tại Thiên Đăng quán này. Vậy còn gì tuyệt hơn.”

    Nói đoạn, Hoa Thành chỉ tay về hướng bàn thờ trong đại điện. Chiếc bàn ngọc cực dài cực rộng, bên trên đặt chút đồ cúng và một lư hương ngăn nắp gọn ghẽ, ngoài ra còn bày giấy bút nghiên mực, mùi sách thanh thuần. Hai người bước lên phía trước, Tạ Liên nói: “Vậy chi bằng, mời Tam Lang đến viết giúp ta nha.”

    *Mùi sách (nguyên văn là thư hương 书香): Ngày xưa người ta ép một loại cỏ thơm vào sách để chống mối mọt, mở sách ra sẽ ngửi được mùi hương của cỏ này.

    Nghe vậy, Hoa Thành mở to mắt, dường như không ngờ được Tạ Liên sẽ nói thế, hỏi: “Ta?”

    Tạ Liên đáp: “Ừ.”

    Hoa Thành chỉ vào chính mình, hỏi tiếp: “Muốn ta viết thật sao?”

    Như phát hiện được gì đó, Tạ Liên hỏi: “Tam Lang có chỗ nào khó xử à?”

    Hoa Thành nhướn một bên lông mày: “Khó xử thì không, chỉ là…”

    Thấy Tạ Liên vẫn chờ mình trả lời, Hoa Thành chắp tay sau lưng, có vẻ hơi bất đắc dĩ: “Được rồi. Chỉ là, ta viết không được tốt.”

    Vậy thì lạ quá. Tạ Liên thật sự không thể tưởng tượng được, Hoa Thành cũng có chuyện không làm tốt. Y cười nói: “Ồ? Vậy sao, viết một chữ xem thử nhé?”

    Hoa Thành hỏi lại lần nữa: “Muốn ta viết thật sao?”

    Tạ Liên lấy vài tờ giấy trắng, trải ngay ngắn trên bàn ngọc, tận tụy tự tay vuốt phẳng, sau đó chọn một chiếc bút lông thỏ hợp mắt, đưa đến tay Hoa Thành, nói: “Qua đây.”

    Thấy Tạ Liên đã chuẩn bị đâu vào đấy, Hoa Thành nói: “Được rồi. Nhưng mà, không được cười.”

    Tạ Liên gật đầu: “Dĩ nhiên.”

    Thế là Hoa Thành bèn nhận bút, bắt đầu viết một cách nghiêm túc. Tạ Liên ở bên cạnh nhìn, nhưng càng nhìn, sắc mặt càng biến đổi khôn lường.

    Thật lòng y muốn nhịn lắm, nhưng vẫn không tài nào nhịn nổi. Hoa Thành vừa viết bừa vẽ bậy trên giấy, vừa dùng giọng điệu nửa cảnh cáo nửa đùa cợt nói với y: “Ca ca.”

    Tạ Liên lập tức chỉnh lại sắc mặt, nói: “Lỗi của ta.”

    Y cũng không muốn đâu, nhưng mà còn cách nào nữa chứ. Chữ viết của Hoa Thành, thật sự quá buồn cười!!

    Cho dù là Cuồng Thảo* điên rồ nhất mà Tạ Liên từng nhìn thấy cũng chẳng ngông cuồng bằng nửa phần Hoa Thành, trong ngông cuồng còn kéo theo một luồng gió tà đạo ập thẳng vào mặt, chỉ e sẽ thổi cho các bậc thầy thư pháp trợn trắng mắt chết ngất luôn. Tạ Liên vất vả soi cả buổi mới miễn cưỡng phân biệt được mấy chữ “biển cả”, “nước”, “núi Vu”, “mây” nguệch ngoạc như gà bới, đoán chừng Hoa Thành hẳn đang viết “Từng đi biển cả, nước hề chi. Trừ núi Vu ra, chẳng có mây”.

    *Chữ Thảo là một kiểu viết chữ Hán của thư pháp Trung Hoa rất khó đọc. Đến thời nhà Đường, chữ Thảo lại phát triển thêm một bước với lối viết càng ngày càng phóng khoáng và trở thành Cuồng Thảo (chữ Thảo viết một cách điên cuồng), kiểu viết này gần như không thể đọc được.

    *Từng đi biển cả, nước hề chi. Trừ núi Vu ra, chẳng có mây (mượn lời dịch thơ của Nguyễn Phước Hậu, Hán Việt là “Tằng kinh thương hải nan vi thủy. Trừ khước Vu sơn bất thị vân”): ý bảo đã từng ra biển lớn thì nước sông hồ khó gọi là nước, ngoại trừ mây ở núi Vu, những chỗ khác chưa phải là mây.

    Nghĩ đến Hoa Thành thân là bá chủ một phương ở Quỷ giới, người mà thần sợ quỷ cũng sợ, cuối cùng lại bày ra vẻ mặt này ở một chuyện nào đó, hơn nữa còn là chuyện viết chữ, Tạ Liên cố nín cười đến nỗi rút gân bụng. Y dùng hai tay cầm tác phẩm mà Hoa Thành vung tay một cái là viết xong, cố giả vờ điềm tĩnh, nói: “Ừm. Có cá tính lắm, tự tạo lập một trường phái riêng. Có “phong cách”.”

    Hoa Thành đặt bút xuống, tư thế cũng ra dáng lắm, hắn liếc mắt cười nói: “Phong trong phát phong hả.” (phát phong = phát rồ)

    Tạ Liên làm bộ không nghe thấy, trịnh trọng bình luận: “Thật ra viết đẹp không khó, viết ra “phong cách” của mình mới là khó. Nếu chỉ đẹp nhưng lại đẹp rập khuôn thì cũng tầm thường thôi. Nét bút của Tam Lang tốt lắm, có phong cách đại gia, khí thế nuốt chửng núi sông…” Tiếp sau còn tám chữ nữa: Núi sông nát bấy, ngựa chạy người tan. Cũng hết cách thôi, bịa ra lời khích lệ người khác cũng cực nhọc lắm. Hoa Thành nghe mà một bên lông mày càng nhướn cao hơn, ngờ vực hỏi: “Thật ư?”

    Tạ Liên nói: “Ta đã bao giờ gạt Tam Lang chưa?”

    Hoa Thành thong thả thêm vài nén nhang mới vào lư hương nhỏ bằng vàng đặt bên cạnh, giữa làn khói thơm dịu, hắn làm bộ hờ hững nói: “Ta cũng muốn viết đẹp lắm. Tiếc rằng chẳng ai dạy bảo, không biết bên trong có bí quyết gì không.”

    Lời này của Hoa Thành đã hỏi đúng người. Tạ Liên trầm ngâm đáp: “Thật ra cũng không có bí quyết gì, chỉ là…” Nghĩ tới nghĩ lui, cuối cùng cảm thấy không thể nói hết bằng lời, y bèn nhích lại gần, tự mình nâng bút, đặt bút viết vài dòng cạnh câu thơ mà Hoa Thành viết trên tờ giấy, động tác liền mạch lưu loát, viết xong ngắm nghía giây lát rồi mỉm cười than thở: “Ngại quá. Bao năm rồi ta không có cơ hội viết chữ, nay không bằng xưa.”

    Hoa Thành nhìn chằm chằm bốn hàng chữ mang phong cách lạ lẫm khác mình một trời một vực trên giấy, đặc biệt là hai câu nối sau của Tạ Liên — “Lướt qua bụi hoa, chẳng ngoái đầu. Nửa vì tu đạo, nửa tình si”. Hoa Thành nhìn cả mạch thơ hết lần này đến lần khác, ánh mắt lưu luyến quên lối về. Hồi lâu sau, hắn ngẩng đầu lên nói: “Cầu chỉ giáo?”

    *Lướt qua bụi hoa, chẳng ngoái đầu. Nửa vì tu đạo, nửa tình si (Hán việt là “Thủ thứ hoa tùng lãn hồi cố. Bán duyên tu đạo, bán duyên quân”): ý bảo có gặp người đẹp anh cũng lười quay đầu, một phần vì nay anh tu đạo, một phần chỉ nghĩ tới em thôi.

    Tạ Liên đáp: “Chỉ giáo thì không dám.” Thế là y bèn nói cho Hoa Thành biết nội dung nhập môn cơ bản, không giấu diếm gì, dốc hết tâm đắc tập viết thư pháp của mình thuở thiếu thời, tận tâm dạy bảo Hoa Thành.

    Khói nhang lượn lờ, đèn sáng như sao, Tạ Liên nghiêm túc giảng giải, Hoa Thành chăm chú lắng nghe. Trong đại điện, lời nhỏ tiếng nhẹ, cảnh tượng lẫn tiếng nói đều vô cùng nhu hòa. Qua một hồi, Tạ Liên nói: “Đệ thử lại xem sao?”

    Hoa Thành “ồ” một tiếng, nhận bút, có vẻ rất nghiêm túc viết mấy chữ. Tạ Liên đứng bên cạnh nhìn, khoanh hai tay, nghiêng đầu nói: “Khá thú vị. Có điều…”

    Có điều y cảm thấy Hoa Thành hạ bút không đúng chỗ nào. Nhíu mày quan sát chốc lát, Tạ Liên đột nhiên phát hiện rốt cuộc không đúng chỗ nào — Hoa Thành căn bản không cầm bút đúng cách.

    Ngay cả tư thế cầm bút cũng loạn xà ngầu, làm sao viết đúng cho được!

    Tạ Liên dở khóc dở cười, đứng nhích lại gần hơn, không nghĩ ngợi nhiều mà chìa tay sửa lại cho đúng, nói: “Cách cầm bút của đệ sai rồi, phải cầm thế này…”

    Vừa chìa tay, Tạ Liên chợt phát hiện coi bộ không ổn lắm. Hai người nào phải thầy đồ và trò nhỏ, dạy kiểu tay cầm tay như thế khó tránh thân mật hơi quá. Nhưng đã chìa tay nào có đạo lý tùy tiện rút về, làm vậy trái lại càng giống cố ý. Thế nên sau một hồi do dự, Tạ Liên vẫn không rút tay về. Nghĩ đi nghĩ lại, lần trước tại sòng bạc Quỷ, chẳng phải Hoa Thành cũng tay cầm tay dạy y đổ xí ngầu sao? Dù rằng Tạ Liên cảm thấy lần đó chẳng học được gì sất, sau khi xong việc còn loáng thoáng có cảm giác bị mắc lừa, nhưng lần này y thật lòng muốn dạy Hoa Thành một ít thứ. Vì vậy, Tạ Liên yên tâm áp lòng bàn tay ấm áp của mình lên mu bàn tay lạnh buốt của Hoa Thành, nhẹ nhàng cầm tay hắn, bắt đầu dẫn dắt thế bút của hắn di chuyển, nói nhỏ: “Như này nè…”

    Phát hiện thế bút cuồng loạn của Hoa Thành dưới tay mình, Tạ Liên khẽ dùng sức khống chế, uốn nắn trở lại. Chưa được bao lâu, Tạ Liên lại phát hiện thế bút dưới tay càng thêm cuồng loạn, vượt tầm khống chế, y buộc lòng phải cầm chặt hơn nữa. Chữ mà hai người góp sức viết ra méo mó nguệch ngoạc, nhìn không chịu thấu, Tạ Liên càng viết càng thấy không ổn, không kiềm được mà lên tiếng: “Này…”

    Như thể giở trò xấu thành công, Hoa Thành bật ra tiếng cười trầm thấp. Mực vẽ loạn xạ trên giấy, Tạ Liên nói bằng giọng bất đắc dĩ: “Tam Lang à… đừng như vậy mà. Ngoan ngoãn học, ngoan ngoãn viết.”

    Hoa Thành nói: “Ồ.”

    Nhìn là biết lại làm bộ nghiêm túc rồi. Tạ Liên lắc đầu, không biết nên khóc hay nên cười.

    Mặc dù tay Hoa Thành lạnh ngắt, nhưng khi Tạ Liên cầm trong tay, chẳng hiểu sao cứ như cầm que sắt nóng, khiến y không dám dùng thêm sức. Lúc này, khóe mắt Tạ Liên bỗng lia đến bên mép bàn rồi ngừng lại.

    Y đưa mắt nhìn sang, chỉ thấy một đóa hoa nho nhỏ đơn côi đặt bên góc bàn ngọc.

    Chương 98: Bày quái kế mở cửa trộm thai quỷ (1)

    Tạ Liên hơi sửng sốt, ký ức xưa kia tựa như một bức họa phủ bụi, phủi đi chút bụi nhưng vẫn không rõ ràng. Y buông tay cầm lấy đóa hoa, trầm ngâm không nói. Hoa Thành cũng đặt bút xuống, đứng cạnh chậm rãi mài mực, hỏi: “Sao vậy?”

    “…” Tạ Liên mỉm cười: “Không có gì. Chỉ là loại hoa này, hương thơm ngấm vào tim gan, ta vẫn luôn yêu thích.”

    Cúng hoa trong đạo quán cũng không hiếm thấy, có điều thường cúng cả bó hoa tươi đỏ tím rực rỡ, hoặc là những bó hoa giả tự tết mãi không úa tàn. Ngừng chốc lát, Tạ Liên hỏi: “Chẳng lẽ hoa mà “Huyết Vũ Thám Hoa” che chở là loại hoa này sao?”

    Hoa Thành cười đáp: “Ca ca quả là liệu sự như thần.”

    Trong lúc cười nói, cuối cũng hai người cũng góp sức hoàn thành bức liễn, nội dung vẫn là bốn câu thơ đó. Hoa Thành cầm lên thưởng thức một lát, dường như rất chi là hài lòng, nói: “Ừm, được lắm. Dán lên thôi.”

    Nghe hắn nói “được lắm”, Tạ Liên chỉ thấy nghẹn họng. Nghe đến “dán lên thôi”, Tạ Liên lại nghẹn họng lần nữa, hỏi: “Chắc không phải đệ định treo lên tường đâu ha?” Nếu để các sư phụ đã qua đời của Tạ Liên nhìn thấy bức liễn mà y tham gia viết trông như thế kia, chỉ e họ sẽ tức đến mức đội mồ sống dậy. Hoa Thành lại cười nói: “Không. Ta cất riêng, không cho ai xem hết.”

    Đúng lúc này, hai người chợt nghe bên ngoài truyền đến tiếng la hét loáng thoáng:

    “Cháy rồi!”

    “Cháy rồi!”

    “Cực Lạc phường cháy rồi!”

    Trong Thiên Đăng quán lặng ngắt như tờ, song năm giác quan của cả hai đều siêu việt hơn người phàm, nghe tiếng bèn tức tốc nhìn nhau, Tạ Liên buột miệng thốt lên: “Lại là Cực Lạc phường?”

    Lời bật khỏi miệng mới thấy chữ “lại” này hơi buồn cười. Hoa Thành ung dung điềm tĩnh cất chữ vào, đáp: “Không cần lo lắng, ca ca ngồi đây đi, ta đi một lát rồi sẽ về.”

    Làm sao Tạ Liên yên tâm ngồi đây được, nói: “Ta đi với đệ!” Y vội vã đuổi theo, trong lòng không khỏi buồn bực: Sao lần nào mình tới là Cực Lạc phường lại cháy lần nấy vậy? Cái danh “ôn thần” lại được chứng thực rồi. Tuy lần này không liên quan đến y, nhưng y vẫn cứ áy náy theo thói quen. Hai người chạy vội về Cực Lạc phường, cả đường lớn bốc khói đặc cuồn cuộn, đám tiểu quỷ tiểu quái nháo nhác hú hét xách thùng nước chạy qua chạy lại dập lửa. Thấy Hoa Thành và Tạ Liên đã tới, chúng cất tiếng: “Thành chủ! Lão nhân gia ngài không cần lo lắng, lửa không lớn, đã dập được rồi!”

    Hoa Thành không tỏ ý gì, Tạ Liên lại thở phào nhẹ nhõm, ôn tồn nói: “Tốt quá! Cực thân các vị rồi.”

    Vốn dĩ các tiểu quỷ cũng không mong đợi sẽ nhận được lời cảm ơn, huống hồ còn là câu “cực thân rồi” từ bạn của thành chủ, nghe là mừng hớn hở, rối rít đáp: “Không cực thân! Chuyện nhỏ thôi!”

    “Nên làm mà!”

    Bấy giờ Tạ Liên mới phát hiện, mình nói “cực thân rồi” có vẻ không ổn lắm, bởi vì mình có phải chủ nhân nơi này đâu. Chẳng qua nếu bản thân Hoa Thành chưa lên tiếng, mình nói một chút chắc cũng không hại gì, vì vậy chỉ nhủ thầm ngại quá rồi chẳng để ý nữa. Hai người bước vào Cực Lạc phường quan sát nơi bén lửa, quả nhiên chỉ cháy một diện tích nhỏ, hơn nữa còn là phòng nhỏ trong hốc xó không bắt mắt lắm, chẳng trách bị dập rất nhanh.

    Tuy nhiên sau khi xác định chi tiết trên, Tạ Liên bắt đầu cảnh giác, nói với Hoa Thành: “Kẻ phóng hỏa không phải ngu ngốc to gan đến đây giở trò đùa dai, cũng không phải thật sự muốn đốt cái gì, mà giống như muốn dời lực chú ý, thu hút ánh mắt của mọi người sang đây hơn.”

    Nhưng vào lúc mấu chốt này, muốn dời lực chú ý gì chứ?

    Đột nhiên, Tạ Liên phản ứng lại: “Thai linh kia!”

    Trước đó lúc hai người rời khỏi Cực Lạc phường, đi biết bao lâu mà linh hồn thai nhi vẫn còn khóc rấm rứt, tiếng khóc the thé chói tai, chốc chốc lại gọi mẹ. Mà bây giờ, âm thanh ấy biến mất rồi!

    Hai người lại đến một gian thiên điện ngoài Cực Lạc phường kiểm tra. Lúc bọn họ rời đi, Hoa Thành đã tiện tay đặt bình gốm chứa linh hồn thai nhi lên một chiếc bàn, hiện giờ bình gốm vẫn còn, nhưng Tạ Liên bước tới cầm lên lại phát hiện trọng lượng không đúng, quá nhẹ rồi. Y mở ra xem thử, quả nhiên bên trong đã trống không!

    Bình đóng kín miệng, vật bị nhốt bên trong không thể tự mở được. Tạ Liên vội nói: “Linh hồn thai nhi bị ai đó thả ra rồi.”
    Hoa Thành chẳng hề tỏ ra bối rối, nói: “Là bị kẻ khác đánh cắp đi. Trải qua một trận Tử Linh Điệp vây công, bây giờ vật nọ nguyên khí đại thương, một mình nó không chạy xa được.”

    Tạ Liên nói: “Vậy thì dễ xử lý rồi. Tam Lang, Cực Lạc phường của đệ có hộ vệ giám sát người ra vào qua lại không? Xem xem có tìm được người nào khả nghi không?”

    Hoa Thành đáp: “Không có.”

    “…” Tạ Liên chớp chớp mắt: “Không có ư?”

    Hoa Thành nói: “Ừ, xưa giờ không hề có.”

    Hèn gì lần trước mình lén lút giở trò trong Cực Lạc phường cũng chẳng thấy bóng dáng hộ vệ nào. Tạ Liên còn từng nghĩ phải chăng mình mai phục kỹ quá nên Hoa Thành không phát hiện, đâu ngờ không có thật, y hơi sửng sốt, hỏi: “Đệ yên tâm về Cực Lạc phường đến thế sao?”

    Hoa Thành hỏi ngược lại: “Ca ca, huynh có từng chú ý đến cổng của Cực Lạc phường chưa?”

    Tạ Liên ngẫm nghĩ rồi đáp: “Chưa từng chú ý. Lẽ nào có điểm gì đặc biệt?”

    Hoa Thành trả lời: “Đúng thế.”

    Hắn chỉ vào cổng gian thiên điện, giảng giải: “Nếu không phải chủ nhân của nơi này, chưa được cho phép mà mang đi người vốn ở bên trong hoặc vật không thuộc về mình, cho dù chỉ là một thứ, cũng sẽ không mở cửa được, trái lại còn bị nhốt trong gian phòng đó.”

    Tạ Liên hồi tưởng lại lần trước mình đến Cực Lạc phường, hình như lúc đó y vẫn luôn dùng xí ngầu mở đường, còn phút cuối rời đi lại do Phong Sư nổi gió, hất tung nóc nhà, nhờ vậy mới tránh được việc rời khỏi bằng “cửa”. Đây toàn là những hình ảnh mang tính bạo lực, Tạ Liên càng nghĩ càng cảm thấy không nghĩ nổi, xấu hổ không thôi. Ngừng một lát, y hỏi tiếp: “Giả sử Tam Lang cướp một pháp bảo từ chỗ ta, cất tại Cực Lạc phường, ta là chủ nhân ban đầu của pháp bảo cũng không mang đi được sao?”

    Hoa Thành nhướn mày đáp: “Dĩ nhiên không được rồi. Đã tới tay ta thì là của ta. Có điều, ca ca đừng nói oan cho ta, ta sẽ không cướp pháp bảo của huynh đâu.”

    Tạ Liên ho nhẹ một tiếng, nói: “Đó là lẽ đương nhiên, đương nhiên ta biết rồi, bởi vậy ta mới nói là giả sử mà. Hơn nữa… ta cũng chẳng có pháp bảo nào đáng để người khác cướp…”

    Hoa Thành trêu đùa cũng biết điểm dừng, cười cười nói tiếp: “Cho nên, muốn trộm đồ từ chỗ ta mà không bị phát hiện là điều không thể nào. Đương nhiên cũng chẳng cần hộ vệ làm gì.”

    Phản ứng đầu tiên của Tạ Liên là, người trộm linh hồn thai nhi không rời đi bằng cửa mà dùng một cách khác. Nhưng nhìn quanh bốn phía, nóc thiên điện vẫn ổn, mặt đất vẫn ổn, vách tường cũng ổn, hoàn toàn không có dấu tích nào của việc bị phá vỡ, Tạ Liên không khỏi nghĩ ra một suy đoán kỳ lạ hơn:

    Chẳng lẽ người trộm linh hồn thai nhi chưa rời đi mà vẫn còn ở trong gian thiên điện này?

    Tuy trong thiên điện chẳng có chỗ ẩn nấp nào, nhưng lên trời xuống đất, những cách ẩn thân không hề ít. Có lẽ ngay thời khắc này, kẻ đó đang ở gần bọn họ, lặng lẽ quan sát từng cử động của họ. Tạ Liên nhìn kỹ xung quanh, cẩn thận chú ý xem có nơi nào không khí méo mó một cách lạ thường không. Tuy nhiên, bất luận ánh mắt hay trực giác đều nói cho y biết, ở đây không có người hoặc quỷ thứ ba.

    E rằng mạch suy nghĩ của y không chính xác, coi bộ phải đổi một cách nghĩ khác rồi. Lúc này, Hoa Thành cười nói: “Ca ca không cần lo lắng. Ta tự có cách tìm ra kẻ trộm linh hồn thai nhi.”

    Không ngờ Hoa Thành đã tính sẵn từ trước. Tạ Liên quay sang nhìn hắn, suy tư giây lát rồi đột nhiên tỏ tường.

    Hai người yên lặng chờ đợi. Một lúc sau, tiếng ồn ào từ từ tiến gần, một đám yêu ma quỷ quái lũ lượt ào tới, nói: “Thành chủ, lão nhân gia ngài tìm bọn ta có gì phân phó!”

    Đám này ít ra cũng gần một ngàn, nếu không phải phòng ốc sân vườn của Cực Lạc phường đủ rộng, sợ rằng không thể nào chứa nổi. Kẻ đưa chúng đến chính là người đeo mặt nạ, người nọ nói với Hoa Thành: “Thành chủ, những người hôm nay xuất hiện trên đường, toàn bộ đều ở đây hết rồi. Chợ Quỷ đã phong tỏa, không ai có thể ra ngoài.”

    Vẫn là giọng nam trẻ tuổi lần trước, Tạ Liên không khỏi liếc nhìn đối phương. Đám quỷ hỏi: “Thành chủ, là kẻ nào phóng hỏa, ngài đã bắt được chưa?”

    “Nghe nói còn trộm đồ nữa! Không phải chán sống thì muốn chết lần nữa!”

    “To gan quá mà. Vừa phóng hỏa vừa trộm đồ, dám động thổ trên đầu thái tuế, thành chủ làm sao tha được?!”

    “…”

    Tuy kẻ đám quỷ nhắc đến không phải mình, nhưng thân là người lần trước vừa đốt phòng vừa lén lút cướp người ở Cực Lạc phường, lại được Hoa Thành tha cho, Tạ Liên nghe mà cảm thấy như trúng vô số mũi tên. Y ho nhẹ một tiếng, trong lòng càng áy náy hơn, liếc trộm Hoa Thành một cái, vừa khéo bắt gặp Hoa Thành cũng đang nhìn mình đầy thâm ý, thế là vội vã dời mắt đi. Tiếp theo, chỉ nghe Hoa Thành hờ hững nói: “Kẻ trộm linh hồn thai nhi tự đứng ra đi. Đừng lãng phí thời gian của ta.”

    Đám quỷ kinh ngạc, nhao nhao hỏi: “Trong số chúng ta?”

    “Ta còn tưởng là từ bên ngoài tới…”

    “Kẻ nào thế, mau tự đứng ra đi!”

    Hồi lâu sau, sóng to gió lớn gần như lắng xuống, nhưng lại chẳng ai đứng ra. Hoa Thành nói: “Tốt lắm, quả nhiên rất dũng cảm. Nam trái nữ phải, tách ra.”

    Tuy cảm thấy khó hiểu, song đám quỷ nào dám làm trái lời Hoa Thành, chúng lập tức làm theo lời hắn, loạt soạt tách thành hai nhóm lớn. Nam quỷ chen chúc phía bên trái, miệng mồm thô lỗ; nữ quỷ đều ở bên phải, hầu như ai nấy cũng yểu điệu duyên dáng. Hoa Thành và Tạ Liên nhìn nhau, đi thẳng đến bên phải, quan sát sơ qua đám nữ quỷ, đảo mắt một cái lướt qua gần mười ả.

    Sau vài bước, lúc đi ngang qua trước người một nữ quỷ, Tạ Liên thoáng dừng bước. Nữ quỷ này mặc váy dài, mặt thoa một lớp phấn trắng dày cộm, trắng đến mức dọa người, gần như chẳng thể nhìn ra diện mạo ban đầu, nhưng gương mặt trang điểm quá mức diễm lệ khoa trương của ả lại có phần quen mắt, Tạ Liên cất tiếng hỏi: “Lan Xương cô nương?”

    Nữ quỷ sửng sốt, như thể ả mới là kẻ gặp phải quỷ. Quả nhiên, đây chính là nữ quỷ lần trước quấy rầy Tạ Liên ở đầu đường chợ Quỷ, cãi nhau với đồ tể heo trên đường, còn cười nhạo y “bất lực”, đồng thời tuyên truyền chuyện này đến mức con quỷ nào cũng biết – Nữ quỷ Lan Xương.

    Sau phút kinh ngạc, ả ưỡn hông ngẩng đầu, nói: “Sao nào? Ngươi bất lực là ngươi tự nói mà! Ta đâu có đổ oan cho ngươi! Chẳng lẽ còn muốn thành chủ dạy ta một bài học để trả thù?”

    Tuy đám nữ quỷ nữ yêu xung quanh đều thấy hơi căng thẳng, nhưng nghe ả nói vậy vẫn bắt đầu cười rúc rích. Hoa Thành cũng bước tới, mặc dù không nhìn ra biểu cảm của hắn, nữ quỷ Lan Xương vẫn có chút sợ sệt, thái độ không dám quá lỗ mãng. Tạ Liên dịu giọng nói: “Lời đùa cợt như thế, cô nương thích nói gì cũng chẳng sao. Có điều linh hồn thai nhi kia đã hại vô số người, hai tay đẫm máu, không thể bỏ qua, vẫn xin cô nương trả lại trước thì hơn.”

    Cho dù Lan Xương thoa lớp phấn dày cộm, vẫn có thể nhìn ra sắc mặt ả thoắt cái tái mét. Ả liên tục lùi lại, nhưng bây giờ ả đang đứng giữa một đám nữ quỷ, lùi chưa được vài bước đã bị các nữ quỷ bên cạnh ba chân bốn cẳng túm lại, chặt đứt khả năng chạy trốn, chỉ đành hét ầm lên: “Ta không biết ngươi đang nói gì hết! Linh hồn thai nhi nào chứ?”

    Tạ Liên nói: “Xin hãy trả lại đi.”

    Lan Xương cãi cố: “Ta trả cái gì? Ta có lấy gì đâu! Ngươi nói ta trộm đồ từ phòng thành chủ, nhưng ai ai cũng biết không thể lấy đồ từ phòng thành chủ mà, lấy cái gì cũng không bước ra được!”

    Đám quỷ đều nói “đúng vậy”, “không sai”, “biết mà”, đồ tể heo cũng la lối. Lan Xương nói tiếp: “Cực Lạc phường bốc cháy cũng là chuyện mới xảy ra chốc lát, nãy giờ ta vẫn ở trên đường, từ đầu chí cuối chưa từng rời đi, vậy nếu như ta trộm đồ, chắc chắn vẫn chưa kịp giấu đi phải không?” Nói đoạn ả xòe tay ra, tỏ vẻ hai tay mình trống trơn, còn vén váy tỏ ý mình không giấu thứ gì.

    Tạ Liên hỏi: “Cô nương, lần trước ta gặp ngươi trong gió lạnh run người, ngươi mặc đồ mỏng tang. Hôm nay trời trong nắng ấm, tại sao ngươi lại mặc váy dài? Ngươi đột nhiên muốn đổi quần áo, hay là muốn che giấu điều gì?”

    Nghe Tạ Liên nhắc, đám quỷ mới phát hiện, ngày thường Lan Xương đều ăn mặc hở hang, Tạ Liên nói ả “mặc đồ mỏng tang” đã là cách nói khách sáo lắm rồi, mỗi lần đi trên đường gần như ả đều cởi trần lộ ngực. Hôm nay ả lại mặc váy dài, che kín cả eo lẫn chân, quả thật rất kỳ lạ. Chưa kể trước đó Hoa Thành dẫn Tạ Liên đi dạo chợ Quỷ, lúc đám quỷ nhốn nháo đưa thức ăn cũng chẳng thấy Lan Xương ngày xưa thích nhất chửi đổng giữa đường chọc người chú ý, tích cực tuyên truyền “là y bất lực chứ không phải ta không ổn”, thế là đám quỷ bắt đầu xôn xao. Tạ Liên từ tốn nói: “Không phải ngươi lấy đi thứ không thuộc về mình, ngươi chỉ lấy một bộ phận trên cơ thể mình mà thôi. Linh hồn thai nhi hiện đang ở trong bụng ngươi!”

    Nếu kẻ đánh cắp linh hồn thai nhi không dùng cách khác rời đi, cũng không ở lại trong thiên điện, vậy chỉ còn lại duy nhất một khả năng: Kẻ này quang minh chính đại rời đi từ cửa chính.

    Nếu linh hồn thai nhi đã được sinh ra, thế thì nó là một đứa trẻ, một con người độc lập. Nhưng linh hồn thai nhi này bị cưỡng ép mổ ra từ cơ thể mẹ khi chưa đủ tháng, cho nên nếu mẹ nó nhét nó trở lại bụng mình, đương nhiên vẫn tính là “thứ thuộc về mình”. Không, nên nói rằng, linh hồn thai nhi vốn là một miếng thịt trên người ả, là một bộ phận của ả. Suy cho cùng mẹ con máu mủ tình thâm, trong tình huống này, bọn họ chính là một thể, vì vậy dĩ nhiên nữ quỷ có thể bình yên vô sự, quang minh chính đại ra khỏi mọi cánh cổng trong Cực Lạc phường.

    Cho nên, kẻ đánh cắp linh hồn thai nhi nhất định là nữ quỷ, là mẹ ruột của linh hồn thai nhi đó. Tức tốc phong tỏa chợ Quỷ, tìm tất cả những nữ quỷ xuất hiện trên đường trước và sau vụ cháy tới kiểm tra, chắc chắn có thể tóm gọn. Có lẽ ngay sau khi bước vào thiên điện, Hoa Thành đã nghĩ ra những điều này.

    Đột nhiên, Lan Xương kêu ré lên, hai tay dồn sức che bụng mình.

    Thuộc truyện: Thiên quan tứ phúc